Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ mổ lấy
thai, tuổi thai kết thúc thai kỳ, sinh non, sinh cự non,
thai chậm phát triển, rau bong non, tỷ vong chu
sinh, hội chứng HELLP ở nhóm điều trị bằng canxi
không có sự khác biệt so với nhóm chứng. Nghiên
cứu chúng tôi tương đồng với tác giả Hofmeyr GJ và
cộng sự trng một tổng quan Cochrane dựa trên 10
thử nghiệm, 6.634 trường hợp, tác giả cũng không
tìm thấy liên quan giữa cung cấp canxi và các kết
quả thai kỳ bất lợi trên. Tuy nhiên, theo Aamer I và
cộng sự (2011), giảm 30% tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh
ở nhóm điều trị canxi và nhóm giả dược (RR 0,70,
95% Cl 0,56-0,88), giảm tỷ lệ sinh non 12% (RR 0,88,
95% Cl 0,78-0,99)[8]. Theo nghiên cứu của Hofmeyr
và cộng sự, điều trị canxi ở những đối tượng tăng
nguy cơ TSG làm giảm khả năng sinh non so với
nhóm chứng, nhưng không có ý nghĩa thống kê (RR
0,81, 95% Cl 0,64-1,03) [12]. Mặt khác, một đánh giá
bởi Trumbo và Ellwood cho cục Quản lý Thực phẩm
và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã chỉ ra rằng lợi ích
của việc bổ sung canxi trong khi mang thai không
thể áp dụng đối với Mỹ và các quần thể với lượng
canxi đầy đủ cơ sở [14]. Theo Hofmeyr GJ (2013), ghi
nhận từ việc đánh giá của WHO trong việc sử dụng
1500mg canxi/ ngày từ quý II của thai kì không có
ý nghĩa trong việc điều trị dự phòng TSG (RR 0,92,
95% Cl 0,65-0,97), tuy nhiên có ý nghĩa trong việc
giảm tử vong mẹ và tình trạng bệnh nặng (RR 0,80,
95% Cl 0,65-0,97), ít trường hợp tử vong hơn khi bổ
sung canxi (1/4151 so với 6/4161 phụ nữ) [11], [12].
Nhìn chung, hiệu quả điều trị dự phòng TSG và
các rối lạn tăng HA trong thai kỳ còn nhiều bàn
cãi. Các nghiên cứu cho các kết quả khác nhau có
thể do tiêu chuẩn lựa chọn nhó nguy cơ cao can
thiệp khác nhau, cở mẫu khác nhau và đặc biệt
trên quần thể khác nhau với chế độ cung cấp canxi
hàng ngày khác nhau. Tuy nhiên các khuyến cáo
đối với điều trị dự phòng canxi còn dè dặt. Mặc
dù WHO (2011) khuyến cáo canxi có hiệu quả dự
phòng TSG trong nhóm nguy cơ cao hoặc nhóm
có chế độ ăn thiếu canxi. JOGC khuyến cáo cung
cấp canxi tối thiểu 1g/ngày đối với những trường
hợp có chế độ ăn hàng ngày cung cấp canxi< 600
mg/ngày, tuy nhiên, NICE (2013), ACOG (2013) vẫn
chưa đưa ra khuyến cáo liên quan nào mặc dù đã
đưa ra jhuyeens cáo điều trị dự phòng TSG và các
rối loặn tăng HA trong thai kỳ có đối với Aspirin.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 34 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu hiệu quả điều trị dự phòng bệnh lí tiền sản giật - sản giật bằng Canxi ở những thai phụ có nguy cơ cao tiền sản giật - sản giật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯƠNG QUANG VINH, CAO NGỌC THÀNH, NGUYỄN VŨ QUỐC HUY, VÕ VĂN ĐỨC,
NGUYỄN THỊ DIỄM THƯ, TRẦN MẠNH LINHSẢN KHOA VÀ SƠ SINH
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
54
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Trương Quang Vinh, email: vinhbms@yahoo.com.vn
Ngày nhận bài (received): 18/07/2015. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 01/08/2015. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 01/08/2015
Trương Quang Vinh, Cao Ngọc Thành, Nguyễn Vũ Quốc Huy, Võ Văn Đức, Nguyễn Thị Diễm Thư, Trần Mạnh Linh
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ DỰ PHÒNG BỆNH
LÍ TIỀN SẢN GIẬT - SẢN GIẬT BẰNG CANXI Ở NHỮNG
THAI PHỤ CÓ NGUY CƠ CAO TIỀN SẢN GIẬT - SẢN GIẬT
Tóm tắt
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả điều trị
dự phòng bệnh lý Tiền sản giật – Sản giật bằng canxi
ở những thai phụ có nguy cơ cao.
Đối tượng và phương pháp: Thử nghiệm lâm
sàng ngẫu nhiên có đối chứng. Trong số 2.998 thai
phụ đến khám, sàng lọc và theo dõi thai nghén tại
Khoa Phụ Sản, Bệnh viện Đại học Y dược Huế từ
09/2012 đến 03/2015, phát hiện 487 trường hợp
thai nghén nguy cơ cao các rối loạn tăng HA trong
thai kỳ. Trong đó 120 trường hợp đã được điều trị
dự phòng TSG bằng sử dụng Calcium Cacbonat
liều 1 gram/ngày bắt đầu từ tuổi thai tuần 20 đến
32 tuần.
Kết quả: Tỷ lệ các rối loạn tăng huyết áp trong thai
kỳ chiếm 3,74% so với toàn bộ thai nghén, trong đó
Tiền sản giật chiếm tỷ lệ 2,84%.
Tỷ lệ các rối loạn tăng HA trong thai kỳ và tỷ lệ TSG
chung ở nhóm điều trị canxi và nhóm chứng, tương
ứng là 23,05% và 12,50%, 18,00% và 9,20%. Tuy nhiên,
can thiệp canxi không cải thiện tỷ lệ TSG so với nhóm
chứng (RR = 0,55, CKT 95%; 0,29–1,03, p=0,062).
Không có sự khác biệt về tỷ lệ tăng HA thai nghén,
tăng HA mãn, TSG chồng chất như kết quả thai kỳ và
các biến chứng giữa 2 nhóm.
Kết luận: Điều trị canxi không làm giảm tỷ lệ các
rối loạn tăng HA trong thai kỳ và tỷ lệ TSG cũng như
cải thiện các kết quả thai kỳ bất lợi.
Abstract
CALCIUM SUPPLEMENTATION DURING PREGNANCY
FOR PREVENTING HYPERTENSIVE DISORDERS
Objective: To study the effect of aspirin in the
prevention of pre-eclampsia in high-risk women.
Materials and methods: A randomized
controlled trial study design. From the 487 high risk
pregnancy, 120 participants were randomised to start
canlcium 1g/day at 20 to 32 gestation.
Results: Of 2,998 patients with complete outcome
data, there were 3.74% of hypertension disorder, and
2.84% cases of pre-eclampsia.
Calcium supplementation during pregnancy did
not reduce the rate of pre-eclampsia (relative risk
(RR) 0.55, 95% CI 0.29 – 1.03, p=0,062); hypertension
disorder (RR 0,59, 95% CI 0.35 – 1,01, p=0,053).
Conclusion: Calcium supplementation during
pregnancy did not prevent pre-eclampsia, pregnancy-
associated hypertension, or adverse outcomes in high
risk pregnant.
Key word: hypertension disorder, pre-eclampsia,
gestational hypertension; screening, pregnancy,
prevention, prophylaxis
1. Đặt vấn đề
Tiền sản giật – sản giật (TSG – SG) là bệnh lý thường
gặp trong thai kỳ, theo tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ TSG
thay đổi khoảng 5 – 10% trong tất cả các lần mang thai
và có thể gặp đến 18% tại các nước đang phát triển [13].
Đây là bệnh lý có nhiều biến chứng cho cả thai nhi và bà
mẹ, đặc biệt là một trong năm tai biến sản khoa hàng
đầu gây tử vong mẹ và trẻ sơ sinh. Không những vậy,
hậu quả của TSG – SG còn kéo dài dai dẳng sau khi sinh,
ở các lần sinh tiếp theo và là yếu tố nguy cơ liên quan
đến các bệnh lý tim mạch. Ở một số nước đang phát
triển thuộc châu Phi và châu Á, gần 1/10 các trường hợp
tử vong mẹ có liên quan đến rối loạn huyết áp trong thai
kỳ, ở châu Mỹ Latin, 1/4 trường hợp tử vong mẹ được xác
định do TSG kết hợp với những biến chứng kèm theo.
Đặc biệt, tử vong chu sinh tăng gấp 5 lần ở các thai phụ
TSG do hậu quả của thai chậm phát triển trong tử cung
và sinh non [15]. Ở Việt Nam, tỷ lệ TSG – SG chưa được
thống kê đầy đủ. Tại Bệnh viện Trung ương Huế, nghiên
cứu trong những năm 90 thì tỷ lệ TSG là 8,35% [4], theo
tác giả Ngô Văn Tài, năm 2001, tỷ lệ TSG tại Bệnh viện
Phụ sản Trung ương là 4% [6].
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
55
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 54-61, 2015
Tuy nhiên, phần lớn tử vong do TSG – SG có thể
tránh được thông qua việc phát hiện kịp thời và kiểm
soát hiệu quả bệnh và các biến chứng. Tối ưu của công
tác chăm sóc sức khỏe thai sản liên quan đến bệnh lý
TSG – SG vẫn là sàng lọc và dự phòng được sự hình
thành TSG qua đó ngăn chặn sự hình thành bệnh,
ngăn chặn tiến triển nặng cũng như xuất hiện các biến
chứng. Chính vì vậy WHO đã không ngừng tích cực
đưa ra các bằng chứng lâm sàng, các khuyến cáo nhằm
thúc đẩy áp dụng trong thực hành quản lý tiền sản đối
với bệnh lý TSG – SG [16], [17]. Mặc dù nguyên nhân và
cơ chế bệnh sinh của TSG – SG vẫn chưa được biết rõ
nhưng các biện pháp dự báo và dự phòng vẫn được
tiến hành nghiên cứu. Trong thời gian gần đây, các
nghiên cứu tập trung đến tuổi của mẹ, huyết áp trung
bình động mạch, Doppler động mạch tử cung và một
loạt các chất chỉ điểm sinh hóa liên quan đến TSG cho
phép xác định tỷ lệ dự báo thai phụ sẽ phát triển bệnh
lý TSG – SG. Một công trình nghiên cứu mới nhất năm
2013 trên cỡ mẫu rất lớn, mô hình phối hợp các yếu tố
dự báo TSG gồm các yết tố nguy cơ mẹ, huyết áp động
mạch trung bình, siêu âm doppler động mạch tử cung
và xét nghiệm sinh hóa máu mẹ tại thời điểm 11 – 13
tuần qua thuật toán có thể dự báo TSG sớm lên đến
91,0% và kết luận rằng có thể dự báo một cách hữu
hiệu TSG từ thời điểm 11 – 13 tuần tuổi thai và là cơ sở
cho những can thiệp dự phòng sớm trong thai kỳ [9].
Bên cạnh tìm ra những yếu tố sàng lọc TSG thì điều
trị dự phòng hình thành bệnh lý cũng đã được nghiên
cứu rộng rãi. Hiện nay trên thế giới có nhiều nghiên
cứu sử dụng các can thiệp như chất chống oxy hóa, các
vitamin C, E, canxi cacbonat, giảm cân, chế độ ăn, liệu
pháp Aspirin liều thấp ở phụ nữ có nguy cơ cao đã
được thực hiện mục đích dự phòng TSG – SG. Giảm tỷ
lệ TSG bằng liệu pháp Aspirin liều thấp đã được chứng
minh trong nhiều thử nghiệm [16], [3]. Tương tự, cung
cấp canxi có thể có lợi ích trong dự phòng TSG ở một
số quần thể nguy cơ cao, đặc biệt là những người có
chế độ ăn canxi thấp, các can thiệp khác vẫn còn đang
cần được chứng minh [17].
Các công trình nghiên cứu về bệnh lý TSG ở Việt
Nam nói chung và khu vực miền Trung nói riêng đã tập
trung nhiều vào lĩnh vực dịch tễ học, các triệu chứng
lâm sàng, cận lâm sàng, chẩn đoán và điều trị trên thai
phụ đã phát triển bệnh lý TSG [1], [2], [4], [5], [6] tuy
nhiên, thời gian gần đây, dự báo TSG và điều trị dự
phòng đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong
tiếp cận bệnh lý này. Với thực trạng bệnh lý TSG – SG
còn nhiều bàn cải về điều trị cũng như chưa có biện
pháp dự báo dự phòng được áp cụ thể thì nghiên cứu
các yếu tố sàng lọc và điều trị dự phòng bệnh lý TSG là
hết sức cần thiết để góp phần giảm tỷ lệ bệnh tật, tử
vong do bệnh lý này gây ra. Xuất phát từ những vần đề
trên, tôi đề xuất đề tài nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả
điều trị dự phòng bệnh lý Tiền sản giật – Sản giật bằng
canxi ở những thai phụ có nguy cơ cao.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả điều trị dự
phòng bệnh lý Tiền sản giật – Sản giật bằng canxi ở
những thai phụ có nguy cơ cao.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Dối tượng nghiên cứu
Những thai phụ đến khám, sàng lọc quý I xác định
nguy cơ cao các rối loạn tăng HA trong thai kỳ tại Khoa
Phụ sản Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh:
- Mang thai đơn thai.
- Đến khám thai, làm các xét nghiệm, thăm dò
sàng lọc trong quý I thai kỳ ở tuổi thai từ 11 tuần 0
ngày đến 13 tuần 6 ngày.
- Kết quả sàng lọc nguy cơ cho mọi rối loạn tăng
HA trong thai kỳ theo FMF - The Fetal Medicine
Foundation ≥ 1/100.
- Được theo dõi cho đến khi kết thúc thai kỳ tại
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ.
- Đa thai.
- Dị tật hình thái thai được phát hiện qua sàng lọc
quý I: thai vô sọ, vô não, hở thành bụng, bất thường
cột sống
- Sẩy thai, thai chết trong tử cung mà nguyên
nhân không phải do bệnh lý hoặc các biến chứng của
TSG – SG.
- Mất dấu trong quá trình theo dõi.
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu.
- Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng -
thời gian nghiên cứu từ 09/2012 đến 03/2015
2.2.2. Phương pháp tiến hành.
Bước 1. Sàng lọc nguy cơ tăng HA trong thai kỳ:
Thu thập thông tin tiền sử và bệnh sử:
- Số lần mang thai gồm: Thai con so nếu chưa có
lần sinh thai trên 22 tuần. Thai con rạ có hoặc không
có tiền sử mang thai bị TSG.
- Phương pháp thụ thai gồm: có thai tự nhiên, sử
dụng thuốc kích thích rụng trứng.
- Tiền sử sản khoa, tiếp xúc với thuốc lá trong quá
trình mang thai.
- Tiền sử bệnh lý: tăng HA mãn tính, đái tháo
đường, hội chứng kháng phospholipid, rối loạn đông
TRƯƠNG QUANG VINH, CAO NGỌC THÀNH, NGUYỄN VŨ QUỐC HUY, VÕ VĂN ĐỨC,
NGUYỄN THỊ DIỄM THƯ, TRẦN MẠNH LINHSẢN KHOA VÀ SƠ SINH
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
56
máu, suy giảm miễn dịch, bệnh hồng cầu lưỡi liềm,
tiền sử bệnh lý tim mạch, bệnh thận.
- Tiền sử gia đình mẹ, chị em gái mang thai TSG,
gia đình có người tăng HA.
Khám lâm sàng:
- Tuổi mẹ, chủng tộc, tuổi thai, khám các dấu hiệu
thai nghén bất thường trong 3 tháng đầu. Tính chỉ số
khối cơ thể (BMI).
- Đo HA: ghi kết quả hiển thị HATT, HATr mỗi lần đo
và kết quả HATB, HATB tính dựa trên kết quả trung bình
các lần đo, được thể hiện theo bội số trung vị MoM [28].
Siêu âm sàng lọc quí I thai kỳ:
- Đo chiều dài đầu – mông, độ dày khoảng mờ da
gáy, tìm các dị tật thai nhi.
- Siêu âm Doppler động mạch tử cung, đo chỉ số
xung – PI 2 bên. Xác định giá trị PI nhỏ nhất và thể
hiện theo bội số trung vị MoM [13].
Xét nghiệm:
- PAPP-A: sử dụng kit PAPP-A (A098-201) và hệ thống
DELFIA XPRESS analyzer (PerkinElmer Life and Analytical
Sciences, Wallac Oy, Mustionkatu 6, Turku, Finland).
- Nồng độ PAPP-A được hiệu chỉnh theo tuổi thai,
cân nặng, chủng tộc và được thể hiện theo bội số
trung vị MoM.
Xác định nguy cơ hình thành TSG về sau dựa theo
FMF gồm:
- Nguy cơ cho TSG sớm.
- Nguy cơ cho TSG ở bất kỳ mọi thời điểm trong
thai kỳ.
- Nguy cơ cho tất cả các rối loạn tăng HA trong
thai kỳ.
Chọn vào nhóm nguy cơ cao nếu nguy cơ cho mọi
rối loạn tăng HA trong thai kỳ ≥ 1/100.
Bước 2. Phân nhóm và can thiệp dự phòng các rối
loạn tăng HA trong thai kỳ bằng canxi.
Chọn bệnh nhân nguy cơ cao các rối loạn tăng HA
trong thai kỳ, phân bố ngẫu nhiên vào 2 nhóm can
thiệp như sau:
Các thai phụ sau khi xác định nguy cơ cao các rối
loạn tăng HA trong thai kỳ sẽ được phòng sàng lọc
Tiền sản chuyển cho nhóm nghiên cứu quản lý theo
mã số khám bệnh, khuyết tên.
Bốc xăm chia ngẫu nhiên các bệnh nhân theo mã
số khám bệnh làm 2 nhóm can thiệp:
- Nhóm 1: Sử dụng Calcium Cacbonat liều 1 gram/
ngày, bắt đầu điều trị ở tuổi thai từ tuần 20 – 32 tuần.
Được được ký hiệu Ca.
- Nhóm 2: Được theo dõi và quản lý thai nghén,
không sữ dụng thuốc Calcium Cacbonat và Aspirin.
Được được ký hiệu Ch.
Chuyển thai phụ đã được phân nhóm điều trị theo
ký hiệu cho các bác sĩ chuyên trách, tư vấn và tiến
hành điều trị.
Bước 3. Theo dõi.
Dữ liệu kết quả thai kỳ được theo dõi từ thời điểm
sàng lọc quý I cho đến hết khi chuyển dạ và đến thời
gian hậu sản, 6 tuần sau sinh.
- Dựa vào thông tin thai phụ đã lưu trữ từ lần
khám sàng lọc quý I thai kỳ, dự tính thời điểm khám
tiếp theo, sàng lọc quý II, quý III và thời điểm kết thúc
thai kỳ.
- Các thai phụ được lên lịch theo dõi và gọi điện
thoại hẹn thăm khám ở các lần khám tiếp theo.
- Theo dõi sử dụng thuốc, loại bỏ khỏi nhóm
nghiên cứu các trường hợp không sử dụng thuốc
theo đúng phác đồ.
- Sản phụ theo dõi tại Bệnh viện Trường Đại học Y
Dược Huế, kết quả thai kỳ được thu thập thông qua
hồ sơ bệnh án. Đối với các trường hợp xuất hiện các
rối loạn tăng HA, được trực tiếp theo dõi, kết hợp hồ
sơ bệnh án, ghi nhận tình trạng bệnh lý, diễn biến, các
biến chứng và kết quả kết thúc thai kỳ cho mẹ và con.
Kết quả thai kỳ:
Phân loại rối loại tăng HA trong thai kỳ tiếp tục sử
dụng phân loại truyền thống vẫn còn được sự dụng
cho đến hiện tại gồm 4 nhóm:
- Tăng huyết áp thai nghén: HATT < 160 mmHg,
HATr < 110 mmHg, không có protein niệu và không
triệu chứng.
- Tiền sản giật – sản giật: TSG được định nghĩa xác
định theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Hiêp hội quốc tế
nghiên cứu về tăng HA trong thai kỳ - International
Society for the Study of Hypertension in Pregnancy:
+ Tăng HA ≥ 20 tuần và protein niệu.
+ HATT ≥ 140 mmHg hoặc HATr ≥ 90 mmHg tại 2
thời điểm đo cách nhau 4 giờ và;
+ Protein niệu ≥ 300mg/24giờ hoặc có 2 lần
dương tính (++) trên thử nghiệm dipstick với nước
tiểu giữa dòng hoặc lấy qua ống thông tiểu.
- Tăng huyết áp mãn tính: Tăng HA trước khi mang
thai hoặc trước 20 tuần thai kỳ hoặc vẫn còn tồn tại
sau 6 tháng hậu sản.
- Tiền sản giật phát triển chồng chất trên Tăng
huyết áp mãn tính:
+ Đợt cấp của tăng HA (trước đó đã được kiểm
soát tốt bằng thuốc hại HA), và/hoặc;
+ Xuất hiện protein niệu, và/hoặc tăng đột ngột
protein niệu một cách rõ ràng bền vững.
Phân loại TSG – SG theo thời gian xuất hiện được
chia thành 2 nhóm dựa vào thời điểm phát triển TSG:
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
57
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 54-61, 2015
- TSG sớm: trước 34 tuần.
- TSG trung bình: 34 – 37 tuần
- TSG muộn: sau 37 tuần, chuyển dạ và hậu sản.
Phân loại theo mức độ bệnh lý TSG theo ACOG
gồm 2 mức độ:
- TSG (Tăng HA ≥ 20 tuần và protein niệu)
- TSG nặng: Xuất hiện tăng HA kèm theo bất kỳ
dấu hiệu sau:
+ Tăng HA nặng (tâm thu ≥ 160 mmHg hoặc tâm
trương ≥ 110 mmHg).
+ Các triệu chứng thần kinh trung ương nặng và
liên tục, giảm tiểu cầu dưới 100.000/mm3, tăng các
men gan gấp đôi ngưỡng trên giới hạn trên bình
thường, phù phổi, creatinine huyết thanh tăng trên
1,1 mg/dl.
Các dữ liệu được thu thập vào phiếu nghiên cứu
và nhập vào phần mềm Excel đồng thời lưu vào dữ
liệu sàng lọc tiền sản tại Bệnh viện Trường Đại học Y
Dược Huế.
2.3 Xữ lý số liệu.
Sự xuất hiện TSG là biến số phụ thuộc của nghiên
cứu và cũng là tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả can thiệp
dự phòng.
Các biến số và giá trị xử lí theo phương pháp thống
kê, tính tỷ lệ, tần số, trung bình. Đối với các biến độc
lập liên tục, so sánh giữa các nhóm bằng test Mann-
Whitney cho phân phối không chuẩn, t-test đối với
phân phối chuẩn.
Với các biến nhị phân, so sánh bằng tỷ lệ thống
kê bằng χ2-test hoặc test chính xác Fisher khi tần số
lý thuyết < 4.
Kết quả can thiệp ở hai nhóm được diễn giãi theo
bảng 2 x 2. Nguy cơ tương đối (Relative risk) được sử
dụng để đo lường mối liên quan giữa 2 biến nhị phân có
hoặc không có TSG có cân nhắc đến mức độ mạnh - yếu.
- Nếu RR > 1, yếu tố phơi nhiễm làm tăng khả
năng mắc bệnh.
- Nếu RR = 1, không có mối liên hệ nào giữa yếu tố
phơi nhiễm và bệnh.
- Nếu RR < 1, yếu tố phơi nhiễm làm giảm khả
năng mắc bệnh.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với mức p < 0,05.
3. Kết quả nghiên cứu
Trong thời gian nghiên cứu, 3.317 trường hợp đã
được tiến hành sàng lọc bệnh lý TSG tại thời điểm 11
tuần đến 13 tuần 6 ngày cùng với thời điểm sàng lọc
quý I thai kỳ. Có 2.998 trường hợp (90,38%) đã được
theo dõi đến kết thúc thai kỳ. Loại bỏ khỏi đối tượng
nghiên cứu 319 trường hợp (9,62%) mất dấu trong
quá trình nghiên cứu gồm 7,81% mất liên lạc, 0,39%
thai dị dạng phát hiện muộn, có chỉ định chấm dứt
thai kỳ, 1,03% thai chết lưu trước 22 tuần và 0,39%
thai chết lưu muộn sau 22 tuần không liên quan đến
bệnh lý TSG – SG
3.1. Kết quả chung của nghiên cứu.
* Chúng tôi loại bỏ 111 trường hợp can thiệp
Aspirin để đánh giá vai trò cảu canxi trong dự phòng
các rối loạn tăng HA trong thai kỳ.
Trong số 2.998 trường hợp, chúng tôi phát hiện
487 trường hợp thai nghén nguy cơ cao phát triển
các rối loạn tăng HA trong thai kỳ, tỷ lệ 16,24%.
3.2. Các rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ.
Có 112 trường hợp xuất hiện các rối loạn tăng
HA trong thai kỳ, chiếm tỷ lệ 3,74%. Trong đó, có 85
trường hợp phát triển TSG, chiếm tỷ lệ 2,84%, tỷ lệ
tăng HA thai nghén 0,5%.
3.3. Một số đặc điểm chung mẫu nghiên cứu
Kết quả thai kỳ Số lượng Tỷ lệ (%)
Nhóm nguy cơ thấp 2.511 83,76
Nhóm nguy cơ cao
- Điều trị canxi
- Can thiệp Aspirin*
- Nhóm chứng
487
120
111
256
16,24
4,00
3,70
8,54
Tổng 2.998 100,00
Bảng 1. Nguy cơ cao các rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ
Các rối loạn tăng HA trong thai kỳ Số lượng Tỷ lệ (%)
Không có rối loạn HA trong thai kỳ 2.886 96,26
Rối loạn tăng HA trong thai kỳ:
- Tăng HA thai nghén
- TSG
- Tăng HA mãn
- TSG chồng chất
112
15
85
5
7
3,74
0,50
2,84
0,17
0,23
Tổng 2.998 100,00
Bảng 2. Các rối loạn tăng HA trong thai kỳ
Các đặc điểm Nhóm chứng (n = 256) Nhóm điều trị canxi (n= 120) p
Tuổi mẹ trung bình (năm, trung vị) 31,2 (30,5–31,9) 29,8 (28,9–30,6) 0,012
BMI (kg/m2, trung vị) 21,0 (20,8–21.4) 21,1 (20,5–21,6) -
CRL (mm, trung vị) 61,0 (55,0–69,6) 62,4 (60,7–64,0) -
Độ mờ da gáy (mm, trung vị) 1,6 (1,4–1,9) 1,6 (1,5–1,7) -
Tuổi thai (ngày, trung vị) 88,1 (87,5–88,6) 88,2 (87,3–89,0) -
Số lần mang thai:
− Con so (n,%)
− Con rạ mang thai bị TSG (n,%)
− Con rạ mang thai không bị TSG (n,%)
149 (58,20)
16 (6,20)
91 (35,5)
60 (50,00)
1 (0,80)
59 (49,20)
-
-
-
Phương pháp có thai:
− Mang thai tự nhiên (n,%)
− Dùng thuốc kích thích rụng trứng (n,%)
246 (96,10)
10 (3,90)
120 (100,00)
0 (0,00)
-
-
Tăng HA mãn 4 (1,56) 1 (0,80) -
Gia đình có người mang thai TSG (n,%) 14 (5,50) 4 (3,30) -
Có tiếp xúc thuốc lá trong thai kỳ (n,%) 15 (5,90) 10 (8,30) -
Bảng 3. Một số đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
TRƯƠNG QUANG VINH, CAO NGỌC THÀNH, NGUYỄN VŨ QUỐC HUY, VÕ VĂN ĐỨC,
NGUYỄN THỊ DIỄM THƯ, TRẦN MẠNH LINHSẢN KHOA VÀ SƠ SINH
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
58
Nguy cơ rối loạn tăng HA theo FMF (%)
− Nguy cơ TSG sớm
− Nguy cơ TSG mọi thời điểm
− Nguy cơ cho mọi rối loạn tăng HA
1,75 (0,99–2,53)
2,64 (1,73–3,55)
4,38 (3,11–5,65)
1,40 90,43–2,36)
2,53 (0,91–4,15)
3,72 (1,77–5,66)
0,403
0,477
0,315
Không có sự khác biệt về nguy cơ TSG sớm, TSG
cho mọi thời điểm và nguy cơ cho mọi rối loạn tăng
HA trong thai kỳ giữa hai nhóm.
3.4. Kết quả thai kỳ và các biến chứng.
Không có sự khác biệt về tỷ lệ mổ lấy thai, tỷ lệ
sinh non, sinh cực non, tỷ lệ rau bong non, thai chậm
phát triển, hộ chứng HELLP giữa hai nhóm.
3.5. Tỷ lệ phát triển các rối loạn tăng HA trong
thai kỳ ở nhóm điều trị và hiệu quả điều trị
Có sự khác biệt về tỷ lệ các rối loạn tăng HA trong
thai kỳ giữa nhóm chứng (23,05%) và nhóm điều trị
canxi (12,50%), p = 0,0239. Tương tự, có sự khác biệt
về tỷ lệ TSG giữa nhóm chứng (18,00%) và nhóm điều
trị canxi (9,20%). Tuy nhiên, không có sự khác biệt về
tỷ lệ TSG sớm, TSG trung gian giữa 2 nhóm.
Không có sự khác biệt về tỷ lệ tăng HA thai nghén,
tăng HA mãn, TSG chồng chất giữa 2 nhóm.
Kết quả thai kỳ Nhóm chứng (n = 256) Nhóm điều trị canxi (n= 120) p
Tuổi thai (tuần, trung vị) 38,77 ( 38,56–38,980) 38,73 (38,44–39,03) -
Cân nặng (gram, trung vị) 3067,9 (3011,3–3124,6) 3166,7(3080,3–3253,0) 0,029
Mổ lấy thai (n,%) 138 (53,90) 59 (49,20) -
Sinh thường (n,%) 118 (46,10) 61 (50,80) -
Sinh non ≤ 37 tuần (n,%) 26 (10,20) 10 (8,30) -
Sinh cực non < 34 tuần (n,%) 4 (3,90) 2 (1,70) -
Hội chứng HELLP (n,%) 8 (3,10) 1 (0,80) -
Tử vong chu sinh (n,%) 6 (2,30) 1 (0,80) -
Rau bong non (n,%) 2 (0,80) 1 (0,80) -
Thai chậm phát triển (n,%) 10 (3,90) 1 (0,80) -
Bảng 4. Kết quả thai kỳ và các biến chứng
Rối loạn tăng HA trong thai kỳ Nhóm chứng (n = 256) Nhóm điều trị canxi (n= 120) p
Các rối loạn tăng HA trong thai kỳ 59 23,05 15 12,50 0,0239
TSG chung 46 18,00 11 9,20 0,0115
Phân loại theo thơi gian:
− TSG sớm
− TSG trung gian
− TSG muộn
9
14
23
3,51
5,47
8,98
1
2
8
0,83
1,67
6,67
-
-
-
Phân loại theo mức độ:
− TSG nặng
− TSG
10
36
3,91
14,06
4
7
3,33
5,83
-
0,0153
Tăng HA thai nghén 9 3,50 3 2,50 -
Tăng HA mãn 1 0,40 0 0,00 -
TSG chồng chất 3 1,20 1 0,80 -
Bảng 5. Tỷ lệ phát triển các rối loạn tăng HA trong thai kỳ và hiệu quả điều trị
Canxi (n, %) Chứng (n,%) RR KTC 95% P
Các rối loạn tăng HA trong thai kỳ 15 (12,50) 59 (23,05) 0,59 0,35–1,01 0,053
TSG chung 11 (9,20) 46 (18,00) 0,55 0,29–1,03 0,062
Bảng 6. Kết quả điều trị dự phòng các rối loặn tăng HA trong thai kỳ bằng canxi
Can thiệp canxi không cải thiện tỷ lệ các rối loạn
tăng HA trong thai kỳ và TSG, p > ,005.
4. Bàn luận
4.1. Lựa chọn nhóm nguy cơ cao.
Mặc dù các Hiệp hội chuyên ngành trên Thế
Giới đã đưa ra các hướng dẫn chăm sóc tiền sản
trong đó có hướng dẫn về quản lý TSG. Khuyến
cáo cho lần khám thai đều tiên, những trường hợp
nguy cơ cao TSG dựa trên các yếu tố tiền sử mẹ,
nên được xếp vào nhóm nguy cơ cao và cần can
thiệp dự phòng. Theo ACOG, nguy cơ TSG gồm
mang thai con so, tiền sử mang thai TSG, tăng HA
mãn tính, bệnh thận mãn tính, đa thai, thụ tinh
trong ống nghiệm, tiền sử gia đình có người mang
thai TSG, đái đường, béo phì, lupus ban đỏ hệ
thống, mang thai trên 40 tuổi. Theo NICE, nguy cơ
TSG trung bình gồm thai con so, mang thai trên 40
tuổi, khoảng cách giữa các lần mang thai trên 10
năm, BMI > 35 kg/m2, đa thai, tiền sử gia đinh TSG.
Các đối tượng nguy cơ cao gồm tiền sủa mang
thai TSG, tăng HA mãn tính, bệnh thận mãn tính,
bệnh tử miễn, đái đường. Tuy nhiên, đánh giá hiệu
quả sàng lọc bằng các yếu tố nguy cơ mẹ vẫn còn
nhiều hạn chế. Một nghiên cứu của Leon Poon cho
thấy nếu sử dụng các yếu tố theo NICE trong dự
báo TSG cho tỷ lệ phát hiện TSG sớm, TSG trung
gian, TSG muộn thứ tự là 89,2%, 93,0% và 85,0%
tuy nhiên tỷ lệ dương tính giả đến 64,1%. Như vậy,
vẫn có những hạn chế trong xác định nhóm nguy
cơ cao các rối loạn tăng HA trong thai kỳ.
Chúng tôi lựa chọn nhóm nguy cơ cao dựa
vào tính nguy cơ các rối loạn tăng HA trong thai
kỳ theo FMF. FMF đánh giá nguy cơ TSG dựa vào
các yếu tố gồm: tuổi mẹ, chủng tộc, BMI. Yếu tố
tiền sử gồm: Đái tháo đường type 1, tiền sử tăng
huyết mãn tính, tiền sử có hút thuốc lá trong thời
kỳ mang thai, bệnh hệ thống, tiền sử gia đình có
người TSG – SG. Phương pháp có thai: tự nhiên,
IVF và chỉ dùng thuốc kích phóng noãn không IVF.
Tiền sử sản khoa: Con so, con rạ không hoặc có tiền
sử mang thai TSG-SG.Chỉ số xung – PI động mạch
tử cung thấp nhất. HA động mạch trung bình, xét
nghiệm PAPP-A. Các chỉ số PI, HATB, PAPP-A được
hiệu chỉnh các yếu tố liên quan và diễn giãi theo
bội số trung vị MoM. Thuật toán phối hợp các yếu
tố trên đã được chứng minh phát hiện TSG sớm,
TSG trung gian và TSG muộn lên đến 90%, 80% và
60% với tỷ lệ dương tính giả 5%. Việc kết hợp theo
mô hình dự báo không chỉ cải thiện tỷ lệ phát hiện
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
59
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 54-61, 2015
bệnh mà còn hạn chế được tỷ lệ dương tính giả.
Như vậy đồng thời giảm được số lượng bệnh nhân
không cần thiết điều trị.
Cung cấp canxi thường xuyên đã được chúng
minh không có tác dụng dự phòng TSg ở những thai
phụ khỏe mạnh. Những người mang thai với chế độ
ăn cơ bản có thể cung cấp đủ canxi. Theo khuyến
cáo của Tổ chức y tế thế giới, điều trị dự phòng canxi
Cung cấp canxi có thể có vai trò trong dự phòng TSG
ở một số quần thể nguy cơ cao, đặc biệt là những
người có chế độ ăn canxi thấp, trong nghiên cứu
chúng tôi chỉ mới dừng lại ở xác định nhóm nguy
cơ cao các rối loạn tăng HA trong thai kỳ nhưng một
hạn chế là chưa xác định được nhóm có chế độ ăn
thiếu canxi trong đối tượng can thiệp. Trong khi
khuyến cáo của JOGC độ ăn hàng ngày được xem là
cung cấp canxi thấp khi < 600 mg/ngày
4.2. Liều và thời gian điều trị.
Trong nghiên cứu chúng tôi chọn liều can
thiệp thấp nhất là 1g/ngày theo khuyến cáo của
JOGC. Các nghiên cứu, nhìn chung thực hiên can
thiệp với liều bổ sung canxi dao động từ 500mg
đến 2.000mg/ ngày. Theo WHO, cung cấp canxi có
thể có vai trò trong dự phòng TSG ở một số quần
thể nguy cơ cao, đặc biệt là những người có chế
độ ăn canxi thấp. Bổ sung canxi, liều 1,5 – 2 gram
cacbonat canxi mỗi ngày, đã được xác định có tác
dụng dự phòng rối loạn tăng huyết áp của thai kỳ,
chất lượng các bằng chứng mức trung bình và mức
độ khuyến cáo vừa. Viện Quốc gia Y tế hiện nay
(NIH) khuyến cáo cho phụ nữ mang thai ở độ tuổi
14-18 là uống 1300 mg canxi/ ngày, và 1000 mg/
ngày cho phụ nữ mang thai ở độ tuổi 19- 50 [12].
Theo JOGC khuyến cáo cung cấp canxi tối thiểu
1g/ngày đối với những trường hợp có chế độ ăn
hàng ngày cung cấp canxi< 600 mg/ngày. Trong
một tổng quan mới nhất của Hofmeyr GJ và công
sự (2014), đánh giá hiệu quả dự phòng các rối loạn
tăng HA trong thai kỳ bằng cung cấp canxi, liều
thấp được đánh giá khi cung cấp canxi < 1g/ngày
được tìm thấy trong 10 thử nghiệm (2.234 trường
hợp), liều cao canxi khi cung cấp ≥ 1g/ngày, 14
thử nghiệm trên 15.750 trường hợp. Nhóm tác giả
kết luận, cung cấp canxi ≥ 1g/ngày liên quan đến
giảm nguy cơ TSG, và chế độ ăn hàng ngày thiếu
canxi khi cung cấp từ dưới 500 – 600 mg/ngày và
thời điểm bắt đầu muộn nhất là từ tuần 20 thai kỳ.
Về thời điểm can thiệp, hầu như các nghiên cứu
can thiệp bắt đều trong quý II thai kỳ dựa vào thời
điểm đánh khảo sát và yếu tố sàng lọc nguy cơ.
Nhìn chung khuyến cáo đồng quan điểm liền
canxi liều tối thiểu ≥ 1g/ngày. Riêng đối với NICE và
ACOG chưa có khuyến cáo nào đưa ra đối với điều trị
dự phòng TSG và các biến chứng bằng canxi.
4.3. Hiệu quả điều trị dự phòng TSG và các rối
loạn tăng HA trong thai kỳ bằng canxi.
Có một mối quan hệ nghịch giữa lượng canxi
và các rối loạn tăng HA trong thai kỳ được mô tả
lần đầu tiên vào năm 1980 [10]. Điều này được dựa
trên quan sát người Maya Ấn Độ ở Guatemala, thói
quen ngâm một số thực phẩm trong vôi trước khi
chế biến liên quan đến tỷ lệ thấp TSG-SG. Tương
tự, tỷ lệ thấp TSG tại Ethiopia, nơi chế độ ăn có
chứa hàm lượng canxi cao. Điều đó dẫn đến giả
thuyết tăng lượng canxi trong khi mang thai liên
quan đến giảm tỷ lệ tăng HA và TSG ở những phụ
nữ có lượng canxi thấp. Thiếu canxi gây ra tăng HA
do kích thích hoặc hormone tuyến cận giáp hoặc
kích thích tiết renin, làm tăng canxi trong tế bào
cơ trơn mạch máu và dẫn đến co mạch. Bổ sung đủ
canxi làm giảm phóng thích các hormone tuyến
cận giáp và canxi nội bào, do đó làm giảm sự co
bóp của cơ trơn. Như vậy, bổ sung canxi cũng có
thể làm giảm sự co bóp cơ tử cung, ngăn ngừa sinh
non. Canxi cũng có thể có ảnh hưởng gián tiếp
trên chức năng cơ trơn thông qua nồng độ magiê.
Và nồng độ thấp canxi trong nhóm TSG đã được
chứng minh khi so với nhóm không bị TSG.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi so sánh
giữa nhóm nguy cơ cao các rối loạn tăng HA có
bổ sung canxi và nhóm chứng, có sự khác biệt về
tỷ lệ các rối loạn tăng HA trong thai kỳ giữa nhóm
chứng (23,05%) và nhóm điều trị canxi (12,50%), p
= 0,0239. Và tương tự, có sự khác biệt về tỷ lệ TSG
giữa nhóm chứng (18,00%) và nhóm điều trị canxi
(9,20%). Tuy nhiên, không có sự khác biệt về tỷ lệ
TSG sớm, TSG trung gian, TSG nặng giữa 2 nhóm và
không có sự khác biệt về tỷ lệ tăng HA thai nghén,
tăng HA mãn, TSG chồng chất giữa 2 nhóm. Tuy
nhiên, can thiệp canxi không cải thiện tỷ lệ TSG so
với nhóm chứng (RR = 0,55, CKT 95%; 0,29–1,03,
p=0,062). Không có sự khác biệt về tỷ lệ tăng HA
thai nghén, tăng HA mãn, TSG chồng chất như kết
quả thai kỳ và các biến chứng giữa 2 nhóm.
Nhìn chung, đánh gia vai trò dự phòng các rối
loạn tăng HA trong thai kỳ nói chung và bệnh lý
TSG nói riêng con nhiều bàn cải. Một phân tích
Cochrane gồm 13 nghiên cứu ngẫu nhiên hơn
15.000 phụ nữ khi đánh giá tác động của bổ sung
canxi đến phát triển các rối loạn tăng HA trong
TRƯƠNG QUANG VINH, CAO NGỌC THÀNH, NGUYỄN VŨ QUỐC HUY, VÕ VĂN ĐỨC,
NGUYỄN THỊ DIỄM THƯ, TRẦN MẠNH LINHSẢN KHOA VÀ SƠ SINH
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
60
thai kỳ. Bổ sung canxi làm giảm phát triển TSG
(0,45 RR, 95% CI 0,31-0,65), giảm nguy cơ sinh non
(0.76 RR, 95% CI 0,60-0,97). Trong các nhóm này,
cung cấp canxi đặc biệt làm giảm nguy cơ lớn nhất
ở nhóm nguy cơ cao TSG (5 nghiên cứu trên 587
phụ nữ: RR 0,22, 95% CI 0,12-0,42), và cho những
đối tượng có cung cấp canxi cơ bản thấp (8 nghiên
cứu trên 10.678 phụ nữ: RR 0,36, 95% CI 0,20-0,65).
Tuy nhiên, một nghiên cứu lớn của WHO ở những
phụ nữ có lượng canxi cung cấp cơ bản thấp đã
cho thấy không làm giảm tỷ lệ TSG, nhưng giảm
có ý nghĩa phát triển TSG sớm và nặng. Vai trò của
cung cấp canxi ở những phụ nữ nguy cơ thấp với
chế độ ăn uống bình thường, lượng canxi đầy đủ
cho thấy bổ sung canxi không có ý nghĩa trong
việc ngăn ngừa TSG. Tại Hoa Kỳ, trong thử nghiệm
trên 4.589 phụ nữ mang thai con so khỏe mạnh
tuổi thai 13 – 21 tuần được phân ngẫu nhiên nhóm
nhận được canxi (2 gram/ngày) và nhóm giả dược.
Kết luận không có sự khác biệt giữa hai nhóm này
về tỷ lệ xuất hiện TSG, 6,9% so với 7,3%.
Theo một tổng quan của Aamer I và cộng sự
(2011), số liệu được lấy từ 10 thử nghiệm ngẫu nhiên
được công bố trên PubMed, thư viện Cochrane đã
cho thấy khi bổ sung canxi trong quá trình mang
thai làm giảm có ý nghĩa thống kê 45% tăng HA
trong thai kỳ (RR 0,55, 95%, Cl 0,36-0,85) và 59%
nguy cơ TSG (RR 0,41, 95%, Cl 0,24-0,69) ở các nước
đang phát triển. Cụ thể, 17 trường hợp trong nhóm
4.151 người nguy cơ cao phát triển TSG ở nhóm điều
trị canxi, trong khi đó, ở nhóm chứng, con số này là
25/4.161 trường hợp, với RR 0,68, 95%, Cl 0,48-0,97.
Đối với TSG nặng, tác giả cho răng bổ sung canxi
liều thấp làm giảm 30% khả năng phát triển thành
TSG nặng, tuy nhiên kết quả này không có ý nghĩa
thống kê (RR 0,70, 95%, Cl 0,46-1,05). Trong nghiên
cứu chúng tôi không có sự khác biệt về tỷ lệ TSG
nặng giữa hai nhóm. Vai trò của bổ sung canxi trong
quá trình mang thai từ tuần thứ 20 đến tuần thứ 32
lên nguy cơ TSG cũng đã được phân tích so sánh
5.697 phụ nữ ở nhóm có bổ sung canxi với 5.708
phụ nữ nằm trong nhóm chứng. Kết quả của tác
giả khác với nghiên cứu chúng tôi, nhóm canxi làm
giảm nguy cơ TSG là 59% so với nhóm chứng (RR
0,41, 95%, Cl 0,24-0,69), giảm rõ rệt hơn ở nhóm có
nguy cơ cao TSG được điều trị dự phòng bằng canxi
khi so sánh với nhóm nguy cơ thấp TSG (RR 0,18,
95% Cl 0,07-0,42) [8].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ mổ lấy
thai, tuổi thai kết thúc thai kỳ, sinh non, sinh cự non,
thai chậm phát triển, rau bong non, tỷ vong chu
sinh, hội chứng HELLP ở nhóm điều trị bằng canxi
không có sự khác biệt so với nhóm chứng. Nghiên
cứu chúng tôi tương đồng với tác giả Hofmeyr GJ và
cộng sự trng một tổng quan Cochrane dựa trên 10
thử nghiệm, 6.634 trường hợp, tác giả cũng không
tìm thấy liên quan giữa cung cấp canxi và các kết
quả thai kỳ bất lợi trên. Tuy nhiên, theo Aamer I và
cộng sự (2011), giảm 30% tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh
ở nhóm điều trị canxi và nhóm giả dược (RR 0,70,
95% Cl 0,56-0,88), giảm tỷ lệ sinh non 12% (RR 0,88,
95% Cl 0,78-0,99)[8]. Theo nghiên cứu của Hofmeyr
và cộng sự, điều trị canxi ở những đối tượng tăng
nguy cơ TSG làm giảm khả năng sinh non so với
nhóm chứng, nhưng không có ý nghĩa thống kê (RR
0,81, 95% Cl 0,64-1,03) [12]. Mặt khác, một đánh giá
bởi Trumbo và Ellwood cho cục Quản lý Thực phẩm
và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã chỉ ra rằng lợi ích
của việc bổ sung canxi trong khi mang thai không
thể áp dụng đối với Mỹ và các quần thể với lượng
canxi đầy đủ cơ sở [14]. Theo Hofmeyr GJ (2013), ghi
nhận từ việc đánh giá của WHO trong việc sử dụng
1500mg canxi/ ngày từ quý II của thai kì không có
ý nghĩa trong việc điều trị dự phòng TSG (RR 0,92,
95% Cl 0,65-0,97), tuy nhiên có ý nghĩa trong việc
giảm tử vong mẹ và tình trạng bệnh nặng (RR 0,80,
95% Cl 0,65-0,97), ít trường hợp tử vong hơn khi bổ
sung canxi (1/4151 so với 6/4161 phụ nữ) [11], [12].
Nhìn chung, hiệu quả điều trị dự phòng TSG và
các rối lạn tăng HA trong thai kỳ còn nhiều bàn
cãi. Các nghiên cứu cho các kết quả khác nhau có
thể do tiêu chuẩn lựa chọn nhó nguy cơ cao can
thiệp khác nhau, cở mẫu khác nhau và đặc biệt
trên quần thể khác nhau với chế độ cung cấp canxi
hàng ngày khác nhau. Tuy nhiên các khuyến cáo
đối với điều trị dự phòng canxi còn dè dặt. Mặc
dù WHO (2011) khuyến cáo canxi có hiệu quả dự
phòng TSG trong nhóm nguy cơ cao hoặc nhóm
có chế độ ăn thiếu canxi. JOGC khuyến cáo cung
cấp canxi tối thiểu 1g/ngày đối với những trường
hợp có chế độ ăn hàng ngày cung cấp canxi< 600
mg/ngày, tuy nhiên, NICE (2013), ACOG (2013) vẫn
chưa đưa ra khuyến cáo liên quan nào mặc dù đã
đưa ra jhuyeens cáo điều trị dự phòng TSG và các
rối loặn tăng HA trong thai kỳ có đối với Aspirin.
5. Kết luận
Tỷ lệ các rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ
chiếm 3,74% so với toàn bộ thai nghén, trong đó Tiền
sản giật chiếm tỷ lệ 2,84%.
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
61
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 54-61, 2015
Tỷ lệ các rối loạn tăng HA trong thai kỳ và tỷ lệ TSG
chung ở nhóm điều trị canxi và nhóm chứng, tương ứng
là 23,05% và 12,50%, 18,00% và 9,20%. Tuy nhiên, can
thiệp canxi không cải thiện tỷ lệ TSG so với nhóm chứng.
Không có sự khác biệt về tỷ lệ TSG nặng, TSG sớm,
TSG trung gian và tỷ lệ tăng HA thai nghén, tăng HA
mãn, TSG chồng chất như kết quả thai kỳ và các biến
chứng giữa 2 nhóm.
Tài liệu tham khảo
1. Trần Danh Cường, Nguyễn Quốc Trường (2005), “Nhận xét
về hình thái của phổ Doppler động mạch rốn ở những sản phụ
tiền sản giật tại bệnh viện Phụ Sản Trung Ương 2/2005 - 7/2005”,
Tạp chí Nghiên cứu y học, 39(6) Phụ bản, tr: 260 - 268.
2. Trần Thị Thu Hường, Đặng Thị Minh Nguyệt (2012), “Nhận
xét về xử trí sản khoa và một số biến chứng của thai phụ sản
giật tại bệnh viện Phụ Sản Trung ương”, Tạp chí Phụ sản, 10
(2), tr: 75 - 79.
3. Mignini L (2011), “Chất chống kết dính tiểu cầu trong dự
phòng và điều trị tiền sản giật”, Thư viện sức khỏe sinh sản của
WHO, Geneva: Tổ chức Y tế Thế giới.
4. Bạch Ngõ (2001), “Nghiên cứu các đặc điểm lâm sàng,
cận lâm sàng và điều trị tiền sản giật – sản giật tại Khoa sản
Bệnh viện Trung ương Huế”, Luận văn Thạc sỹ Y học – Trường
Đại học Y khoa Huế.
5. Phạm Minh Sơn, Nguyễn Vũ Quốc Huy (2009), “Nghiên
cứu giá trị của Doppler động mạch rốn trong chẩn đoán và kết
quả xử trí thai kém phát triển ở sản phụ tiền sản giật nặng”, Y
học thực hành, 7 (3) – 04/2009, tr: 64 – 67.
6. Ngô Văn Tài (2006), Tiền sản giật và sản giật, Nhà xuất
bản y học, tr 7-51.
7. Lê Thiện Thái, Lê Anh Tuấn (2009), “Phân tích đa biến mối
liên quan giữa một số yếu tố phù, tăng huyết áp và protein niệu
trong nhiễm độc thai nghén”, Y học thực hành, 10, tr: 5 - 7.
8. Aamer Imdad, Afshan Jabeen, Zulfiqar A Bhutta (2011),
“Role of calcium supplementation during pregnancy in
reducing risk of developing gestational hypertensive disorders:
a meta-analysis of studies from developing countries, BMC
Public Health, 11(Suppl 3):518.
9. Akolekar R, Syngelaki A, Sarquis R, Zvanca M,
Nicolaides KH (2011), “Prediction of early, intermediate and
late pre-eclampsia from maternal factors, biophysical and
biochemical”. Prenat Diagn 2011; 31, pp: 66 – 74.
10. Belizan JM, Villar J, Zalazar A, Rojas L, Chan D, Bryce GF.
Preliminary evidence of the effect of calcium supplementation
on blood pressure in normal pregnant women. American
Journal of Obstetrics and Gynecology 1983; 146:175–80.
11. Hofmeyr GJ, Lawrie TA, Atallah AN, Duley L (2010),
“Calcium supplementation during pregnancy for preventing
hypertensive disorders and related problems”, Cochrane
Database Syst Rev 2010.
12. GJ Hofmeyr,a JM Beliza_n,b P von Dadelszenc (2013)
”Low-dose calcium supplementation for preventing pre-
eclampsia: a systematic review and commentary”, DOI:
10.1111/1471-0528.12613 www.bjog.org, Accepted 13 October
2013. Published Online 13 March 2014.
13. Sharma J.B, Sharma A, Bahadur A, Vimala N, Satyam
A, Mittal S (2006), “Oxidative stress markers and antioxidant
levels in normal pregnancy and pre-eclampsia”, International
Journal of Gynecology and Obstetrics, 94, pp: 23 – 27.
14. Villar J, Abdel-Aleem H, Merialdi M, Mathai M, Ali MM,
Zavaleta N, Purwar M, Hofmeyr J, Nguyen TN, Campódonico
L, Landoulsi S, Carroli G, Lindheimer M (2006), “World Health
Organization randomized trial of calcium supplementation
among low calcium intake pregnant women”, Am J Obstet
Gynecol, 194 (3), pp: 639 – 649.
15. Trumbo PR, Ellwood KC: Supplemental calcium and risk
reduction of hypertension, pregnancy-induced hypertension,
and preeclampsia: an evidence-based review by the US Food
and Drug Administration. Nutr Rev 2007, 65(2):78-87.
16. WHO (2007), “Antiplatelet agents for preventing pre-
eclampsia and complications”, RHL practical aspects (last
revised: 23 June 2007).
17. WHO (2011), “Recommendations for Prevention and
treatment of pre-eclampsia and eclampsia”, World Health
Organization 20.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_hieu_qua_dieu_tri_du_phong_benh_li_tien_san_giat.pdf