Trước hết, cần đưa vào quy trình lập
pháp cách thức tham vấn chuyên gia công
nghệ và doanh nghiệp nhằm khắc phục sự
bất đối xứng thông tin về các vấn đề công
nghệ trong quá trình xây dựng luật. Hiện
nay, quy trình lập pháp đã có các bước lấy ý
kiến doanh nghiệp và lấy ý kiến nhân dân
cũng như cho phép huy động chuyên gia.
Tuy nhiên, cần đảm bảo quá trình tham vấn
đó được thực hiện một cách linh hoạt hơn và
đảm bảo sự công khai, minh bạch và chịu sự
giám sát của công chúng. Quá trình tham
vấn cũng phải đảm bảo sự khách quan, độc
lập giữa chuyên gia và doanh nghiệp, đảm
bảo các cơ quan xây dựng pháp luật không
lệ thuộc vào ý kiến của bên nào.
Bên cạnh đó, cần quy định trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước trong việc kịp thời
nghiên cứu, đề xuất giải pháp xử lý khi có
các vấn đề pháp lý phát sinh từ các công
nghệ mới, bao gồm giải pháp xây dựng pháp
luật.
Để đáp ứng yêu cầu phản ứng nhanh
và linh hoạt với các vấn đề mới phát sinh,
Quốc hội có thể ban hành nghị quyết làm cơ
sở pháp lý cho việc thiết lập các regulatory
sandbox. Việc cho phép ứng dụng
regulatory sandbox cũng phải gắn với trách
nhiệm đề xuất dự án luật (nếu có thể) sau
quá trình thử nghiệm để nếu việc thử
nghiệm thành công thì thiết lập cơ chế pháp
lý chung điều chỉnh các vấn đề mới này; cần
nghiên cứu giản lược một số khâu trong quá
trình lập pháp để việc ban hành luật điều
chỉnh các vấn đề nêu trên được kịp thời hơn.
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu các ứng dụng
công nghệ để xây dựng nền tảng cho
crowdlaw, cho phép công chúng, chuyên
gia, doanh nghiệp tham gia một cách rộng
rãi và tích cực hơn vào quá trình xây dựng
luật. Ngoài gia, để đảm bảo khắc phục
những điểm trống về mặt pháp luật, cần phát
huy vai trò của toà án trong việc tạo ra các
án lệ và có quy trình phù hợp để xây dựng
các quy tắc pháp luật từ các án lệ
68 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 169 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu Lập pháp - Số 01 - Năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gations, prosecutions, adjudication and enforcement and to
also ensure the legal rights and interests for the participants
in legal proceedings and other relevant entities, the current
criminal procedure law has recorded several provisions on the
handling of exhibits in general criminal cases. However, at
present there are no specific provisions on the handling of
physical evidence of the criminal cases which are mortgaged
properties, causing problems in the process of the law
enforcement.
51Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Theo quy định tại khoản 1 Điều 106
Bộ luật TTHS, nếu vụ án được đình chỉ ở
giai đoạn điều tra thì thẩm quyền xử lý vật
chứng thuộc về Cơ quan điều tra, Cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra. Nếu vụ án được đình chỉ ở giai
đoạn truy tố thẩm quyền xử lý vật chứng
thuộc về Viện kiểm sát. Thẩm quyền xử lý
vật chứng thuộc về Chánh án Toà án nếu vụ
án được đình chỉ ở giai đoạn chuẩn bị xét xử
và thẩm quyền này thuộc về Hội đồng xét xử
nếu vụ án đã đưa ra xét xử.
1.2. Biện pháp xử lý vật chứng
Bộ luật TTHS quy định việc xử lý vật
chứng được thực hiện như sau: vật chứng là
công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng
trữ, lưu hành thì bị tịch thu, nộp ngân sách
nhà nước hoặc tiêu hủy; vật chứng là tiền
bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch
thu, nộp ngân sách nhà nước; vật chứng
không có giá trị hoặc không sử dụng được
thì bị tịch thu và tiêu hủy (khoản 2 Điều 106
Bộ luật TTHS). Ngoài ra, trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan, người có
thẩm quyền cũng có thể: i) Trả lại ngay tài
sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là
vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản
lý hợp pháp tài sản đó; ii) Trả lại ngay vật
chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý
hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến
việc xử lý vụ án và thi hành án; iii) Nếu vật
chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo
quản thì có thể được bán theo quy định của
pháp luật, trường hợp không được bán thì
tiêu huỷ; iv) Nếu vật chứng là động vật
hoang dã và thực vật ngoại lai thì ngay sau
khi có kết luận giám định phải giao cho cơ
quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền
xử lý theo quy định của pháp luật (khoản 3
Điều 106 Bộ luật TTHS). Bộ luật TTHS
cũng hướng dẫn trong trường hợp có tranh
chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng thì
tranh chấp này được giải quyết theo quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự.
Như vậy, khi thu được vật chứng là tài
sản nói chung, tuỳ vào từng giai đoạn cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ xử
lý vật chứng theo nguyên tắc chung là tịch
thu nộp ngân sách nhà nước, tịch thu tiêu
huỷ, trả lại cho chủ sở hữu/người quản lý
hợp pháp, bán hoặc giao cho cơ quan quản
lý chuyên ngành xử lý. Tuy nhiên, trong
trường hợp vật chứng thu được là tài sản thế
chấp thì hiện nay pháp luật chưa có hướng
dẫn cụ thể về phương án xử lý.
1.3. Xử lý vật chứng là tài sản thế chấp
Điều 317 Bộ luật Dân sự năm 2015
(BLDS) về thế chấp tài sản quy định:
“1. Thế chấp tài sản là việc một bên
(sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản
thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia
(sau đây gọi là bên nhận thế chấp).
2. Tài sản thế chấp do bên thế chấp
giữ. Các bên có thể thỏa thuận giao cho
người thứ ba giữ tài sản thế chấp”.
Theo tinh thần của BLDS hiện hành,
các bên trong giao dịch dân sự có thể áp
dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
là thế chấp tài sản. Tức là, bên thế chấp dùng
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên
nhận thế chấp và không phải chuyển giao tài
sản đó cho bên nhận thế chấp2. Nói cách
khác, khi áp dụng biện pháp bảo đảm này,
bên thế chấp không cần giao tài sản cho bên
nhận thế chấp giữ, nếu không có thoả thuận
khác thì bên thế chấp vẫn sử dụng tài sản bảo
đảm bình thường, có thể thu các hoa lợi, lợi
tức phát sinh từ việc sử dụng tài sản đã dùng
để thế chấp.
2 ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải (2018), “Thế chấp tài sản – Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Cổng
thông tin điện tử Bộ Tư pháp, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2376,
truy cập ngày 15/ 01/2020.
Số 1(401) - T1/202052 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Điều 318 BLDS quy định, tài sản thế
chấp có thể là bất động sản hoặc động sản. Nếu
tài sản thế chấp có liên quan đến vụ án hình sự
thì tài sản này sẽ bị xử lý theo quy định.
Để phù hợp với tinh thần của Bộ luật
TTHS, hiện nay chưa có văn bản nào của cơ
quan có thẩm quyền quy định chi tiết về việc
xử lý vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản
thế chấp. Trước đây, khi Bộ luật TTHS năm
1988 còn hiệu lực, liên ngành Toà án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp đã
ban hành Thông tư liên tịch số
06/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-
BCA-BTC-BTP ngày 24/10/1998 hướng
dẫn một số vấn đề về bảo quản và xử lý tài
sản là vật chứng, tài sản bị kê biên trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự3.
Theo đó, đối với vật chứng là kho tàng, nhà
xưởng, khách sạn, nhà, đất, cũng như các
phương tiện sản xuất, kinh doanh khác mà
trước đó bị can, bị cáo đã thế chấp để bảo
đảm nghĩa vụ thanh toán, thì cơ quan đang
thụ lý, giải quyết vụ án xử lý như sau4:
Trường hợp thứ nhất, vật chứng là tài
sản được thế chấp hợp pháp cho một hoặc
nhiều bên mà hợp đồng thế chấp tài sản vẫn
còn thời hạn, thì tuỳ trường hợp cụ thể, cơ
quan đang thụ lý, giải quyết vụ án có thể
giao cho một hoặc nhiều bên đang giữ tài sản
thế chấp (người có tài sản thế chấp, người
nhận thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản
thế chấp) tiếp tục khai thác, sử dụng tài sản
đó. Trong trường hợp, bên đang giữ tài sản
thế chấp là người có tài sản thế chấp hoặc
người nhận thế chấp không có điều kiện khai
thác, sử dụng, thì họ được tìm đối tác để khai
thác, sử dụng. Cơ quan đang thụ lý, giải
quyết vụ án có thể giao cho đối tác đó khai
thác, sử dụng tài sản sau khi có thoả thuận
bằng văn bản giữa người có tài sản thế chấp
hoặc người nhận thế chấp và đối tác nhận
khai thác, sử dụng tài sản. Nếu người đang
giữ tài sản thế chấp là người thứ ba và họ
không có điều kiện khai thác, sử dụng, thì
tuỳ từng trường hợp cụ thể theo thoả thuận
trong hợp đồng thế chấp tài sản, người đó
phải trả lại tài sản cho bên có tài sản thế chấp
hoặc bên nhận thế chấp để những người này
tìm đối tác khai thác, sử dụng. Trong trường
hợp, họ không tìm được đối tác thì cơ quan
đang thụ lý, giải quyết vụ án có thể giao tài
sản cho tổ chức hoặc cá nhân có điều kiện
khai thác, sử dụng trên cơ sở thoả thuận bằng
văn bản giữa cơ quan đang thụ lý, giải quyết
vụ án và tổ chức, cá nhân nhận khai thác, sử
dụng tài sản.
Trong trường hợp, hợp đồng thế chấp
hợp pháp đã hết thời hạn mà bên thế chấp tài
sản không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ của mình, thì tuỳ từng trường
hợp cụ thể, tài sản thế chấp được giao cho
bên nhận thế chấp khai thác, sử dụng hoặc
xử lý để thu hồi vốn và lãi sau khi đã lập đầy
đủ hồ sơ bảo đảm giá trị chứng minh của tài
sản là vật chứng. Phương thức xử lý do các
bên trong hợp đồng thế chấp thoả thuận; nếu
không thoả thuận được, thì bên nhận thế
chấp có quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản
thế chấp, cầm cố để thanh toán nợ.
Hoa lợi, lợi tức thu được từ việc khai
thác, sử dụng tài sản thế chấp và số tiền thu
được từ việc xử lý tài sản thế chấp được dùng
để thanh toán nợ cho bên nhận thế chấp, sau
khi đã trừ các chi phí thực tế hợp lý cho việc
bảo quản, khai thác, sử dụng tài sản thế chấp
và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Người khai thác, sử dụng phải lập sổ hạch
toán, theo dõi riêng để phục vụ cho việc thi
hành bản án, quyết định của Toà án sau này.
Nếu Toà án quyết định bên nhận thế chấp
không được quyền thanh toán như trên, thì
hoa lợi, lợi tức hoặc số tiền thu được từ việc
xử lý tài sản phải trả lại cho người có quyền
3 Sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 06/1998.
4 Mục 5 Phần I Thông tư liên tịch số 06/1998.
53Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
nhận hoa lợi, lợi tức hoặc số tiền đó, sau khi
trừ các chi phí hợp lý cho việc bảo quản, khai
thác, sử dụng và chi phí việc xử lý tài sản và
thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Trường hợp thứ hai, hợp đồng thế
chấp không hợp pháp, thì trong thời gian
chưa có tuyên bố hợp đồng đó bị vô hiệu của
Toà án, cơ quan đang thụ lý, giải quyết vụ
án tạm giao tài sản thế chấp cho bên đang
giữ tài sản thế chấp tiếp tục khai thác, sử
dụng. Trong trường hợp, người đang giữ tài
sản là bên có tài sản thế chấp hoặc bên nhận
thế chấp không có điều kiện khai thác, sử
dụng, nhưng họ tìm được đối tác để khai
thác, sử dụng, thì cơ quan đang thụ lý, giải
quyết vụ án có thể giao cho đối tác đó khai
thác, sử dụng tài sản sau khi có thoả thuận
bằng văn bản giữa người có tài sản thế chấp
hoặc người nhận thế chấp và đối tác nhận
khai thác, sử dụng tài sản. Nếu người đang
giữ tài sản thế chấp là người thứ ba và họ
không có điều kiện khai thác, sử dụng, thì
tuỳ từng trường hợp cụ thể theo thoả thuận
trong hợp đồng thế chấp tài sản, người đó
phải trả lại tài sản cho bên có tài sản thế chấp
hoặc bên nhận thế chấp để những người này
tìm đối tác khai thác, sử dụng. Trong trường
hợp, họ không tìm được đối tác khai thác, sử
dụng, thì cơ quan đang thụ lý, giải quyết vụ
án có thể giao tài sản cho tổ chức, cá nhân
có điều kiện khai thác, sử dụng trên cơ sở
thoả thuận bằng văn bản giữa cơ quan đang
thụ lý, giải quyết vụ án và tổ chức, cá nhân
nhận khai thác, sử dụng tài sản.
Người khai thác, sử dụng tài sản có
trách nhiệm bảo quản, khai thác, sử dụng và
không được làm mất mát, hư hỏng, không
được phát mại, chuyển quyền sở hữu cho
đến khi có bản án, quyết định của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật.
Hoa lợi, lợi tức thu được tạm thời giao
cho người đang giữ tài sản hoặc người khai
thác, sử dụng quản lý cho đến khi có bản án,
quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật, sau khi đã trừ các chi phí thực tế hợp
lý cho việc bảo quản, khai thác, sử dụng tài
sản thế chấp và thực hiện nghĩa vụ đối với
Nhà nước.
Trường hợp thứ ba, tài sản là vật
chứng được dùng để thế chấp cho nhiều bên,
trong đó có bên hợp pháp và có bên không
hợp pháp, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể, cơ
quan đang thụ lý, giải quyết vụ án chỉ cho
phép bên có tài sản thế chấp, bên nhận thế
chấp hợp pháp hoặc người thứ ba đang giữ
tài sản của họ nhận khai thác, sử dụng. Trong
trường hợp này, tài sản được giao để bảo
quản, sử dụng, khai thác không được xử lý
để thu hồi vốn trước khi kết thúc vụ án.
Hoa lợi, lợi tức thu được được tạm
thời dùng để thanh toán nợ cho bên nhận thế
chấp hợp pháp cho đến khi có quyết định,
bản án có hiệu lực pháp luật của Toà án, sau
khi đã trừ các chi phí thực tế hợp lý cho việc
bảo quản, khai thác, sử dụng tài sản thế chấp
và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều
38 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày
14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật: “Văn bản
quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản
quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi
hành các điều, khoản, điểm được giao quy
định chi tiết thi hành văn bản đó đồng thời
hết hiệu lực”. Đồng thời, Mục 10 Nghị quyết
số 33/NQ-CP ngày 09/5/2016 của Chính phủ
cũng hướng dẫn: “Đối với các văn bản quy
định chi tiết của các luật, pháp lệnh đã hết
hiệu lực nhưng chưa ban hành kịp thời văn
bản thay thế, Chính phủ thống nhất tiếp tục
áp dụng nếu không trái với tinh thần của
luật, pháp lệnh mới được ban hành”. Vì
vậy, mặc dù Bộ luật TTHS năm 1988 đã hết
hiệu lực nhưng liên ngành Toà án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ
Công an, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp chưa
ban hành Thông tư liên tịch mới thay thế cho
Thông tư liên tịch số 06/1998, đồng thời
những nội dung được hướng dẫn trước đây
Số 1(401) - T1/202054 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
vẫn có những điểm còn phù hợp với tinh
thần của Bộ luật TTHS nên có thể sử dụng
Thông tư liên tịch số 06/1998, làm cơ sở
hướng dẫn xử lý vật chứng là tài sản thế
chấp trong vụ án hình sự.
2. Một số vướng mắc trong quá trình áp
dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật
2.1 Một số vướng mắc trong quá
trình áp dụng áp luật về xử lý vật chứng
trong vụ án hình sự là tài sản thế chấp
Như đã phân tích, do chưa có văn bản
chính thức hướng dẫn cụ thể, chi tiết về vấn
đề xử lý vật chứng là tài sản thế chấp nên
trên thực tế, việc áp dụng luật trong xử lý vật
chứng gặp những vướng mắc nhất định. Ví
dụ trong vụ án hình sự5 sau:
Ngày 21/9/2018 và ngày 22/9/2018,
Phan Ngọc R điều khiển xe ôtô tải đi trộm
cắp tài sản là gỗ keo nguyên liệu. Công an
đã thu giữ xe ô tô tải. Quá trình điều tra đã
xác định được xe ô tô tải mà Phan Ngọc R
dùng làm phương tiện đi trộm cắp là tài sản
chung của vợ chồng R mua năm 2016 với số
tiền là 137.000.000 đồng. Ngày 07/3/2018,
Phan Ngọc R dùng xe ô tô tải thế chấp tại
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn để vay số tiền 70.000.000 đồng, đến
ngày 07/3/2019 thì hết hạn hợp đồng. Giấy
tờ gốc của xe ô tô (đăng ký, đăng kiểm,
chứng nhận bảo hiểm) do Ngân hàng quản
lý. Phan Ngọc R bị Viện kiểm sát nhân dân
huyện P truy tố về tội “trộm cắp tài sản”.
Trong vụ án này, có nhiều quan điểm
khác nhau về việc xử lý vật chứng được thu
giữ (xe ô tô tải) như:
Quan điểm thứ nhất: Xe ô tô tải là tài
sản thuộc quyền sở hữu của vợ chồng Phan
Ngọc R được xác định là phương tiện phạm
tội, R dùng xe ô tô tải làm phương tiện đi
trộm cắp tài sản, thì áp dụng điểm a khoản 1
Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS),
điểm a khoản 1 Điều 106 Bộ luật TTHS, tịch
thu sung vào ngân sách nhà nước (nếu vợ
Phan Ngọc R biết R dùng xe ô tô tải làm
phương tiện đi trộm cắp tài sản). Tịch thu ½
giá trị xe để sung vào ngân sách nhà nước,
trả lại cho vợ Phan Ngọc R ½ giá trị xe ô tô
tải (nếu vợ R không biết R dùng xe ô tô tải
làm phương tiện đi trộm cắp tài sản). Việc
Phan Ngọc R dùng xe ô tô tải để thế chấp tại
Ngân hàng không làm mất đi quyền sở hữu
của Phan Ngọc R khi Phan Ngọc R dùng làm
phương tiện phạm tội thì xử lý theo quy định
của pháp luật.
Quan điểm thứ hai: Xe ô tô tải là tài
sản thuộc quyền sở hữu của vợ chồng Phan
Ngọc R, nhưng Phan Ngọc R đã dùng xe ô
tô tải để thế chấp tại Ngân hàng vay số tiền
là 70.000.000 đồng. Vì vậy, giao lại xe cho
Ngân hàng để Ngân hàng xử lý tài sản đảm
bảo (vì đã hết thời hạn vay, nhưng Phan
Ngọc R không có khả năng trả nợ).
Quan điểm thứ ba: Xe ô tô tải là tài sản
thuộc quyền sở hữu của vợ chồng Phan
Ngọc R, nhưng Phan Ngọc R đã dùng xe ô
tô tải để thế chấp tại Ngân hàng vay số tiền
là 70.000.000 đồng. Tuy nhiên, xe ô tô tải
mua ban đầu với số tiền là 137.000.000
đồng. Do đó, áp dụng điểm a khoản 1, khoản
2 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 1 Điều 106
Bộ luật TTHS năm 2015 tịch thu xe ôtô tải,
giao cho Ngân hàng bán đấu giá để thu hồi
số tiền mà bị cáo R đã vay là 70.000.000
đồng và tiền lãi (vì đã hết thời hạn vay,
nhưng Phan Ngọc R không có khả năng trả
nợ). Số tiền bán xe ôtô tải sau khi trừ tiền
vay, lãi và chi phí bán đấu giá còn lại (nếu
còn) chia đôi, trả cho vợ Phan Ngọc R ½ số
tiền. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước
½ số tiền (phần của Phan Ngọc R).
Thực tế cũng đã có trường hợp, Cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xử lý
5 Phan Thị Lan (TAND huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam) (2019), Xử lý vật chứng của vụ án là tài sản thế
chấp như thế nào cho đúng?, Tạp chí Toà án nhân dân điện tử, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/xet-xu/xu-ly-vat-
chung-cua-vu-an-la-tai-san-the-chap-nhu-the-nao-cho-dung, truy cập ngày 15 tháng 01 năm 2020.
55Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
vật chứng là tài sản bảo đảm hướng theo
điểm thứ nhất ở vụ án trên6:
Nguyễn Thị A (ngụ tại thành phố Vũng
Tàu) là chủ sở hữu 3 tàu đánh cá (số hiệu:
BV-9244-TS, BV-9342-TS, BV-5741-TS) và
đã thế chấp cho Ngân hàng Công thương
Việt Nam Chi nhánh Bà Rịa – Vũng Tàu
(cho 3 hợp đồng tín dụng với tổng nợ gốc
2.250.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng
và 60 tháng) theo các hợp đồng thế chấp số
0612.0278 ngày 24/11/2006, số 0612.0299
ngày 28/12/2006 và số 0744.0003 ngày
10/01/2007 (các hợp đồng thế chấp đã được
công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm
tại Trung tâm Đăng ký giao dịch bảo đảm tại
TP. Hồ Chí Minh). Tháng 4/2007, Nguyễn
Thị A cùng 4 đồng phạm khác dùng 3 tàu
trên đi biển để cắt cáp viễn thông. Khi bị
khởi tố hình sự, cơ quan điều tra đã kê biên
và giao 3 tàu cá cho gia đình A quản lý. Tại
Bản án sơ thẩm số 83/2008/HS-ST ngày
04/04/2008, Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu đã tuyên: Nguyễn Thị A và các
đồng phạm khác phạm vào tội “phá huỷ
công trình, phương tiện quan trọng về an
ninh quốc gia”, với các mức án từ 3 đến 12
năm tù; xét thấy: trước khi các bị cáo sử
dụng 3 tàu đánh cá làm phương tiện phạm
tội thì 3 tàu này đã được thế chấp hợp pháp
cho ngân hàng nên bản án đã giao cho Ngân
hàng Công thương Việt Nam Chi nhánh Bà
Rịa – Vũng Tàu cùng thi hành án và gia đình
bà A thanh lý trước hạn 3 hợp đồng tín dụng,
xử lý bán 3 tài sản bảo đảm để thu hồi nợ
vay, phần giá trị còn lại, nếu có, tịch thu
sung quỹ nhà nước. Ngày 18/4/2008, Viện
Kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
đã có kháng nghị số 210/VKS đề nghị Toà
phúc thẩm căn cứ Điều 41 BLHS tuyên xử
tịch thu 3 chiếc tàu để sung quỹ nhà nước
(các bị cáo cũng có kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt).
Tại phiên toà phúc thẩm ngày
19/9/2008, đại diện Viện kiểm sát nhân dân
tối cao giữ nguyên kháng nghị và Hội đồng
xét xử đã tuyên bác các kháng cáo và chấp
nhận kháng nghị về việc xử lý tịch thu 3 tàu
cá là vật chứng, với nhận định mặc dù 3 tàu
cá được thế chấp hợp lệ nhưng việc thế chấp
không làm mất đi quyền sở hữu (của A với 3
tàu cá) nên vẫn đủ điều kiện tịch thu.
Có thể thấy rằng, nếu hiểu và áp dụng
pháp luật như quan điểm thứ nhất sẽ làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của bên nhận thế chấp hợp pháp
và cũng không đúng với tinh thần của Thông
tư liên tịch số 06/1998.
Đối với quan điểm thứ hai, nếu chỉ xử
lý vật chứng theo hướng giao tài sản cho bên
nhận thế chấp cùng những người có liên
quan phát mại, thanh lý hợp đồng thế chấp
giữa các bên trước đó sẽ không phù hợp với
quy định về hướng xử lý vật chứng theo quy
định của Bộ luật TTHS.
Tác giả cho rằng, việc xử lý vật chứng
là tài sản thế chấp như quan điểm thứ ba là
hợp lý, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
cho người tham gia tố tụng và những chủ thể
khác có liên quan, đồng thời phù hợp với quy
định của Bộ luật TTHS, BLDS. Tuy nhiên,
hướng xử lý này vẫn chỉ dừng lại ở quan
điểm cá nhân, cần thiết phải có hướng dẫn
chính thức từ cơ quan có thẩm quyền để việc
áp dụng pháp luật được thống nhất, hiệu quả.
2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Để bảo đảm việc áp dụng quy định của
pháp luật về xử lý vật chứng trong vụ án
hình sự được thống nhất, hiệu quả, tác giả
cho rằng, cần ban hành văn bản mới thay thế
cho Thông tư liên tịch số 06/1998 theo
hướng đối với vật chứng của vụ án hình sự
là tài sản mà bị can, bị cáo đã thế chấp để
đảm bảo nghĩa vụ thanh toán thì Cơ quan có
6 LS. Đỗ Hồng Thái (2008), “Vấn đề xử lý vật chứng là tài sản bảo đảm tiền vay nhìn từ một vụ án”, Tạp chí
Ngân hàng, Hà Nội, số 21/2008.
Số 1(401) - T1/202056 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
thẩm quyền tiến hành tố tụng đang thụ lý,
giải quyết vụ án xử lý như sau:
a) Trường hợp thứ nhất, vật chứng là
tài sản thế chấp chỉ thuộc quyền sở hữu/sử
dụng của người bị buộc tội. Nếu hợp đồng
thế chấp đúng pháp luật, còn thời hạn, tài sản
còn giá trị sử dụng thì giao cho bên nhận thế
chấp sử dụng, khai thác cho đến khi hết hạn
hợp đồng. Hoa lợi, lợi tức thu được từ việc
sử dụng, khai thác đó được khấu trừ vào
nghĩa vụ hợp đồng thế chấp sau khi đã thanh
toán các chi phí phát sinh từ việc sử dụng,
khai thác tài sản cho đến khi bên nhận thế
chấp được thanh toán đủ giá trị hợp đồng thế
chấp. Hết thời hạn hợp đồng thế chấp mà
hoa lợi, lợi tức thu được từ việc khai thác, sử
dụng đã đủ để thanh lý hợp đồng thì tịch thu
tài sản, sung quỹ Nhà nước. Trường hợp hết
thời hạn trong hợp đồng thế chấp mà hoa lợi,
lợi tức chưa đủ để thanh toán nghĩa vụ thì
phát mại tài sản để thanh lý hợp đồng thế
chấp sau khi đã thanh toán các chi phí phát
sinh từ việc sử dụng, khai thác tài sản thế
chấp. Giá trị tài sản thế chấp sau khi bán phát
mại còn lại sau khi thanh lý hợp đồng thế
chấp được tịch thu, sung quỹ Nhà nước. Nếu
bên nhận thế chấp không thể trực tiếp sử
dụng, khai thác thì có thể thoả thuận với bên
thứ ba theo quy định của BLDS để khai thác,
sử dụng.
Nếu hợp đồng thế chấp đúng pháp
luật, hết thời hạn, tài sản thế chấp còn giá trị
sử dụng: phát mại để thanh lý hợp đồng,
phần giá trị của tài sản nếu còn thì tịch thu,
sung quỹ Nhà nước. Trường hợp phát mại tài
sản thế chấp nhưng vẫn không đủ để thanh
lý hợp đồng thì hướng dẫn các bên trong hợp
đồng thế chấp giải quyết tiếp theo thủ tục tố
tụng dân sự.
Nếu hợp đồng thế chấp đúng pháp luật
nhưng tài sản thế chấp hư hỏng/không còn
giá trị sử dụng thì hướng dẫn bên nhận thế
chấp yêu cầu giải quyết quyền lợi theo thủ
tục tố tụng dân sự. Nếu hợp đồng thế chấp
không đúng pháp luật thì yêu cầu Toà án
tuyên hợp đồng vô hiệu, tịch thu tài sản,
sung quỹ Nhà nước.
b) Trường hợp thứ hai, vật chứng là tài
sản thế chấp thuộc quyền sở hữu/sử dụng
của nhiều người trong đó có người bị buộc
tội nhưng nghĩa vụ của hợp đồng thế chấp
chỉ liên quan đến người bị buộc tội. Nếu hợp
đồng thế chấp đúng pháp luật, còn thời hạn,
tài sản còn giá trị sử dụng thì giao cho những
chủ sở hữu/người sử dụng còn lại hoặc bên
nhận thế chấp tiếp tục khai thác, sử dụng. Sau
khi thanh toán chi phí cho việc khai thác, sử
dụng, phân chia quyền lợi cho đồng chủ sở
hữu/sử dụng, việc thanh lý hợp đồng thế chấp
giữa người bị buộc tội và bên nhận thế chấp
được thực hiện tương tự như đoạn 1 mục a.
Nếu hợp đồng thế chấp đúng pháp
luật, hết thời hạn, nghĩa vụ trong hợp đồng
thế chấp chỉ liên quan đến người bị buộc tội,
tài sản còn giá trị sử dụng thì phát mại, chia
theo phần để xác định giá trị tài sản thuộc sở
hữu của người bị buộc tội sau đó thanh lý
hợp đồng thế chấp, nếu giá trị không đủ để
thanh lý thì hướng dẫn bên nhận thế chấp
yêu cầu giải quyết quyền lợi theo thủ tục tố
tụng dân sự. Sau thanh lý hợp đồng thế chấp,
giá trị tài sản nếu còn được tịch thu, sung
quỹ Nhà nước. Phần giá trị tài sản thuộc
quyền sở hữu của các bên khác thì thanh
toán cho các bên khác, nếu các bên khác
không đồng ý thì hướng dẫn giải quyết theo
thủ tục tố tụng dân sự.
Trường hợp hợp đồng thế chấp tài sản
đúng pháp luật, tài sản thế chấp hư hỏng,
không còn giá trị sử dụng thì hướng dẫn các
bên giải quyết quyền lợi theo thủ tục tố tụng
dân sự. Trường hợp hợp đồng thế chấp tài sản
không đúng pháp luật thì yêu cầu Toà án
tuyên hợp đồng vô hiệu, phát mại tài sản để
xác định giá trị tài sản thuộc sở hữu của người
bị buộc tội để tịch thu, sung quỹ Nhà nước.
Giá trị tài sản thuộc sở hữu của các bên khác
thì trả lại cho các bên khác, nếu họ không
đồng ý thì hướng dẫn họ yêu cầu giải quyết
quyền lợi theo thủ tục tố tụng dân sự n
57Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1 Trích dẫn bởi Diễn đàn kinh tế thế giới trong bài viết How governance is changing in the 4IR tại trang web
https://www.weforum.org/agenda/2018/01/agile-governance-changing-4ir-public-private-emerging-tech-
nologies/, xem nội dung phỏng vấn gốc tại https://www.khanacademy.org/partner-content/aspeninstitute/
american-diplomatic-toolbox/madeleine-albright/v/albright-21st-century-technology
TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
ĐẾN QUY TRÌNH LẬP PHÁP Ở VIỆT NAM
NHÌN TỪ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Trần Thị Quang Hồng*
* TS. Trưởng ban NCPL Dân sự - Kinh tế, Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, lập pháp, đối thoại, khu vực thử nghiệm
công nghệ, luật của công chúng, quản trị
linh hoạt.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 07/09/2019
Biên tập : 16/09/2019
Duyệt bài : 17/09/2019
Article Infomation:
Key words: fourth industrial revolution;
legislation; dialogue; regulatory sandbox;
crowdlaw; agile governance.
Article History:
Received : 07 Sep. 2019
Edited : 16 Sep. 2019
Approved : 17 Sep. 2019
Tóm tắt:
Bài viết chia sẻ những nhận định về tác động của cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đến hoạt động lập pháp, chia sẻ cách
thức ứng xử của một số quốc gia về vấn đề này và từ đó rút ra
những gợi mở cho Việt Nam.
Abstract:
This article provides the author's observations about the
impacts of the fourth industrial revolution on legislation
activities as well as the responses of some selected countries.
It is also based on the international practices so that a number
of implications are suggested for Vietnam.
Trong một cuộc phỏng vấn về nhữngtác động của cách mạng công nghệtrong thế kỷ 21 đối với nhà nước, cựu
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Madelein Albrights đã
có một nhận xét đại ý rằng, các chính phủ
hiện nay đối mặt với các thách thức của thế
kỷ 21 bằng tư duy của thế kỷ 20 và với hệ
thống thiết chế của thế kỷ 191. Đó có lẽ là sự
cảnh báo rõ rệt nhất về thách thức đối với
quản trị nhà nước trong kỷ nguyên công
nghệ, đặc biệt đối với công tác xây dựng luật
vốn thường được xem là thường đi sau sự
phát triển kinh tế. Trong bối cảnh cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, tốc độ phát
Số 1(401) - T1/202058 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
triển nhanh chóng của công nghệ đòi hỏi nhà
nước phải có khả năng đáp ứng nhanh hơn
nữa sự phát triển của công nghệ để không
kìm hãm sự sáng tạo, đồng thời không để
xảy ra những hậu quả đáng tiếc do xung đột
lợi ích tạo ra từ việc sử dụng công nghệ.
Điều này tạo ra áp lực thay đổi đối với các
quốc gia trên thế giới và Việt Nam, đặc biệt
là trong lĩnh vực lập pháp.
1. Những nhận định về tác động của cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đến quy
trình lập pháp
Không nằm ngoài những lĩnh vực chịu
sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, quy trình lập pháp
đang đứng trước những thách thức lớn phát
sinh từ cuộc cách mạng này.
Thách thức thứ nhất là khả năng điều
chỉnh các vấn đề mới nảy sinh một cách phù
hợp. Sự phù hợp đòi hỏi sự hiểu biết chính
xác về công nghệ phát sinh cũng như tác
động của nó đối với xã hội. Công nghệ càng
phát triển thì khoảng cách về sự hiểu biết
giữa các nhà phát triển công nghệ và các nhà
lập pháp cũng ngày càng lớn. Các cơ quan
lập pháp thường không có các nhà phát triển
công nghệ và kỹ sư phần mềm trong bộ máy
giúp việc của mình. Các nhà hoạch định
chính sách không chỉ không biết về bản chất
và ý nghĩa của những công nghệ mới, mà có
thể còn không biết rằng thực ra họ cần biết
điều gì. Trong khi trách nhiệm của họ là phải
xây dựng các quy tắc pháp luật điều chỉnh
nó2. Chỉ nhìn vào sự ra đời và phát triển của
hệ thống vận chuyển khách dựa trên nền
tảng ứng dụng gọi xe, đặc biệt là Uber ở trên
thế giới và Grab ở Đông Nam Á, chúng ta
có thể thấy các nhà lập pháp đang gặp những
khó khăn như thế nào trước những vấn đề
mới phát sinh. Khi Uber đã trở thành một
chủ thể quan trọng và cung cấp dịch vụ rộng
rãi trên thị trường, pháp luật vẫn chưa hề có
những quy định tương ứng để điều chỉnh,
dẫn đến những xung đột xã hội và xung đột
pháp lý gay gắt. Từ năm 2014, ở Pháp và
nhiều nước trên thế giới, người ta chứng kiến
hàng loạt các cuộc biểu tình của tài xế taxi
truyền thống để phản đối và yêu cầu Chính
phủ có biện pháp để Uber cũng phải thực thi
pháp luật như họ3. Uber cũng đối mặt với các
cuộc khiếu kiện tập thể từ những người làm
taxi theo mô hình truyền thống khiến họ có
nguy cơ phải chịu những thiệt hại lớn về tài
chính4. Ở Việt Nam cũng diễn ra những xung
đột tương tự giữa taxi hoạt động theo mô
hình truyền thống và taxi hoạt động trên nền
tảng công nghệ5. Tuy nhiên, những vấn đề
pháp lý phát sinh đối với hoạt động của taxi
công nghệ kiểu như Uber không chỉ ra cho
thấy những điểm trống trong pháp luật về
mô hình kinh doanh, mà còn cho thấy điểm
trống trong pháp luật liên quan đến lao động.
Ở Anh, các tài xế Uber kiện công ty ra Toà
án Anh để yêu cầu công ty ứng xử với họ
như những người lao động làm việc cho
công ty (thay vì việc Uber áp dụng chính
sách đối với họ như những đối tác thương
mại)6. Vấn đề chính sách với người lao động
2 Jennifer Prioleau, Scott Winkelman, John Gibson, and Rebecca Chaney, Seven Ways to Prepare Your Legal
Department for the Fourth Industrial Revolution
3 Xem https://vtv.vn/bieu-tinh-phan-doi-uber.html; https://ndh.vn/photo/anh/anh-tai-xe-taxi-don-dap-bieu-
tinh-chong-uber-tren-toan-the-gioi-1081810.html.
4 Vicky Xiuzhong Xu, Australian Taxi Drivers Sue Uber Over Lost Wages in Class-Action Lawsuit,
https://www.nytimes.com/2019/05/03/technology/australia-uber-drivers-class-action.html
5 Xem https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/dau-tu/grab-bam-dap-vi-nhung-phan-quyet-nua-
voi-543624.html.
6 Xem https://www.washingtonpost.com/news/worldviews/wp/2017/11/10/with-new-court-loss-in-britain-eu-
rope-becomes-more-of-a-minefield-for-uber/
59Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
hợp tác với doanh nghiệp theo công việc
cũng không phải là vấn đề của riêng Uber
hay các hãng taxi vận chuyển khách trên nền
tảng công nghệ khác mà là vấn đề phổ biến
của cái gọi là gig economy - nền kinh tế
trong đó người lao động hợp tác với doanh
nghiệp theo công việc - một mô hình kinh tế
được đánh giá là đang ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn trong xã hội7. Trong khi các nhà
nước chưa có những giải pháp pháp lý có thể
giải quyết triệt để những vấn đề phát sinh từ
việc ứng dụng các công nghệ mới thì họ
cũng lại phải đối mặt với những thách thức
mới còn lớn hơn. Ở Mỹ, việc Facebook công
bố kế hoạch ban hành đồng tiền kỹ thuật số
Libra đang làm cho các nhà hoạch định
chính sách của Hoa Kỳ lúng túng và quan
ngại bởi sức ảnh hưởng vô cùng to lớn của
Libra khi nó được gắn với mạng xã hội
Facebook có hàng tỷ người dùng.
Thách thức thứ hai là khả năng đáp
ứng của luật với những diễn biến nhanh của
cách mạng công nghiệp. Pháp luật vốn
thường đi sau sự phát triển của xã hội và
càng đi sau sự phát triển của công nghệ.
Những ví dụ trên đây về Uber, Grab, Libra
hay gig economy cũng là minh chứng rõ rệt
của sự đi sau này.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
nhất được coi là bắt đầu từ năm 1765 và diễn
ra từ cuối thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19. Hơn
100 năm kể từ thời điểm bắt đầu của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, năm
1876 được xác định là thời điểm bắt đầu của
cách mạng công nghiệp lần thứ hai. Cuộc
cách mạng này đã diễn ra từ cuối thế kỷ 19
đến đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, sau đó, thế
giới không mất tới 100 năm để chuyển sang
một cuộc cách mạng công nghiệp mới, cách
mạng công nghiệp lần thứ ba, được coi là bắt
đầu từ năm 1969 và kéo dài từ thập niên 70
của thế kỷ 20 đến cuối thế kỷ 20. Và đến nay,
chỉ chưa đầy 40 năm kể từ thời điểm khởi
đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
ba, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã bắt
đầu8. Rõ ràng, thời gian để tạo ra những sự
phát triển đột biến về công nghệ ngày càng
ngắn lại.
Không giống như tốc độ phát triển của
công nghệ, tốc độ làm luật, theo quy trình
làm luật được hình thành bắt đầu từ thế kỷ
19, về cơ bản không thay đổi, và có lẽ cũng
khó có thể thay đổi. Các quy trình lập pháp,
hình thành từ sau cách mạng tư sản (có liên
quan chặt chẽ với cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ nhất) được thiết kế theo yêu
cầu của nền pháp quyền dân chủ. Mục tiêu
của nó là ngăn cản sự độc đoán, chuyên
quyền trong các chế độ nhà nước trước đó
bằng các chế độ dân chủ, đảm bảo sự tham
gia ngày càng rộng rãi của người dân vào
quá trình làm luật (bởi chính họ hoặc những
người đại diện của họ), đồng thời, thể hiện
sự thận trọng của quá trình lập pháp nhằm
hướng đến những đạo luật có sự cân bằng về
lợi ích, không có sai sót về kỹ thuật, có khả
năng bao quát các tình huống của đời sống
xã hội, bảo đảm việc áp dụng nó trên thực tế
thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Một
khi được ban hành, các đạo luật này sẽ có
hiệu lực ràng buộc đối với tất cả các chủ thể,
kể cả những người đã ban hành ra nó. Quy
trình đó đòi hỏi mỗi đạo luật phải được
nghiên cứu kỹ lưỡng, tất cả những vấn đề
liên quan đến nó phải được xem xét, tất cả
những chủ thể liên quan đến nó phải được
tham vấn, việc thông qua nó phải dựa trên
cơ sở thảo luận kỹ càng, vì vậy, quá trình lập
pháp không thể diễn ra trong ngày một ngày
hai. Như vậy, về cơ bản, quy trình lập pháp
7 Xem https://www.forbes.com/sites/johnfrazer1/2019/02/15/how-the-gig-economy-is-reshaping-careers-for-
the-next-generation/#587a51849ada
8 https://www.sentryo.net/the-4-industrial-revolutions/.
Số 1(401) - T1/202060 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
là không thể rút ngắn. Điều này dẫn đến hệ
quả là, chúng ta khó có thể tạo ra những đạo
luật: vừa đáp ứng được những yêu cầu lập
pháp như trên, vừa có thể phản ứng tức thời
với những vấn đề đang phát sinh từ tốc độ
phát triển chóng mặt của công nghệ.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải tìm ra
giải pháp nhằm bảo đảm cho pháp luật thích
ứng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật.
Điều này có nghĩa là, cần tạo ra sự cân bằng
giữa yêu cầu đảm bảo tính phổ quát, tính cân
bằng lợi ích của một đạo luật với khả năng
phản ứng một cách nhanh chóng với các vấn
đề mới đang liên tục phát sinh từ cách mạng
công nghiệp.
Bên cạnh những thách thức, cách
mạng công nghiệp cũng đang tạo ra những
tiện ích quan trọng để hỗ trợ cho công tác
xây dựng pháp luật. Công nghệ mới có thể
giúp kết nối nhanh chóng và hiệu quả các
nhà lập pháp với công chúng. Ứng dụng của
công nghệ như Internet of things, thực tiễn
ảo (virtual reality), thực tiễn ảo tăng cường
(augmented virtual reality) v.v. có thể cho
phép quá trình tham vấn được thực hiện
minh bạch, công khai và rộng rãi hơn. Người
dân, doanh nghiệp, chuyên gia có thể tiếp
cận dễ dàng hơn với quá trình làm luật. Ứng
dụng công nghệ, chẳng hạn như Big Data,
AI, có thể giúp phân hoá các vấn đề và đối
tượng lấy ý kiến, từ đó người được tham vấn
có thể dễ dàng nhận ra những vấn đề gì tác
động trực tiếp tới họ để dành sự quan tâm
cũng như có ý kiến về vấn đề đó. Các công
cụ này cũng có thể giúp phân tích kết quả lấy
ý kiến, giúp cho việc sử dụng kết quả lấy ý
kiến được nhanh chóng, hiệu quả và loại dần
các yếu tố chủ quan trong việc phân tích các
ý kiến tham gia Việc phát huy sức mạnh
của công nghệ cũng là giúp các nhà lập pháp
đáp ứng tốt hơn yêu cầu điều chỉnh pháp luật
một cách nhanh chóng và phù hợp như đã
nêu ở trên.
2. Kinh nghiệm quốc tế về điều chỉnh quy
trình lập pháp thích ứng với yêu cầu của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Có lẽ còn quá sớm để có thể có những
khẳng định chắc chắn về những bài học kinh
nghiệm tốt nhất (international best practice)
về cách thức ứng xử về chính sách và pháp
luật trước những tác động chưa từng có của
cách mạng công nghiệp. Bởi chính các quốc
gia công nghệ hàng đầu thế giới như Hoa
Kỳ, Nhật Bản cũng đang gặp khó khăn trước
những vấn đề này. Tuy nhiên, cách mà quốc
gia trên thế giới đang phản ứng trước tác
động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư
cũng gợi mở những cách làm mới về hoạch
định chính sách mà các quốc gia có thể tham
khảo khi đối mặt với những tình huống lập
pháp mà cách mạng công nghiệp lần thứ tư
mang lại.
Cách ứng xử đầu tiên cần được lựa
chọn là thực hiện nghiên cứu một cách kỹ
lưỡng và đầy đủ nhất trong khả năng có thể
về tác động của mỗi công nghệ và mỗi mô
hình kinh doanh mới đối với xã hội để tạo
cơ sở cho việc hoạch định chính sách. Nhiều
nhà nước trên thế giới đang thực hiện rất tích
cực công việc này. Chẳng hạn cựu Thủ
tướng Anh Theresa May khi còn tại vị đã yêu
cầu có những nghiên cứu kỹ lưỡng về tác
động của gig ecocomy9.
Bên cạnh đó, các nhà lập pháp và
hoạch định chính sách nói chung cũng đang
tiếp cận các yêu cầu lập pháp mới theo
hướng tăng cường trao đổi và lắng nghe từ
phía các nhà phát triển công nghệ. Có thể
nhìn cách các nhà hoạch định chính sách
Hoa Kỳ đang ứng xử với động thái công bố
kế hoạch của Facebook đưa ra thị trường
đồng tiền kỹ thuật số Libra để minh chứng
9
co-quyen-loi-khi-lam-them-20161031011208876.chn.
61Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
cho cách ứng xử này. Khi chưa thực sự rõ
ràng về những tác động mà Libra của
Facebook có thể mang lại, cách các nhà
hoạch định chính sách Mỹ lựa chọn là lắng
nghe và đưa ra những tín hiệu chính sách
cũng như những quan ngại để chính các nhà
phát triển công nghệ phải suy nghĩ và cân
nhắc. Quốc hội Hoa Kỳ cũng tạo ra những
cơ hội đối thoại và để lắng nghe từ phía các
nhà phát triển công nghệ, chẳng hạn mời
giám đốc phụ trách phát triển Libra của
Facebook đến để điều trần trước Quốc hội.
Ở Hàn Quốc, các nhà hoạch định chính sách
cũng đang làm việc tích cực với doanh
nghiệp. Một trong những ví dụ là quá trình
đối thoại giữa các cơ quan nhà nước với
Samsung trước khi Tập đoàn này cho đưa ra
thị trường sản phẩm Samsung Pay. Việc đối
thoại một cách thiện chí và minh bạch, được
giám sát bởi công chúng, chính là một trong
những yếu tố mà quy trình lập pháp trong
giai đoạn cách mạng công nghiệp 4.0 cần
phải có để đảm bảo có những chính sách
thích hợp. Việc đối thoại này không chỉ dành
cho các doanh nghiệp lớn và có tầm ảnh
hưởng. Ở các quốc gia, các nhà lập pháp và
các chuyên gia của họ đang ngày chú ý nhiều
hơn đến những cá nhân và doanh nghiệp nhỏ
có thể cung cấp cho họ những quan điểm và
ý kiến nhằm thúc đẩy hơn sự sáng tạo10.
Bên cạnh lắng nghe và đối thoại, việc
các cơ quan nhà nước công khai đưa ra
những tín hiệu chính sách đối với những vấn
đề mới phát sinh trước khi đưa ra những biện
pháp điều chỉnh chính thức cũng có thể
mang lại những tác động tích cực. Chẳng
hạn đối với Libra, Bộ trưởng Tài chính Hoa
Kỳ nói lên e ngại về khả năng tiền kỹ thuật
số có thể bị khủng bố lạm dụng trong khi
Tổng thống Mỹ Donal Trump bày tỏ quan
điểm rằng Facebook có lẽ cần một mô hình
ngân hàng để có thể đưa ra Libra ra thị
trường11. Những tín hiệu chính sách này, khi
được công khai, có thể xem như những
thông điệp hướng tới doanh nghiệp và các
nhà phát triển công nghệ để họ cân nhắc
trong quá trình phát triển sản phẩm của mình
và cũng là cơ sở của sự hợp tác giữa họ với
các nhà hoạch định chính sách. Facebook
cũng cho biết họ mong có được sự vào cuộc
của các nhà quản lý, các ngân hàng trung
ương và các nhà lập pháp để có thể đưa sản
phẩm ra thị trường một cách phù hợp. Việc
đưa ra các thông điệp một cách công khai và
cởi mở như vậy có thể là một cách làm có
tính xây dựng, giúp cho quá trình hoàn thiện
các quy tắc pháp luật liên quan được thực
hiện một cách tích cực và đặc biệt là có sự
giám sát của công chúng.
Một trong những phương thức thiết
lập các quy định về quản lý trong bối cảnh
cách mạng công nghiệp lần thứ tư được
nhiều quốc gia sử dụng là mô hình
regulatory sandbox (tạm dịch là Khu vực thử
nghiệm công nghệ). Việc thiết lập cơ chế
quản lý theo cách này được coi là thích hợp
để khuyến khích các ứng dụng công nghệ và
các mô hình kinh doanh mới mà nhà nước
chưa có thời gian và cơ hội để kiểm chứng
các tác động thật sự đối với xã hội. Chẳng
hạn, Thuỵ Điển đã áp dụng regulatory
sandbox để thử nghiệm quản lý xe tự hành ở
Gothenburg. Hay ở Anh, đầu năm 2016, Cục
quản lý tài chính Anh quốc (the UK’s
Financial Conduct Authorigy, viết tắt là
FCA) cũng đã tạo ra một regulatory sandbox
10 Xem Seven Ways to Prepare Your Legal Department for the Fourth Industrial Revolution tại
https://www.accdocket.com/articles/the-fourth-industrial-revolution.cfm.
11 Xem Mnuchin: US has ‘very serious concerns’ that Facebook’s Libra could be misused by terrorists tại
https://www.cnbc.com/2019/07/15/treasury-secretary-mnuchin-will-hold-a-news-conference-on-cryptocur-
rencies-at-2-pm-et.html?fbclid=IwAR2ypqKrh_fyhO_r9MWfeOOf2zWEb0LxvIll3hYb9ozYRrq
Kwbr3fP5o6c.
Số 1(401) - T1/202062 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
cho lĩnh vực công nghệ tài chính (Fintech)
bằng cách thực thi các trách nhiệm bổ sung
là hỗ trợ và tư vấn, phát hành các giấy phép
tạm thời cho phép các start-up được hoãn
thực thi một số quy định trong thời gian 2
năm. Thêm vào đó, FCA không chỉ tổ chức
các hoạt động tham vấn công khai để nắm
bắt cũng như giải thích về các rào cản pháp
luật mà lĩnh vực Fintech phải đối mặt, mà
còn xây dựng một Dự án về sáng tạo, trong
đó có một Trung tâm sáng tạo (Innovation
Hub) và Văn phòng tư vấn (Advice Unit)
dành cho các doanh nghiệp Fintech và các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sáng
tạo. Các chủ thể thuộc khu vực tư được áp
dụng cơ chế này có thể có quyền nhất định
trong việc quyết định có thực thi một số quy
định hay không.
Cùng với regulatory sandbox, các quốc
gia cũng chú ý tới việc ứng dụng công nghệ
để cho đời những nền tảng hoạch định chính
sách cho phép đông đảo công chúng tham gia
(crowdlaw). Nhiều quốc gia trên thế giới
cũng đã sử dụng Internet để phát triển
phương thức lập pháp này12. Nền tảng
crowdlaw cho phép các tận dụng trí tuệ và
kiến thức của người dân để nâng cao chất
lượng lập pháp. Người dân không chỉ đóng
góp ý kiến và đưa ra những thỉnh cầu trên hệ
thống Internet mà còn có thể đề xuất sáng
kiến lập pháp, tham gia vào soạn thảo, giám
sát quá trình thực hiện, cung cấp các dữ liệu
bị thiếu. Thông qua quá trình này, công chúng
trở thành những người cộng tác và đồng sáng
tạo, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu
quả lập pháp, cũng như thực thi pháp luật.
Bên cạnh những cách tiếp cận nêu
trên, một trong những mô hình quản trị mới
nổi và được xem là phù hợp cho bối cảnh
cách mạng công nghiệp lần thứ tư là mô hình
quản trị linh hoạt (agile governance). Đây là
phương thức quản trị mà ngay từ đầu đã
được hình thành theo cách cho phép cả chính
quyền và doanh nghiệp hành động một cách
lanh lẹ trong việc dự đoán và đưa ra phản
ứng với các công nghệ mới13. Theo đánh giá
của Diễn đàn kinh tế thế giới, một số quốc
gia đang thử nghiệm theo cách này, và một
số quốc gia tiên phong đã có một khoảng
thời gian nhất định ứng dụng nó. Trong thời
gian 15 năm qua, mô hình quản trị linh hoạt
này đã đưa đến sự ra đời của rất nhiều trung
tâm thử nghiệm về chính sách công (public
sector policy labs) hoặc trung tâm phát triển
sáng tạo (innovation hubs) ở cấp độ quốc
gia. Từ năm 2002, Đan Mạch đã thành
lập MindLab như là một trong những trung
tâm thử nghiệm chính sách đầu tiên của
Chính phủ; EU cũng đã thành lập EU Policy
Lab với nhiệm vụ nghiên cứu phát triển các
chính sách đổi mới sáng tạo cho 28 quốc gia
thuộc Liên minh châu Âu. Các trung tâm thử
nghiệm chính sách công và trung tâm phát
triển sáng tạo này được xem là biện pháp để
đưa những cách tiếp cận mới, sáng tạo và lấy
người dân làm trung tâm vào quá trình hoạch
định chính sách và cung cấp các giải pháp
lập pháp mới. Thực tiễn cho thấy, các trung
tâm này đã giúp thúc đẩy sự tin cậy và hợp
tác giữa các khu vực công và tư, một trong
những yếu tố quan trọng đảm bảo chất lượng
xây dựng pháp luật trong bối cảnh cách
mạng công nghiệp lần thứ tư.
3. Một số gợi mở đối với quy trình lập
pháp của Việt Nam
Giống như ở bất kỳ quốc gia nào trên
thế giới, những tác động của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đang và sẽ ảnh hưởng
mạnh mẽ đến quy trình lập pháp ở Việt Nam.
Điều này đòi hỏi quy trình lập pháp phải có
12 Thông tin về mô hình crowdlaw có thể xem thêm tại https://www.thegovlab.org/project-crowdlaw.html và
13 Xem How governance is changing in the 4IR https://www.weforum.org/agenda/2018/01/agile-governance-
changing-4ir-public-private-emerging-technologies/
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diễn đàn kinh tế thế giới, How governance is changing in the 4IR, https://www.weforum.org/
agenda/2018/01/agile-governance-changing-4ir-public-private-emerging-technologies/.
2. Khan Academy, bài phỏng vấn cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ Madelein Albright,
https://www.khanacademy.org/partner-content/aspeninstitute/american-diplomatic-
toolbox/madeleine-albright/v/albright-21st-century-technology.
3. Jennifer Prioleau, Scott Winkelman, John Gibson, and Rebecca Chaney, Seven Ways to Prepare
Your Legal Department for the Fourth Industrial Revolution.
4. VTV News: Biểu tình phản đối Uber, tại https://vtv.vn/bieu-tinh-phan-doi-uber.html; Nguyễn Thị
Diệu Tuyết: Tài xế taxi dồn dập biểu tình chống Uber trên toàn thế giới (Người đồng hành) tại
https://ndh.vn/photo/anh/anh-tai-xe-taxi-don-dap-bieu-tinh-chong-uber-tren-toan-the-gioi-
1081810.html.
5. Vicky Xiuzhong Xu, Australian Taxi Drivers Sue Uber Over Lost Wages in Class-Action Lawsuit,
https://www.nytimes.com/2019/05/03/technology/australia-uber-drivers-class-action.html.
63Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
những điều chỉnh nhất định để thích ứng
nhằm đối phó hiệu quả với những thách thức
cũng như tận dụng những ứng dụng của cách
mạng công nghiệp để nâng cao chất lượng lập
pháp, lập quy. Những giải pháp mà các quốc
gia đang tiến hành được nêu ở trên mang lại
những gợi ý tốt cho sự điều chỉnh này.
Trước hết, cần đưa vào quy trình lập
pháp cách thức tham vấn chuyên gia công
nghệ và doanh nghiệp nhằm khắc phục sự
bất đối xứng thông tin về các vấn đề công
nghệ trong quá trình xây dựng luật. Hiện
nay, quy trình lập pháp đã có các bước lấy ý
kiến doanh nghiệp và lấy ý kiến nhân dân
cũng như cho phép huy động chuyên gia.
Tuy nhiên, cần đảm bảo quá trình tham vấn
đó được thực hiện một cách linh hoạt hơn và
đảm bảo sự công khai, minh bạch và chịu sự
giám sát của công chúng. Quá trình tham
vấn cũng phải đảm bảo sự khách quan, độc
lập giữa chuyên gia và doanh nghiệp, đảm
bảo các cơ quan xây dựng pháp luật không
lệ thuộc vào ý kiến của bên nào.
Bên cạnh đó, cần quy định trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước trong việc kịp thời
nghiên cứu, đề xuất giải pháp xử lý khi có
các vấn đề pháp lý phát sinh từ các công
nghệ mới, bao gồm giải pháp xây dựng pháp
luật.
Để đáp ứng yêu cầu phản ứng nhanh
và linh hoạt với các vấn đề mới phát sinh,
Quốc hội có thể ban hành nghị quyết làm cơ
sở pháp lý cho việc thiết lập các regulatory
sandbox. Việc cho phép ứng dụng
regulatory sandbox cũng phải gắn với trách
nhiệm đề xuất dự án luật (nếu có thể) sau
quá trình thử nghiệm để nếu việc thử
nghiệm thành công thì thiết lập cơ chế pháp
lý chung điều chỉnh các vấn đề mới này; cần
nghiên cứu giản lược một số khâu trong quá
trình lập pháp để việc ban hành luật điều
chỉnh các vấn đề nêu trên được kịp thời hơn.
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu các ứng dụng
công nghệ để xây dựng nền tảng cho
crowdlaw, cho phép công chúng, chuyên
gia, doanh nghiệp tham gia một cách rộng
rãi và tích cực hơn vào quá trình xây dựng
luật. Ngoài gia, để đảm bảo khắc phục
những điểm trống về mặt pháp luật, cần phát
huy vai trò của toà án trong việc tạo ra các
án lệ và có quy trình phù hợp để xây dựng
các quy tắc pháp luật từ các án lệ n
Số 1(401) - T1/202064 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
6. Lương Bằng, Nói thế nhưng rồi không phải thế: DN mang tiếng, gặp khó tại
https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/dau-tu/grab-bam-dap-vi-nhung-phan-quyet-nua-voi-
543624.html.
7. Rick Noak, With new court loss in Britain, Europe becomes more of a minefield for Uber,
tại https://www.washingtonpost.com/news/worldviews/wp/2017/11/10/with-new-court-loss-in-
britain-europe-becomes-more-of-a-minefield-for-uber/.
8. John Frazer, How The Gig Economy Is Reshaping Careers For The Next Generation tại
https://www.forbes.com/sites/johnfrazer1/2019/02/15/how-the-gig-economy-is-reshaping-ca-
reers-for-the-next-generation/#587a51849ada.
9. Sentryo, The Four Industrial Revolutions tại https://www.sentryo.net/the-4-industrial-
revolutions/.
10. Nguyễn Hải: Uber thua kiện tại Anh: Tài xế được coi là nhân viên chính thức, đảm bảo thu nhập
tối thiểu, có quyền lợi khi làm thêm tại
nhan-vien-chinh-thuc-dam-bao-thu-nhap-toi-thieu-co-quyen-loi-khi-lam-them-
20161031011208876.chn.
11. Jennifer Prioleau, Scott Winkelman, John Gibson và Rebecca Chaney: Seven Ways to Prepare
Your Legal Department for the Fourth Industrial Revolution tại https://www.accdocket.com/
articles/the-fourth-industrial-revolution.cfm.
12. Mnuchin: US has ‘very serious concerns’ that Facebook’s Libra could be misused by terrorists
tại https://www.cnbc.com/2019/07/15/treasury-secretary-mnuchin-will-hold-a-news-conference-
on-cryptocurrencies-at-2-pm-et.html?fbclid=IwAR2ypqKrh_fyh-O_r9MWfeOOf2z
WEb0LxvIll3hYb9ozYRrqKwbr3fP5o6c.
13. Govlab: Crowdlaw, tại https://www.thegovlab.org/project-crowdlaw.html.
thẩm quyền của mình. Luật XLVPHC năm
2012 đã có quy định về cơ chế chịu trách
nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền xử
phạt như sau: “người có thẩm quyền xử lý
VPHC mà sách nhiễu, đòi, nhận tiền, tài sản
khác của người vi phạm, dung túng, bao che,
không xử lý hoặc xử lý không kịp thời,
không đúng tính chất, mức độ vi phạm,
không đúng thẩm quyền hoặc vi phạm quy
định khác tại Điều 12 của Luật này và quy
định khác của pháp luật thì tuỳ theo tính
chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”19. Do
đó, cần áp dụng triệt để quy định này nhằm
tăng cường trách nhiệm của chủ thể có thẩm
quyền trong việc xử phạt VPHC trên thực tế.
Theo chúng tôi, có thể căn cứ vào kết quả xử
phạt VPHC để xem đó là một tiêu chí đánh
giá việc thực hiện nhiệm vụ hàng năm của
cán bộ, công chức. Điều này cũng là một giải
pháp quan trọng góp phần giảm thiểu những
hạn chế khi xử phạt VPHC trong lĩnh vực
đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
trong thực tiễn20 n
19 Điều 16 Luật XLVPHC năm 2012.
20 Nguyễn Nhật Khanh (2019), “Xử phạt VPHC trong lĩnh vực y tế - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 02.
HoÀn tHiện cÁc QuY đỊnH... (Tiếp theo trang 33)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_lap_phap_so_01_nam_2020.pdf