Chỉ tiêu PEF có ý nghĩa trong chẩn đoán và theo dõi điều trị tương đương với chỉ tiêu
FEV1 và ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn trong quản lý và điều trị HPQ ở nhiều nước trên
thế giới [4]. Giá trị trung bình của chỉ tiêu PEF sau điều trị tăng có ý nghĩa thống kê so với
trước điều trị ở nhóm nghiên cứu đã cho thấy chức năng thông khí phổi được cải thiện rõ sau
điều trị. Như vậy bài thuốc đã đạt được mục tiêu điều trị HPQ là đưa chức năng phổi về bình
thường [4].
Đợt bùng phát của HPQ được đặc trưng bởi thời kỳ tăng các triệu chứng của bệnh và
giảm chức năng phổi dẫn tới làm giảm khả năng hoạt động bình thường của bệnh nhân [4]. Hai
nhóm khác nhau có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). Về lâm sàng, hiệu quả điều trị đối với đối với
nhóm nghiên cứu đạt 84%, tỉ lệ này ở các nghiên cứu điều trị đợt bùng phát HPQ của một số tác
giả Trung Quốc là 80 – 90% tùy bài thuốc.
Giảm tác dụng phụ của thuốc điều trị cũng chính là một trong những mục đích điều trị
HPQ [4]. Trong quá trình điều trị, ở nhóm nghiên cứu chí còn 2 bệnh nhân có triệu chứng hồi
hộp đánh trống ngực và 1 trường hợp có run tay, các tác dụng phụ này thường thấy ở thuốc
chủ vận β2 [3]. Trong khi ở nhóm chứng, các triệu chứng cao hơn có ý nghĩa thống kê với p <
0,05. Theo Trung dược bản thảo (1999), các vị Ma hoàng, Bạch quả, Khoản đông hoa của
bài thuốc đều có tính độc thấp khi nghiên cứu thực nghiệm trên động vật[6]. Hơn nữa, khi Ma
hoàng phối ngũ với Bạch quả, một vị tán, một vị liễm nhờ đó mà tăng tác dụng cắt cơn của
Ma hoàng và ngăn được tác dụng phát hãn của nó. Bán hạ chế có tác dụng chấn nôn, tác dụng
chống rối loạn nhịp tim do đó làm giảm các triệu chứng đối với tim mạch của thuốc chủ vận
β2. Ngoài ra, vị ngọt Cam thảo có thể làm hòa hoãn độc tính khi bị trúng độc dược hoặc thức
ăn. Cam thảo được dùng trong mọi phương thuốc, ngoài tác dụng của bản thân nó có thể chủ
trị, còn do vị ngọt nên có tác dụng “hòa”, có thể điều hòa các dược liệu khác, có thể hoãn giải
các tính mạnh và tính độc của các loại thuốc khác và do đó phát huy được hiệu quả điều trị.
Như vậy, bài thuốc “Định suyễn thang” đã đạt được các mục tiêu điều trị HPQ mà NHLBI
đưa ra năm 1997 [4] bao gồm:
* Ngăn ngừa và kiểm soát các triệu chứng. * Giảm tần số và mức độ nặng của cơn hen
kịch phát. * Đưa chức năng phổi về bình thường. * Đưa bệnh nhân trở về cuộc sống bình
thường. * Tránh tác dụng phụ của thuốc.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 34 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu hiệu quả điều trị hen phế quản của bài thuốc “định suyễn thang”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí y dược học cổ truyền Quân sự Số 2- 2012
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ HEN PHẾ QUẢN CỦA
BÀI THUỐC “ĐỊNH SUYỄN THANG”3
Lương Thị Kỳ Thủy1, Nguyễn Nhược Kim2, Nguyễn Đình Tiến1
1
Bệnh viện TƯ Quân đội 108
2Đại học Y Hà Nội
Tóm tắt
“Định suyễn thang”, một bài thuốc cổ phương đã được sử dụng để điều trị các bệnh
nhân hen phế quản ở các nước phương Đông trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, hiệu quả điều trị
hen phế quản của bài thuốc “Định suyễn thang” còn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ
ở Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả điều trị hen phế
quản của bài thuốc “Định suyễn thang”. Đối tượng nghiên cứu: gồm 61 bệnh nhân được
chẩn đoán là hen phế quản được chia thành hai nhóm: nhóm thử có 32 bệnh nhân được điều
trị bằng ventolin xịt và bài thuốc “Định suyễn thang”, nhóm chứng có 29 bệnh nhân được
điều trị bằng ventolin xịt và giả dược. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, thử
nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng. Kết quả: Bài thuốc đã làm giảm có ý nghĩa mức
độ của đợt bùng phát và mức độ bệnh (p < 0,01) cải thiện triệu chứng lâm sàng (p < 0,01),
PEF (p < 0,05) ở bệnh nhân hen phế quản. Kết luận: hiệu quả của bài thuốc đối với lâm sàng
đợt bùng phát là 84%, mức độ bệnh đạt 75% và chưa thấy tác dụng không mong muốn trong
quá trình nghiên cứu.
Từ khóa: Hen phế quản, Định suyễn thang
Summary
Ding-chuan-tang (DCT), a traditional medicine, has been used to treat patients with
asthma in Oriental countries for several centuries. However, the effect of DCT on the
treatment of asthma hasn’t been studied completely in Vietnam. Therefore, this study was
performed to estimate the possible antiasthmatic effect of DCT. Sixty one patients were
diagnosed bronchial asthma, they were divided into two groups. The study group consisted of
thirty two patients who were treated by spraying ventolin and DCT. Control group was twenty
nine, and was treated by spraying ventolin and false medicine. A descriptive study and
randomized controlled clinical trial were conducted. The result showed that in contrast to
control group, DCT significantly reduced level of acute asthma time and level of asthma
severity (p < 0,01) and improved clinical symptoms (p < 0,01), PEF (p < 0,05) of the
asthmatic patients. The good clinical effect of DCT for acute asthma time was 84% and
asthma severity for 75%. It wasn’t side effect.
Keywords: asthma, Ding-chuan-tang
3
Phản biện khoa học: TS. Trần Hồng Thúy
Tạp chí y dược học cổ truyền Quân sự Số 2- 2012
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hen phế quản (HPQ) là một bệnh đường hô hấp phổ biến trên thế giới: tỷ lệ mắc bệnh
chiếm từ 3 đến 12% dân số tùy theo quốc gia [4]. Tỉ lệ tử vong của bệnh tuy không cao nhưng
bệnh tiến triển từng đợt, kéo dài làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống [4]. Vì vậy,
phòng và điều trị hen phế quản là một đề tài được các nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm.
Hen phế quản, theo y học cổ truyền (YHCT) được gọi là háo suyễn, là một bệnh rất
phức tạp [2]. Đã có nhiều nghiên cứu trong nước và nước ngoài ứng dụng các bài thuốc của y
học cổ truyền trong điều trị hen phế quản trên thực nghiệm cũng như lâm sàng. Bài thuốc cổ
phương “Định suyễn thang” đã được sử dụng để điều trị háo suyễn từ rất lâu và được coi là có
tác dụng tốt [5],[6]. Tuy nhiên, việc đánh giá hiệu quả của bài thuốc ở nước ta còn chưa được
thực hiện một cách đầy đủ. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với các mục tiêu:
Nghiên cứu hiệu quả điều trị của bài thuốc cổ phương “Định suyễn thang” trên bệnh nhân
hen phế quản bậc 1, bậc 2, bậc 3 và đánh giá tác dụng không mong muốn của bài thuốc.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu.
Gồm 61 bệnh nhân có độ tuổi trung bình là 48,6±18,4, được chẩn đoán mức độ hen phế
quản bậc1, bậc 2, bậc 3 và có đợt bùng phát từ mức độ nhẹ đến mức độ nặng theo phân loại
của Hội tim, phổi và huyết học quốc gia Hoa Kỳ - 1997 [4], điều trị nội, ngoại trú tại Khoa
A5, Khoa y học cổ truyền, Khoa A1 – Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Khoa Nội 1 –
Viện Y học cổ truyền Quân đội. Các bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: Nhóm
thử: 32 bệnh nhân được điều trị bằng bài thuốc “Định suyễn thang”, 1 thang/ngày phối hợp
với thuốc cắt cơn ventolin (xịt hít thuốc định liều) khi xuất hiện cơn khó thở, mỗi lần xịt 2
nhát bóp, liều 200 g, ngày 3-5 lần. Tổng liều điều trị 60 thang cho 60 ngày. Nhóm chứng:
29 bệnh nhân được điều trị bằng giả dược và thuốc cắt cơn ventolin khi xuất hiện cơn khó thở.
Các bệnh nhân của cả hai nhóm được theo dõi trong đợt điều trị; sau đó từ 1 đến 9 tháng.
2. Phương pháp nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu tiến cứu, sử dụng phương pháp thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên
có đối chứng.
2.1. Phân loại HPQ: Sử dụng phân loại của Hội tim, phổi và huyết học quốc gia Hoa Kỳ
(National Heart, Lung and Blood Institute – NHLBI) 1997 [4]:
Mức độ đợt bùng phát của HPQ: Được phân thành 3 loại: Nhẹ, vừa, nặng theo mức độ
khó thở, ảnh hưởng hoạt động thể lực, thời gian cắt cơn, thời gian đợt bùng phát và chỉ tiêu
PEF.
Mức độ bệnh của HPQ: Được phân thành 4 bậc: Bậc 1 (nhẹ từng cơn), bậc 2 (mạn tính
nhẹ), bậc 3 (mạn tính vừa), bậc 4 (mạn tính nặng) theo tần suất cơn, tần suất triệu chứng về
đêm, chỉ số PEF và mức giao động của chỉ số PEF.
Chỉ tiêu thông khí phổi: PEF được đo ngoài cơn hen trước điều trị và kết thúc đợt điều
trị bằng máy hô hấp tự động Pulmonary Function analyzer ERS – 1000 (Fukuda – Nhật Bản)
Tạp chí y dược học cổ truyền Quân sự Số 2- 2012
Khoa chẩn đoán chức năng, Bệnh viện Trung ương 108. Chỉ số lý thuyết được tính bằng hệ
phương trình hồi quy cho người Viêt Nam.
2.2. Đánh giá hiệu quả điều trị
Đánh giá biến đổi của chỉ tiêu PEF. Tốt: Sau điều trị PEF tăng > 20% hoặc chuyển
mức độ bệnh theo phân loại của NHLBI – 1997 [4]. Vừa: PEF tăng < 20% và không chuyển
mức độ bệnh. Kém: chỉ tiêu PEF không tăng.
Thời gian cắt cơn: tính từ lúc xuất hiện cơn hen đến khi kết thúc cơn hen (phút).
Thời gian đợt bùng phát: được tính từ khi xuất hiện cơn khó thở đầu tiên đến hết cơn
khó thở cuối cùng của đợt bùng phát. Đơn vị tính: ngày.
Tần suất cơn: Hiệu quả: tần suất cơn giảm. Không hiệu quả: không thay đổi.
Đánh giá hiệu quả điều trị đối với đợt bùng phát: Tốt: cải thiện các triệu chứng lâm
sàng, giảm thời gian cắt cơn, đợt bùng phát, PEF tăng và chuyển mức độ. Vừa: cải thiện các
triệu chứng, giảm thời gian cắt cơn, đợt bùng phát, PEF tăng nhưng không chuyển mức độ.
Kém: các triệu chứng không thay đổi, thời gian cắt cơn, thời gian đợt bùng phát không thay
đổi. Chỉ tiêu PEF không đổi.
Đánh giá hiệu quả điều trị mức độ bệnh: Tốt: tần suất cơn, các triệu chứng về đêm
giảm, chỉ tiêu PEF tăng và chuyển mức độ theo phân loại mức độ bệnh sau điều trị. Vừa: tần
suất cơn, các triệu chứng về đêm giảm, chỉ tiêu PEF tăng nhưng không chuyển mức độ. Kém:
tần suất cơn, các triệu chứng về đêm không đổi, PEF không đổi
Đánh giá tác dụng phụ của thuốc: các biểu hiện lâm sàng không mong muốn trong quá
trình dùng thuốc và các xét nghiệm máu.
2.3. Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê y học bằng chương trình EPI.INFO 2000
1.1.2.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thời gian cắt cơn hen
Bảng 1. So sánh thời gian cắt cơn trước và sau điều trị của hai nhóm (test t).
Nhóm n
Thời gian cắt cơn hen (phút)
% giảm P
Trước điều trị Sau điều trị
Nghiên cứu 32 59,84 ± 9,54 37,19 ± 7,85 37,9 < 0,05
Chứng 29 61,43 ± 11,64 59,61 ± 10,06 3 > 0,05
P > 0,05 < 0,05
Thời gian cắt cơn trung bình của nhóm nghiên cứu sau điều trị ngắn hơn có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05) so với nhóm chứng.
* Thời gian kéo dài đợt bùng phát
Tạp chí y dược học cổ truyền Quân sự Số 2- 2012
Bảng 2. So sánh thời gian kéo dài đợt bùng phát trước, sau điều trị (test t).
Nhóm n
Thời gian kéo dài đợt bùng phát (ngày)
% giảm P
Trước điều trị Sau điều trị
Nghiên cứu 32 8,69 ± 2,02 4,06 ± 2,41 53,3 < 0,05
Chứng 29 8,57 ± 2,62 8,29 ± 2,29 3,3 > 0,05
P > 0,05 < 0,05
Thời gian kéo dài của đợt bùng phát của nhóm nghiên cứu sau điều trị ngắn hơn có ý
nghĩa thống kê (p < 0,05) so với nhóm chứng.
* Tần suất cơn
Bảng 3. Kết quả điều trị làm thay đổi tần suất cơn hen ở 2 nhóm.
Nhóm Hiệu quả Không hiệu quả Tổng
Nghiên cứu 24 8 32
Chứng 9 20 29
Tổng 33 28 61
(p < 0,01, test 2).
Sau điều trị, tần suất cơn ở nhóm nghiên cứu giảm nhiều hơn có ý nghĩa thống kê
(p < 0,01) so với nhóm chứng.
Bảng 4. So sánh sự biến đổi sau điều trị của chỉ tiêu PEF ở 2 nhóm.
Nhóm Tăng ≥ 20 % Tăng < 20 % Không thay đổi Tổng
Nghiên cứu 20 10 2 32
Chứng 7 13 9 29
Tổng 27 23 11 61
(p < 0,01, test 2).
Biến đổi của chỉ số PEF ở hai nhóm khác nhau có ý nghĩa thống kê (p < 0,01).
2. Hiệu quả điều trị đối với đợt bùng phát
Bảng 5. So sánh hiệu quả điều trị đợt bùng phát ở 2 nhóm.
Nhóm Tốt Vừa Kém Tổng
Nghiên cứu 19 8 5 32
Chứng 7 5 17 29
Tổng 26 13 22 61
(p < 0,01, test 2).
Hiệu quả điều trị đợt bùng phát ở nhóm nghiên cứu cao hơn có ý nghĩa thống kê (p <
0,01) so với nhóm chứng.
Tạp chí y dược học cổ truyền Quân sự Số 2- 2012
Biểu đồ 1. Hiệu quả điều trị đợt bùng phát Biểu đồ 2. Hiệu quả điều trị mức độ bệnh
3. Hiệu quả điều trị mức độ bệnh
Bảng 6. So sánh hiệu quả điều trị mức độ bệnh ở 2 nhóm.
Nhóm Tốt Vừa Kém Tổng
Nghiên cứu 16 8 8 32
Chứng 6 5 18 29
Tổng 22 13 26 61
(p < 0,05, test 2).
Hiệu quả cải thiện mức độ bệnh ở nhóm nghiên cứu cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm chứng (p < 0,05).
4. Tác dụng không mong muốn của bài thuốc
Bảng 7. Các tác dụng không mong muốn được thấy ở 2 nhóm trong 60 ngày điều trị.
Tác dụng không mong muốn Nhóm NC Nhóm chứng p
Đau đầu 0 4 (13,8%) <0,05
Hoa mắt chóng mặt 0 7 (24,1%) <0,05
Hồi hộp đánh trống ngực 2 (6,3%) 8 (27,6%) <0,05
Run tay 1 (3,1%) 7 (24,1%) <0,05
Mệt mỏi 0 8 (27,6%) <0,05
(p < 0,05, test Fisher)
Khác nhau giữa 2 nhóm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Các xét nghiệm máu, chức năng gan, thận của bệnh nhân ở cả hai nhóm trước và sau
điều trị nằm trong giới hạn bình thường.
IV. BÀN LUẬN
Mục tiêu điều trị đầu tiên đối với hen phế quản mà NHLBI (Hội tim, phổi và huyết học
quốc gia Hoa Kỳ) 1997 [4] đưa ra là ngăn ngừa và kiểm soát các triệu chứng. Bài thuốc “Định
suyễn thang” có Ma hoàng, Bạch quả phối ngũ với Tang bạch bì, hoàng cầm có tác dụng
thanh tả phế nhiệt, thanh phế hóa viêm làm giảm viêm, giảm phù nề phế quản, thêm Bán hạ,
Tạp chí y dược học cổ truyền Quân sự Số 2- 2012
Tô tử để giáng khí hòa đờm làm giảm tiết nhày trong lòng phế quản và kết hợp với ventolin
xịt làm giảm co thắt cơ trơn phế quản đã giải quyết được các nguyên nhân cơ bản gây tắc
nghẽn đường thở nên làm tăng hiệu quả điều trị khó thở, thời gian cắt cơn và thời gian kéo dài
của đợt bùng phát.
Đưa bệnh nhân trở về cuộc sống bình thường hay cải thiện chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân HPQ trong đó có hoạt động thể lực là một trong những mục đích của điều trị HPQ
[4]. Bạch quả trong bài thuốc có tác dụng bổ khí dưỡng tâm, chỉ khái trừ phiền, ích thận tư
âm, sinh cơ nhục, Khoản đông hoa nhuận tâm phế, ích ngũ tạng, tiêu trừ buồn phiền, bổ lao
lực, các vị này phối ngũ với nhau mà nâng cao chính khí của người bệnh và do vậy mà cải
thiện hoạt động thể lực.
Một đặc trưng của hen phế quản là tăng tính đáp ứng phế quản với các yếu tố thúc đẩy
đợt bùng phát bao gồm các yếu tố bên ngoài như thời tiết, thực phẩm, môi trường và các yếu
tố bên trong như thần kinh, thể dịch và mức độ của nó tương quan chặt chẽ với mức độ viêm
[1],[4]. Theo y học hiện đại, ngoài việc ngăn chặn các yếu tố thúc đẩy đợt bùng phát cần phải
giải quyết các rối loạn của quá trình viêm, làm giảm tính đáp ứng phế quản. Điều này cũng
phù hợp với lý luận của y học cổ truyền, ngoại tà xâm nhập, ẩm thực bất thường, tố chất
không khỏe là các nguyên nhân sinh đàm, phục tàng tại phế thành “căn sớm” tiềm tàng bệnh
[5]. Vì vậy, muốn ngăn chặn được thời kỳ phát tác cần phải trị được “căn sớm” là đàm [5].
Ma hoàng cay, tán, khinh, phù có thể tán tà, thuyên phế để bình suyễn, chỉ khái [6], Hạnh
nhân đắng tiết, hơi ôn, chủ yếu nhập phế kinh, giáng khí hóa đàm, chấn trị ho và bình suyễn,
phối cùng Ma hoàng, Cam thảo thì thông khí bình suyễn, cắt cơn ho, phối cùng Ma hoàng, Tử
tô thì thông phổi bình suyễn, hóa đàm chỉ khái [6],[7]. Ngoài ra, các nghiên cứu dược tính cho
thấy: Bạch quả có tác dụng ức chế đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu, miễn dịch dịch thể và
miễn dịch tế bào; Hoàng cầm có tác dụng chống viêm kháng biến thái và tác dụng kháng
khuẩn; Tổ tử có tác dụng giải độc [7]; các vị trên được phối ngũ trong bài “Định suyễn thang”
đã góp phần giải quyết được “căn sớm” của bệnh là đàm, đồng thời cũng làm giảm được quá
trình viêm, giảm tính đáp ứng phế quản do đó giảm được tần suất cơn có ý nghĩa so với trước
điều trị và với nhóm chứng (p < 0,01). Giảm tần suất cơn và mức độ nặng của cơn hen, đây
cũng là một trong những mục tiêu của điều trị HPQ [4].
Chỉ tiêu PEF có ý nghĩa trong chẩn đoán và theo dõi điều trị tương đương với chỉ tiêu
FEV1 và ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn trong quản lý và điều trị HPQ ở nhiều nước trên
thế giới [4]. Giá trị trung bình của chỉ tiêu PEF sau điều trị tăng có ý nghĩa thống kê so với
trước điều trị ở nhóm nghiên cứu đã cho thấy chức năng thông khí phổi được cải thiện rõ sau
điều trị. Như vậy bài thuốc đã đạt được mục tiêu điều trị HPQ là đưa chức năng phổi về bình
thường [4].
Tạp chí y dược học cổ truyền Quân sự Số 2- 2012
Đợt bùng phát của HPQ được đặc trưng bởi thời kỳ tăng các triệu chứng của bệnh và
giảm chức năng phổi dẫn tới làm giảm khả năng hoạt động bình thường của bệnh nhân [4]. Hai
nhóm khác nhau có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). Về lâm sàng, hiệu quả điều trị đối với đối với
nhóm nghiên cứu đạt 84%, tỉ lệ này ở các nghiên cứu điều trị đợt bùng phát HPQ của một số tác
giả Trung Quốc là 80 – 90% tùy bài thuốc.
Giảm tác dụng phụ của thuốc điều trị cũng chính là một trong những mục đích điều trị
HPQ [4]. Trong quá trình điều trị, ở nhóm nghiên cứu chí còn 2 bệnh nhân có triệu chứng hồi
hộp đánh trống ngực và 1 trường hợp có run tay, các tác dụng phụ này thường thấy ở thuốc
chủ vận β2 [3]. Trong khi ở nhóm chứng, các triệu chứng cao hơn có ý nghĩa thống kê với p <
0,05. Theo Trung dược bản thảo (1999), các vị Ma hoàng, Bạch quả, Khoản đông hoa của
bài thuốc đều có tính độc thấp khi nghiên cứu thực nghiệm trên động vật[6]. Hơn nữa, khi Ma
hoàng phối ngũ với Bạch quả, một vị tán, một vị liễm nhờ đó mà tăng tác dụng cắt cơn của
Ma hoàng và ngăn được tác dụng phát hãn của nó. Bán hạ chế có tác dụng chấn nôn, tác dụng
chống rối loạn nhịp tim do đó làm giảm các triệu chứng đối với tim mạch của thuốc chủ vận
β2. Ngoài ra, vị ngọt Cam thảo có thể làm hòa hoãn độc tính khi bị trúng độc dược hoặc thức
ăn. Cam thảo được dùng trong mọi phương thuốc, ngoài tác dụng của bản thân nó có thể chủ
trị, còn do vị ngọt nên có tác dụng “hòa”, có thể điều hòa các dược liệu khác, có thể hoãn giải
các tính mạnh và tính độc của các loại thuốc khác và do đó phát huy được hiệu quả điều trị.
Như vậy, bài thuốc “Định suyễn thang” đã đạt được các mục tiêu điều trị HPQ mà NHLBI
đưa ra năm 1997 [4] bao gồm:
* Ngăn ngừa và kiểm soát các triệu chứng. * Giảm tần số và mức độ nặng của cơn hen
kịch phát. * Đưa chức năng phổi về bình thường. * Đưa bệnh nhân trở về cuộc sống bình
thường. * Tránh tác dụng phụ của thuốc.
V. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu sử dụng bài thuốc “Định suyễn thang” trong điều trị hen phế quản,
chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
4.1. Bài thuốc có tác dụng giảm mức độ đợt bùng phát, hiệu quả điều trị đối với đợt
bùng phát đạt 84%, trong đó hiệu quả điều trị tốt là 59%, vừa là 25%, cao hơn so với dùng
salbutamol đơn thuần. Bài thuốc có tác dụng giảm mức độ biểu hiện các triệu chứng lâm sàng
của đợt bùng phát: 71,88% bệnh nhân giảm mức khó thở, 78,1% bệnh nhân giảm ảnh hưởng
thể lực, giảm thời gian kéo dài của đợt bùng phát, giảm thời gian cắt cơn. Giảm mức độ bệnh
trong điều trị hen phế quản: hiệu quả điều trị tốt đạt 50%, vừa là 25%, tổng tỉ lệ cải thiện lâm
sàng mức độ bệnh là 75%, 75% bệnh nhân giảm tần suất cơn sau điều trị.
4.2. Bài thuốc “Định suyễn thang chưa thấy có tác dụng không mong muốn.
Tạp chí y dược học cổ truyền Quân sự Số 2- 2012
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Năng An (1999), “Một số thành tự mới trong nghiên cứu cơ chế các bệnh dị ứng”,
Đại hội lần thứ nhất Hội hen, dị ứng – Miễn dịch lâm sàng Việt Nam, Hà Nội 10/1999.
2. Hoàng Bảo Châu (1997), “Hen (chứng háo)”, “Khó thở (suyễn)”, Nội khoa Y học cổ truyền,
Nhà xuất bản Y học, Hà Nội 1997. tr 102-112, 113-120.
3. Bùi Xuân Tám (2000), “Quan niệm mới về cơ chế bệnh sinh và điều trị hen phế quản bằng khí
dung”, Trị liệu theo đường hít và điều trị kết hợp trong hen phế quản, Sinh hoạt khoa học chuyên
đề, Hà Nội 10/2000.
4. National Heart, Lung, and Blood institute (1997), “Guidelines for the diagnosis and
management of asthma”. Expert panel report 2. NIH publication. No. 97-4051.
5.许建中(1998),支气管哮喘,使用中西医结合诊断治疗学,中国医药科技出版社,25
9-268。
6. 国家中医药管理局(1999),麻黄,中华本草,上海科学技术出版社,268-281。
7. 国家中医药管理局(1999),紫苏子,中华本草,上海科学技术出版社,1634-1637。
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_hieu_qua_dieu_tri_hen_phe_quan_cua_bai_thuoc_dinh.pdf