Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trung bình
chiều dài ống tủy sau khi sửa soạn là bằng trâm
Safesider là 17,07 ± 1,59 thấp hơn so với chiều dài
trước khi SS là 17,18 ± 1,64 (p > 0,05). Trung bình sự
thay đổi chiều dài ống tủy là 0,12 ± 0,28 mm.Trâm
Safesider với thiết kế một cạnh phẳng kết hợp
với chuyển động qua lại của đầu tay khoan EndoExpress giúp tạo đường thoát của mùn ngà, tránh
gây bít tắc vùng chóp là nguyên nhân gây mất chiều
dài làm việc [6]. Sự thay đổi nhỏ về chiều dài làm
việc sau khi sửa soạn theo Schäfer E. là khó tránh
khỏi vì có nhiều nguyên nhân có thể gây thay đổi
chiều dài làm việc[11]. Thompson và Dummer cho
rằng những thay đổi này có thể vì sự thẳng ra nhẹ
của OT hay sự thiếu kiểm soát của nhà thực hành
lâm sàng [12].
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thời gian sửa
soạn một ống tủy trung bình của trâm Safesider là
228 ± 25,30 giây.Trung bình thời gian sửa soạn ống
tủy bằng trâm Safesider của chúng tôi tương tự thời
gian sửa soạn của tác giả Wigler R. và cs. (2015),
tuy nhiên lại lớn hơn nhiều so với tác giảDelgoshayi
N. và cs. (2018) [7], [14]. Sự khác biệt này có thể
do các nghiên cứu này tính thời điểm từ trâm sửa
soạn đầu tiên khác nhau, chỉ tính thời gian dụng cụ
thực sự làm việc trong ống tủy (không tính đến thời
gian bơm rửa và thay trâm); đồng thời thời gian sửa
soạn cũng phụ thuộc nhiều vào kỹ năng thực hiện
của người nghiên cứu. Ngược lại, kết quả của chúng
tôi lại thấp hơn so với kết quả của tác giả Cao Thị
Ngọc (2014) là 511,8 ± 485,4 giây. Có lẽ do nghiên
cứu của chúng tôi thực hiên trên mẫu răng khô
nên chủ động trong quá trình làm việc còn nghiên
cứu của tác giả Cao Thị Ngọc (2014) thực hiện trên
lâm sàng nên có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu
tố như tư thế làm việc, khó khăn từ bệnh nhân, sự
cản trở của môi, má, lưỡi, nước bọt, sự đa dạng
của các hình thái ống tủy trên lâm sàng, [5].Thời
gian sửa soạn bằng trâm Safesider của hệ thống
Endo-Express có độ biến thiên khá lớn, thấp nhất
là 180,00 giây và cao nhất là 274,80 giây, cho thấy
dụng cụ có thể tạo hình những ống tủy đơn giản rất
nhanh nhưng cũng có thể tốn nhiều thời gian trong
những trường hợp khó.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 33 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu in vitro sự thay đổi độ cong tủy và thời gian sửa soạn bằng trâm safesider, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
65
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
Địa chỉ liên hệ: Phan Anh Chi, email: pachi@huemed-univ.edu.vn
Ngày nhận bài: 25/6/2019; Ngày đồng ý đăng: 12/1/2020; Ngày xuất bản: 26/2/2020;
Nghiên cứu in vitro sự thay đổi độ cong tủy và thời gian sửa soạn
bằng trâm safesider
Đỗ Phan Quỳnh Mai, Phan Anh Chi, Nguyễn Toại
Khoa Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Giai đoạn làm sạch và tạo dạng hệ thống ống tủy được đánh giá là một trong những giai đoạn
quan trọng trong quá trình điều trị nội nha. Hệ thống trâm quay Safesider của máy Endo-Express được giới
thiệu với thiết kế có một cạnh không tác dụng giúp dụng cụ giảm sự tiếp xúc với thành ống tủy, tạo lát cắt
mỏng nên dụng cụ chuyển động linh hoạt hơn trong ống tủy đặc biệt với ống tủy cong. Vì vậy, chúng tôi thực
hiện đề tài nhằm mục tiêu mô tả sự thay đổi độ cong ống tủy, chiều dài ống tủy và thời gian sửa soạn ống
tủy bằng trâm Safesider. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu in vitro mô tả cắt ngang, thực
hiện trên 30 ống tủy thuộc chân ngoài gần của răng cối lớn trên và chân gần của răng cối lớn dưới của nguời
đã nhổ được lựa chọn theo đúng tiêu chuẩn và cố định trong khối nhựa. Các răng được mở tủy, đặt trâm vào
ống tủy và chụp phim X Quang trước và sau khi sửa soạn bằng trâm Safesider. Ghi nhận góc cong, bán kính
góc, độ dài đoạn cong, sự thay đổi độ cong ống tủy, chiều dài ống tủy trước, sau khi sửa soạn và thời gian sửa
soạn bằng trâm Safesider. Sử dụng phép kiểm Mann-Whitney để so sánh sự thay đổi độ cong ống tủy, chiều
dài ống tủy trước và sau khi sửa soạn. Kết quả: Góc cong ống tủy, bán kính góc cong, độ dài đoạn cong giảm
có ý nghĩa thống kê so với trước khi sửa soạn. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa chiều dài ống
tủy trước và sau khi sửa soạn. Trung bình thời gian sửa soạn một ống tủy của trâm Safesider là 228,16 ± 25,30
giây. Kết luận: Trong điều kiện nghiên cứu, trâm Safesider làm giảm góc cong ống tủy sau khi sửa soạn. Thời
gian sửa soạn một ống tủy trung bình bằng trâm Safesider là 228,16 ± 25,30 giây.
Từ khóa: Safesider, thay đổi độ cong, chiều dài ống tủy, thời gian sửa soạn
Abstract
Change of root canal curvature and working time using safesider:
an in vitro study
Do Phan Quynh Mai, Phan Anh Chi, Nguyen Toai
Faculty of Odonto-Stomatology, Hue University of Medicine and Pharmacy
Background: Shaping and cleaning the root canal is an important step in root canal treament. Base on the
non-interrupted flat-sided design, Safesider can reduce the dentinal contact and makes it thinner and more
flexible. This study aimed to determine the straightening of the curved canals, working length and working
time of Safesider. Materials and method: In this in vitro study, thirty extracted maxillary with mesialbuccal
root canals and mandibular molars with mesial root canal curvatures between 200 - 400 were embedded in
acrylic resin blocks. All root canals was prepared with Safesider instruments in a reciprocating handpiece.
After taking the Xray pre- and post-instrumentation, the angle and the radius of the curvatures, the length
of the curved part of the canal, working length and working time were calculated. Mann-Whitney test was
used to determine the significant difference between pre- and post-instrumentation angle of curvatures.
Results: The angle and the radius of the curvatures, the length of the curved part of the canal significantly
decreased when compared to pre-instrumentation specimens (p < 0.05). The difference between pre-
and post-instrumentation working length was no significant (p > 0.05). The mean duration of root canal
preparation was 228.16 ± 25.30 seconds. Conclusion: Under the conditions of this study, the angle of the
curvatures decrease after preparation by Safesider. The mean duration of root canal preparation was 228,16
± 25,30 seconds.
Keywords: Safesider, straightening, working length, working-time
DOI: 10.34071/jmp.2020.1.10
66
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
1. ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ MỤC TIÊU
Bệnh lý tủy răng là một bệnh lý răng miệng rất
thường gặp. Răng có tủy bị viêm hoặc hoại tử được
chỉ định điều trị nội nha nhằm loại bỏ nhiễm trùng,
tránh gây biến chứng như viêm quanh chóp cấp và
mãn tính, áp - xe quanh chóp hay nặng hơn là viêm
mô tế bào... [2], [3]. Để đạt được thành công trong
điều trị nội nha, nhà lâm sàng phải tuân thủ theo ba
nguyên tắc được gọi là “Tam thức nội nha” bao gồm
vô trùng, làm sạch và tạo dạng ống tủy, trám bít ống
tủy theo ba chiều không gian [4]. Giai đoạn làm sạch
và tạo dạng hệ thống ống tủy được đánh giá là một
trong những giai đoạn quan trọng trong quá trình
điều trị tủy bao gồm lấy đi những mô viêm hay hoại
tử trong ống tủy và một phần ngà răng; tạo thuận lợi
cho việc bơm rửa ống tủy; làm cho ống tủy có dạng
thuôn đều nhỏ dần về phía chóp [1].
Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều hệ
thống trâm quay mới được ra đời nhằm gia tăng
hiệu quả sửa soạn ống tủy, rút ngắn thời gian điều trị
cho bác sĩ. Năm 2003, hệ thống trâm quay Safesider
của máy Endo-Express được giới thiệu với thiết kế
có một cạnh không tác dụng giúp dụng cụ giảm sự
tiếp xúc với thành ống tủy, tạo lát cắt mỏng nên
dụng cụ chuyển động linh hoạt hơn trong ống tủy
đặc biệt với ống tủy cong [6], [13]. Nhiều nghiên cứu
đã được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả của loại
trâm này với các loại trâm khác như nghiên cứu của
Wigler R. và cs. (2015) về hiệu quả làm sạch và tạo
dạng hệ thống ống tủy hay nghiên cứu của Ceyhanli
K.T. và cs. (2016) về nứt vi thể ngà răng trên phim
micro-CT... [6], [14]. Tại Việt Nam, chỉ mới có nghiên
cứu của Nguyễn Mạnh Hà và cs. (2014) đánh giá
hiệu quả sửa soạn trâm trên ống tủy cắt ngang tại
1/3 chóp và thời gian sửa soạn mà chưa có nghiên
cứu nào đánh giá về khả năng tạo dạng [2]. Do đó,
chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu nhằm mục tiêu:
1. Mô tả sự thay đổi độ cong ống tủy và chiều dài
ống tủy sau khi sửa soạn bằng trâm Safesider.
2. Mô tả thời gian sửa soạn ống tủy bằng trâm
Safesider.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên răng người đã
nhổ do bệnh lý nha chu hay không thể điều trị bảo
tồn, gồm 30 ống tủy thuộc chân gần của răng cối
lớn dưới và chân gần ngoài của răng cối lớn trên
có chân răng nguyên vẹn, chân răng đã đóng chóp,
chân răng chưa được điều trị tủy và chân răng có ống
tủy cho cây trâm số 10 đi hết chiều dài và cong từ
200 - 400 hình chữ L theo chiều gần xa (xác định qua
phim quanh chóp theo phương pháp của Pruett J.P.
và cs. [10]).
2.2. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu thử nghiệm in vitro, không có nhóm
chứng.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
- Chuẩn bị mẫu nghiên cứu
+ Các răng được chôn phần chân răng trong khối
nhựa tự cứng trong sao cho các mặt phẳng của khối
nhựa song song với các mặt ngoài, trong, gần, xa của
răng (Hình 1a).
+ Chụp phim XQuang để xác định góc cong, bán
kính góc cong, độ dài đoạn cong và chiều dài ống tủy
trước sửa soạn.
* Cấu tạo thiết bị định vị chụp phim: đầu chụp
phim của máy chụp phim được gắn cố định vào hộp
kỹ thuật có phủ chì, bên trong hộp đặt một phẳng cố
định sao cho mặt phẳng này vuông góc với với đầu
chụp phim và trên mặt phẳng đánh dấu vị trí đặt
mẫu (Hình 1b).
Hình 1. Mẫu cố định chân răng (a) và Thiết bị định vị chụp phim (b)
a b
67
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
* Sử dụng mũi mở tủy Endo Access bur mở lối
vào ống tủy. đặt một trâm số 10 vào ống tủy. Đặt các
block nhựa có chứa mẫu răng vào mặt phẳng chụp
phim. Chụp phim và rửa phim.
* Sử dụng máy ảnh kỹ thuật số chụp ảnh các
phim gốc răng trước khi sửa soạn với vị trí cố định.
* Sử dụng phần mềm GNU Image Manipulation
Program 2.8 đo góc cong, bán kính góc cong, độ
dài đoạn cong của ống tủy trước khi sửa soạn theo
phương pháp của Pruett J.P. và cs. [10].
- Góc cong: một đường thẳng (a) được vẽ theo
trâm trong phần thẳng của ống tủy, đường này song
song với trục dài của ống tủy. Điểm A được đánh dấu
là điểm bắt đầu cong của ống tủy. Đường thẳng (b)
là đường được nối giữa điểm A và lỗ chóp chân răng
(điểm B). Góc cong là góc được tạo bởi đường a và
đường b (góc α).
- Bán kính góc cong: phần cong của ống tủy là
cung của vòng tròn tưởng tượng được xác định bởi
bán kính r. Bán kính r được tính trên dựa vào độ dài
đoạn thẳng nối A và B và góc cong α theo công thức:
- Độ dài của phần ống tủy cong: được tính theo
công thức:
k= 4πα
360
r=
s
2sinα
Hình 2. Mô tả cách tính góc cong, bán kính góc cong, độ dài đoạn cong theo Pruett J. P. và cs. [10]
s
k
- Sửa soạn ống tủy và đo thời gian sửa soạn
Sửa soạn ống tủy với trâm Safesider sử dụng
trên tay khoan Endo-Express với vận động xoay qua,
xoay lại 30o với tốc độ 2000-2500 vòng/phút theo kỹ
thuật bước lùi (step-back):
+ Thăm dò và thông suốt ống tủy bằng trâm K
số 8,10.
+ Đưa trâm 15/.02 đi tới chóp sau đó đưa trâm
20/.02 đi tới chóp.
+ Sử dụng mũi Pleezer để mở rộng phía trên của
ống tủy và giải quyết đường cong đến tới nửa chiều
dài ống tủy chân răng.
+ Sau đó lần lượt trâm 25/.02, trâm 30/.02 đi hết
chiều dài làm việc.
+ Chuyển qua trâm niti 30/.04 và cuối cùng là trâm
niti 25/.06 đi hết chiều dài làm việc.
Lưu ý: Giữa mỗi lần thay trâm luôn bơm rửa 2ml
dung dịch NaOCl 2,5%, kim được đưa vào sâu nhất
có thể trong ống tủy, kiểm tra chiều dài bằng trâm
thông suốt số 10, lau sạch phần lưỡi cắt của trâm
bằng bông ẩm. Sau khi sửa soạn hoàn tất, bơm rửa
lại lần sau cùng bằng dung dịch nước muối NaCl
0,9%, thấm khô ống tủy bằng côn giấy.
+ Đo thời gian sửa soạn ống tủy: ghi nhận thời
gian sửa soạn ống tủy của từng ống tủy bằng cách
sử dụng đồng hồ bấm giây, bắt đầu tính từ lúc đưa
trâm 15 vào ống tủy cho đến lúc kết thúc công việc
sửa soạn (bao gồm cả thời gian thay trâm).
- Ghi nhận góc cong, bán kính góc cong, độ dài
đoạn cong, chiều dài ống tủy sau khi sửa soạn
+ Sau khi sửa soạn, đặt trâm số 20 vào ống tủy đã
được sửa soạn đi hết chiều dài làm việc. sau đó, đặt
lại vào hộp kỹ thuật, chụp phim và rửa phim.
+ Ghi nhận góc cong, bán kính góc cong, độ dài
đoạn cong, chiều dài ống tủy sau khi sửa soạn theo
phương pháp của Pruett J.P. và cs. [10].
+ Sự thay đổi độ cong của ống tủy được tính
bằng công thức:
Sự thay đổi độ cong ống tủy = Góc cong ống tủy trước khi sửa soạn – Góc cong ống tủy sau khi sửa soạn
68
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
Hình 3. Đo góc cong ống tủy trước và sau khi sửa soạn theo phương pháp của Pruett J.P. và cs. [10]
(a) Trước khi sửa soạn ống tủy (b) Sau khi sửa soạn ống tủy
2.4. Xử lí số liệu
Ghi nhận số liệu và xử lý thống kê bằng phần mềm thống kê SPSS 15.0. Phân tích sử dụng phép kiểm
Mann-Whitney cho hai biến độc lập.
3. KẾT QUẢ
Bảng 1. Trung bình góc cong, bán kính góc cong, độ dài đoạn cong ống tủy trước và sau khi sửa soạn
Thời điểm
Đặc điểm
Trước sửa soạn
(TB ± ĐLC)
Sau sửa soạn
(TB ± ĐLC)
Giá trị
p
Góc cong (0) 25,67 ± 5,95 15,15 ± 6,59 0.000
Bán kính góc cong (mm) 8,23 ± 2,80 13,64 ± 8,89 0,017
Độ dài đoạn cong (mm) 7,11 ± 2,04 5,92 ± 2,44 0,039
Thay đổi độ cong (0) 10,52 ± 3,17
Nhận xét: Trung bình góc cong ống tủy trước khi sửa soạn là 25,670 ± 5,950, sau khi sửa soạn bằng trâm
Safesider là 15,150 ± 6,590 (p < 0,05). Trung bình bán kính góc cong ống tủy trước và sau khi sửa soạn lần lượt
là 8,23 ± 2,80 mm và 13,64 ± 8,89 mm (p < 0,05). Trung bình độ dài đoạn cong ống tủy trước và sau khi sửa
soạn lần lượt là 7,11 ± 2,04 mm và 5,92 ± 2,4 mm (p < 0,05). Trâm Safesider làm thay đổi độ cong ống tủy
trung bình là 10,520 ± 3,170.
Biểu đồ 1. Trung bình chiều dài ống tủy trước và sau khi sửa soạn
Chiều dài OT
(mm)
Thời điểm
69
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
Kết quả nghiên cứu cho thấy trung bìnhchiều dài
ống tủy trước khi sửa soạn là 17,18 ± 1,64 mm và
sau khi sửa soạn là 17,07 ± 1,59 mm (p = 0,811).Sự
thay đổi chiều dài ống tủy sau khi sửa soạn so với
trước khi sửa soạn là 0,12 ± 0,28 mm.
Với điều kiện nghiên cứu, trung bình thời gian
sửa soạn ống tủy bằng trâm Safesider 228,16 ±
25,30 giây.
4. BÀN LUẬN
Trong những nghiên cứu in vitro về khả năng tạo
dạng và làm sạch ống tủy, mẫu dùng cho nghiên cứu
có thể là răng nhựa hoặc răng người đã nhổ do bệnh
lý nha chu hay chỉnh nha [6],[14]. Nghiên cứu sử
dụng răng người đã nhổ có ưu điểm là gần giống với
lâm sàng. Răng được chọn thường là răng một chân
thuộc nhóm răng trước hàm trên hoặc nhóm răng
cối nhỏ hàm dưới (răng một chân và một ống tủy
thẳng) hoặc là chân gần răng cối lớn hàm dưới, chân
ngoài gần răng cối lớn hàm trên cho những nghiên
cứu có yêu cầu thực hiện trên các ống tủy nhỏ và
cong. Tuy nhiên, sự đa dạng về hình thái ống tủy như
chiều dài và độ rộng ống tủy, độ cứng ngà răng, vôi
hóa bất thường, kích thước và vị trí lỗ chóp, đặc biệt
là góc cong, bán kính, độ dài ống tủy theo ba chiều
không gian tạo nên sự khó khăn cho việc chuẩn hóa
[4], [9].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nhóm
răng nghiên cứu có góc cong ống tủy sau khi sửa soạn
là 15,150 ± 6,590 thấp hơn có ý nghĩa thống kê với
góc cong ống tủy trước khi sửa soạn là 25,670±5,950
(p < 0,05). Bán kính góc cong ống tủy sau khi sửa
soạn là 13,64 ± 8,89 mm lớn hơn bán kính góc cong
trước khi sửa soạn là 8,23 ± 2,80 mm (p < 0,05). Độ
dài đoạn cong ống tủy sau khi sửa soạn là 5,92 ±
2,44 mm thấp hơn độ dài đoạn cong trước khi sửa
soạn là 7,11 ± 2,04 mm (p < 0,05). Nhiều tác giả cũng
ghi nhận các thông số góc cong bán kính góc cong
và độ dài đoạn cong trong việc ảnh hưởng đến quá
trình làm sạch và tạo dạng ống tủy. Schäfer E. và cs.
(2002) cho rằng rất khó để sửa soạn các ống tủy có
góc cong lớn và bán kính góc cong nhỏ (ống tủy cong
đột ngột) dù sử dụng dụng cụ quay NiTi hay dụng
cụ cầm tay thông thường bằng thép không gỉ [11].
Nhiều bài báo đã kết luận rằng bán kính góc cong
có tác động lớn đến chu kì mỏi của dụng cụ mà cụ
thể là bán kính góc cong càng giảm thì chu kì mỏi
của dụng cụ càng thấp và điều này sẽ dẫn đến nguy
cơ gãy dụng cụ hay tỉ lệ trâm đi sai đường càng cao
[10], [11], [13].
Vì vậy, góc cong ống tủy và đặc biệt là bán kính
góc cong là những yếu tố quan trọng khi thực hiện
các nghiên cứu so sánh hiệu quả của các dụng cụ
nội nha. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
bán kính góc cong tăng sau khi sửa soạn, chứng tỏ
độ cong của ống tủy giảm (ống tủy giảm độ cong
đột ngột).
Khi so sánh sự thay đổi độ cong ống tủy sau khi
sửa soạn với trước khi sửa soạn, trâm Safesider làm
thay đổi góc cong ống tủy trung bình là 10,520±3,170.
Nhiều nghiên cứu cũng được thực hiện nhằm so
sánh khả năng duy trì độ cong ống tủy của trâm
Safesider với các loại trâm thép không gỉ khác hay
trâm NiTi.Nghiên cứu của Hilaly-Eid G.E. và cs. (2011)
đã đánh giá sự thay đổi đường kính, hình dạng ống
tủy và sự mở rộng thành ống tủy giữa ba dụng cụ là
file H, Protaper và Safesider. Kết quả nghiên cứu cho
thấy trâm Safesider lấy đi ít ngà răng nhất theo chiều
ngoài trong so với trâm Protaper và file H; còn theo
chiều gần xa, trâm Safesider tương tự trâm Protaper
nhưng vẫn ít hơn file H. Tuy nhiên, khi so sánh mức
độ mở rộng ống tủy của trâm Safesider theo chiều
gần xa lại lớn hơn gấp 2 lần so với chiều ngoài trong;
trong khi đó trâm Protaper và file H cho kết quả như
nhau tại hai chiều [8].
Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cũng cho thấy Safesider làm thay đổi độ
cong các ống tủy có độ cong theo chiều gần xa nhiều
hơn. Delgoshayi N. và cs. (2018) thực hiện nghiên
cứu trên 30 ống tủy cong theo chiều gần xa ở chân
gần răng cối lớn hàm dưới nhằm so sánh sự dịch
chuyển ống tủy và khả năng duy trì trục ống tủy giữa
trâm Protaper và trâm Safesider [7]. Kết quả cho
thấy trâm Safesider tạo ra sự dịch chuyển ống tủy
lớn hơn trâm Protaper và khả năng duy trì trục ống
tủy cũng thấp hơn trâm Protaper. Tác giả cho rằng
thiết kế cạnh bên không tác dụng của trâm Safesider
giúp trâm linh hoạt trong ống tủy so với trâm thép
không gỉ truyền thống. Tuy nhiên lên đến các cây
trâm số lớn hơn, độ linh hoạt của trâm không được
như trâm NiTi đặc biệt với các ống tủy cong. Trong
khi đó, thiết diện cắt ngang hình tam giác lồi làm cho
trâm tiếp xúc ít hơn với ngà và các rãnh thoát hình
chữ U giúp gia tăng sự linh hoạt của trâm [7].
Như vậy, không có loại trâm nào có thể đảm bảo
duy trì hoàn toàn độ cong ống tủy như hình dạng
nguyên thủy ban đầu mà đều ít hay nhiều làm thẳng
ống tủy. Thực tế, khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi
thấy rằng khi sửa soạn ống tủy bằng trâm Safesider,
các trâm thép không gỉ của bộ trâm có khả năng uốn
cong theo độ cong của ống tủy và giữa nguyên độ
cong dù đã được đưa ra khỏi ống tủy.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trung bình
chiều dài ống tủy sau khi sửa soạn là bằng trâm
Safesider là 17,07 ± 1,59 thấp hơn so với chiều dài
trước khi SS là 17,18 ± 1,64 (p > 0,05). Trung bình sự
70
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
thay đổi chiều dài ống tủy là 0,12 ± 0,28 mm.Trâm
Safesider với thiết kế một cạnh phẳng kết hợp
với chuyển động qua lại của đầu tay khoan Endo-
Express giúp tạo đường thoát của mùn ngà, tránh
gây bít tắc vùng chóp là nguyên nhân gây mất chiều
dài làm việc [6]. Sự thay đổi nhỏ về chiều dài làm
việc sau khi sửa soạn theo Schäfer E. là khó tránh
khỏi vì có nhiều nguyên nhân có thể gây thay đổi
chiều dài làm việc[11]. Thompson và Dummer cho
rằng những thay đổi này có thể vì sự thẳng ra nhẹ
của OT hay sự thiếu kiểm soát của nhà thực hành
lâm sàng [12].
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thời gian sửa
soạn một ống tủy trung bình của trâm Safesider là
228 ± 25,30 giây.Trung bình thời gian sửa soạn ống
tủy bằng trâm Safesider của chúng tôi tương tự thời
gian sửa soạn của tác giả Wigler R. và cs. (2015),
tuy nhiên lại lớn hơn nhiều so với tác giảDelgoshayi
N. và cs. (2018) [7], [14]. Sự khác biệt này có thể
do các nghiên cứu này tính thời điểm từ trâm sửa
soạn đầu tiên khác nhau, chỉ tính thời gian dụng cụ
thực sự làm việc trong ống tủy (không tính đến thời
gian bơm rửa và thay trâm); đồng thời thời gian sửa
soạn cũng phụ thuộc nhiều vào kỹ năng thực hiện
của người nghiên cứu. Ngược lại, kết quả của chúng
tôi lại thấp hơn so với kết quả của tác giả Cao Thị
Ngọc (2014) là 511,8 ± 485,4 giây. Có lẽ do nghiên
cứu của chúng tôi thực hiên trên mẫu răng khô
nên chủ động trong quá trình làm việc còn nghiên
cứu của tác giả Cao Thị Ngọc (2014) thực hiện trên
lâm sàng nên có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu
tố như tư thế làm việc, khó khăn từ bệnh nhân, sự
cản trở của môi, má, lưỡi, nước bọt, sự đa dạng
của các hình thái ống tủy trên lâm sàng,[5].Thời
gian sửa soạn bằng trâm Safesider của hệ thống
Endo-Express có độ biến thiên khá lớn, thấp nhất
là 180,00 giây và cao nhất là 274,80 giây, cho thấy
dụng cụ có thể tạo hình những ống tủy đơn giản rất
nhanh nhưng cũng có thể tốn nhiều thời gian trong
những trường hợp khó.
5. KẾT LUẬN
1. Độ cong của ống tủy sau khi sửa soạn giảm
có ý nghĩa thống kê so với trước khi sửa soạn bằng
trâm Safesider. Trung bình sự thay đổi độ cong ống
tủy là 10,520 ± 3,170.
2. Trâm Safesider làm thay đổi chiều dài ống tủy
trung bình là 0,12 ± 0,28 mm.
3. Thời gian sửa soạn một ống tủy trung bình của
trâm Safesider là 228 ± 25,30 giây.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Quế Dương (2007), “Sửa soạn ống tủy”, Nội nha
lâm sàng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 91-118.
2. Nguyễn Mạnh Hà (2014), “So sánh hiệu quả của
trâm Protaper máy và trâm Safesider của máy Endo-
Express trong sửa soạn ống tủy”, Y học thực hành, 914
(4), tr. 179-181.
3. Trịnh Thị Thái Hà (2016), “Bệnh lý tủy”, Chữa răng
và nội nha - Tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà
Nội, tr. 67-79.
4. Biện Thị Bích Ngân (2010), “Hiệu quả làm sạch và
tạo dạng hệ thống ống tủy của Protaper quay máy và quay
tay”, Luận văn Thạc sỹ Y học, Đại học Y Dược thành phố Hồ
Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.
5. Cao Thị Ngọc (2014), “Đánh giá hiệu quả điều trị
nội nha nhóm răng hàm nhỏ có sử dụng hệ thống Endo-
Express năm 2014”, Luận văn Tốt nghiệp Bác sĩ Nội trú
bệnh viện, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
6. Ceyhanli K. T. et al. (2016), “Comparison of
ProTaper, RaCe and Safesider instruments in the induction
of dentinal microcracks: A micro-CT study”, International
Endodontic Journal, 49 (7), pp. 684-889.
7. Delgoshayi N. et al. (2018), “Canal transportation
and centering ability of protaper and safesider in
preparation of curved root canals: A CBCT evaluation”,
Iranian Endodontic Journal, 13 (2), pp. 240-245.
8. Hilaly-Eid G.E. and Wanees Amin S.A. (2011),
“Changes in diameter, cross-sectional area, and extent of
canal-wall touching on using 3 instrumentation techniques
in long-oval canals”, Oral Surgery, Oral Medicine, Oral
Pathology, Oral Radiology and Endodontology, 112 (5), pp.
688-695.
9. Hulsmann M., Peters O.A and Dummer P.M.H.
(2005), “Mechanical preparation of root canals: shaping
goals, techniques and means”, Endodontic Topics, 10 (1),
pp. 30-76.
10. Pruett J.P., Clement D.J. and Carnes D.L. (1997),
“Cyclic fatigue testing of nickel-titanium endodontic
instruments”, Journal of Endodontics, 23 (2), pp. 77-85.
11. Schäfer E. et al. (2002), “Roentgenographic
investigation of frequency and degree of canal curvatures
in human permanent teeth”, Journal of Endodontics, 28
(3), pp. 211-216.
12. Vahid A., Roohi N. and Zayeri F. (2009), “A
comparative study of four rotary NiTi instruments in
71
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
preserving canal curvature, preparation time and change
of working length”, Australian Endodontic Journal, 35 (2),
pp. 93-97.
13. Venkateshbabu N. et al. (2012), “Comparison
of the canal centring ability of K3, Liberator and EZ
Fill Safesiders by using spiral computed tomography”,
Australian Endodontic Journal, 38 (2), pp. 55-59.
14. Wigler R., Koren T. and Tsesis I. (2015), “Evaluation
of Root Canal Cleaning and Shaping Efficacy of Three
Engine-driven Instruments: SafeSider, ProTaper Universal
and Lightspeed LSX”, The journal of contemporary dental
practice, 16 (11), pp. 910-914.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_in_vitro_su_thay_doi_do_cong_tuy_va_thoi_gian_sua.pdf