Thứ nhất, tình trạng khẩn cấp có ảnh
hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức.
Vì vậy, để bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà
nước, tổ chức, cá nhân, cần một hệ thống
pháp luật về tình trạng khẩn cấp toàn diện,
rõ ràng và chặt chẽ: Bất kể những quy định
đó có thể được nêu trong Hiến pháp hay tại
các văn bản pháp luật dưới Hiến pháp, chúng
cần phải bao gồm: các trưởng hợp được ban
bố tình trạng khẩn cấp, những chủ thể có
thẩm quyền liên quan, thời gian hiệu lực
cũng như phạm vi ảnh hưởng.
Thứ hai, mọi quyết định liên quan đến
tình trạng khẩn cấp cần có sự chuẩn thuận
của Quốc hội. Trong trường hợp Quốc hội
không họp được, chủ thể có thẩm quyền, dựa
trên tính cấp bách của vấn đề, ra quyết định
ban bố tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, quyết
định đó cần nhận được sự phê chuẩn của
Quốc hội tại kỳ họp sớm nhất được tổ chức.
Trong suốt thời gian diễn ra tình trạng khẩn
cấp, Quốc hội không thể bị giải tán.
Thứ ba, cần công khai, minh bạch mọi
quyết định liên quan đến tình trạng khẩn cấp.
Thông qua phương tiện thông tin đại chúng,
phương tiện truyền thông khác, chính quyền
cần thông báo nội dung các quyết định liên
quan đến tình trạng khẩn cấp với người dân
một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời.
Thứ tư, cần xây dựng một thiết chế độc
lập, minh bạch để giám sát mọi quyết định
liên quan đến tình trạng khẩn cấp, trong đó
Toà án cần đóng một vai trò quan trọng
67 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 155 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu Lập pháp - Số 12 - Năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược miễn nộp tiền án phí thì Tòa án chỉ
xem xét miễn án phí đối với phần mà người
thuộc trường hợp được miễn phải chịu theo
quy định, của Nghị quyết này. Phần án phí,
lệ phí Tòa án mà người đó nhận nộp thay
người khác thì không được miễn nộp”. Thực
tiễn có trường hợp bị đơn đồng ý chịu toàn
bộ án phí, tuy nhiên, do bị đơn thuộc trường
hợp được miễn án phí nên Tòa án đã miễn
toàn bộ án phí cho đương sự trong vụ án là
thực hiện chưa đúng quy định của pháp luật,
làm thất thoát ngân sách nhà nước.
2.5. Vướng mắc trường hợp đương sự
thuộc trường hợp được miễn, giảm án phí
nhưng đương sự không làm đơn yêu cầu
miễn, giảm án phí thì có được Tòa án xét
miễn giảm án phí không
Theo quy định của Điều 14 Nghị quyết
số 326, người thuộc trường hợp được miễn,
giảm án phí phải làm đơn yêu cầu miễn,
giảm án phí để Tòa án xem xét. Tuy nhiên,
vấn đề đặt ra là, trường hợp đương sự thuộc
trường hợp được miễn, giảm án phí nhưng
đương sự không làm đơn yêu cầu miễn,
giảm án phí thì có được Tòa án xét miễn
giảm án phí không. Thực tế xét xử của Tòa
án hiện nay cho thấy có hai cách giải quyết
vấn đề này.
Cách thứ nhất, mặc dù đương sự không
có đơn xin miễn án phí nhưng thuộc trường
hợp được miễn thì Thẩm phán được phân
công giải quyết vụ án hoặc Hội đồng xét xử
xét miễn, giảm án phí cho đương sự, không
áp dụng pháp luật một cách quá máy móc và
cứng nhắc.
Cách thứ hai, nếu đương sự không có
đơn xin miễn, giảm án phí thì Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án hoặc Hội
đồng xét xử không xét miễn án phí cho họ.
Chúng tôi cho rằng, quy định đương sự
phải làm đơn xin miễn, giảm án phí là một
quy định mới của Nghị quyết số 326 so với
các quy định trước đây về án phí, lệ phí Tòa
án. Vì vậy, Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án, Hội đồng xét xử và đương sự cần
phải tuân thủ và chấp hành đúng quy định này
nhằm đảm bảo sự thống nhất trong áp dụng
pháp luật và hạn chế sự tùy tiện trong áp dụng
pháp luật. Để việc miễn, giảm án phí được
thực hiện đúng quy định của pháp luật đòi hỏi
Thẩm phán khi được phân công giải quyết vụ
án phải giải thích cho tất cả đương sự biết về
các trường hợp được miễn, giảm án phí cũng
như là hướng dẫn thủ tục họ phải làm để xin
miễn, giảm án phí trước khi tiến hành tổ chức
phiên họp hòa giải hoặc trước khi quyết định
đưa vụ án ra xét xử.
2.6. Vướng mắc về xét miễn án phí đối
với đương sự đang sinh sống tại thôn, ấp,
khóm, phum, sóc (gọi chung là thôn) đặc
biệt khó khăn mà không phải là xã có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
Theo quy định của Điều 12 Nghị quyết
số 326, một trong những trường hợp được
miễn nộp tiền án phí là “đồng bào dân tộc
thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn”.
Hiện nay, Danh sách xã đặc biệt khó
khăn được quy định tại Quyết định số
900/QĐ-TTg ngày 20/6/2017 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt danh sách thôn đặc
biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu
vào diện đầu tư của Chương trình 135 giai
đoạn 2017 – 2020.
Danh sách thôn đặc biệt khó khăn hiện
nay theo Quyết định 582/QĐ-TTg ngày
28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã
khu vực iii, khu vực ii, khu vực i thuộc vùng
dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016-
2020 và Quyết định số 103/QĐ-TTg ngày
22/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt bổ sung, điều chỉnh và đổi tên danh
sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III,
khu vực II, khu vực I thuộc vùng dân tộc
thiểu số và miền núi giai đoạn 2016 – 2020.
51Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
5. Kết luận
Trước hết, chúng tôi cho rằng, khung
phân tích năng lực chính sách đã được giới
thiệu ở trên có ưu điểm ở tính bao quát, có
hệ thống; thừa nhận sự tham gia, tác động
của các chủ thể khác ngoài nhà nước trong
chu trình chính sách; phân tích các cấp độ,
bình diện khác nhau, và nhấn mạnh sự liên
hệ giữa các cấp độ, bình diện đó. Vì vậy, có
thể vận dụng khung phân tích này để xem
xét, đánh giá năng lực chính sách của một
quốc gia, chính phủ, cơ quan, tổ chức, hay
cá nhân những người tham gia vào chu trình
chính sách. Tuy nhiên, tùy vào bối cảnh cụ
thể, cần đánh giá mức độ, phạm vi tác động
của từng yếu tố năng lực, ở từng cấp độ một
cách phù hợp, linh hoạt. Có thể đối với chủ
thể A trong bối cảnh nhất định, cần chú ý
hơn đến năng lực phân tích, nhưng đối với
chủ thể B trong một bối cảnh khác cần đặt
trọng tâm vào năng lực vận hành, hay năng
lực chính trị; và ngược lại. Điều này đặc biệt
quan trọng đối với việc phân tích, đánh giá
năng lực chính sách của Quốc hội, ĐBQH –
những thiết chế đặc thù, lại ở Việt Nam với
những đặc điểm riêng về thể chế, văn hóa
chính trị - pháp lý.
Về năng lực pháp lý, chúng tôi cho rằng,
không nên coi năng lực pháp lý như một
thành tố hữu cơ thuộc năng lực chính sách
nói chung. Bởi lẽ, dù có mối liên hệ chặt chẽ,
giao thoa nhau, chính sách và pháp luật vẫn
là hai lĩnh vực khác biệt nhau, với những đặc
điểm, yếu tố khác nhau. Mặt khác, khi xem
xét năng lực chính sách, vẫn cần phải gắn
với việc phân tích năng lực pháp lý, sự tác
động tương hỗ qua lại giữa hai khái niệm
này. Bên cạnh đó, có thể xem xét lại để bổ
sung những nội dung cụ thể khác hoặc điều
chỉnh một số nội dung trong khung năng lực
pháp lý nêu trên cho phù hợp hơn n
Tuy nhiên, trong trường hợp đương sự
là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở thôn
đặc biệt khó khăn nhưng thôn này không
thuộc xã đặc biệt khó khăn thì có được miễn
án phí không. Trường hợp này cũng được
hiểu theo hai cách khác nhau.
Cách hiểu thứ nhất, Điều 12 Nghị quyết
số 326 đã quy định rõ đồng bào dân tộc thiểu
số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn thì mới được miễn án phí nên
Tòa án sẽ không miễn án phí cho đương sự
là đồng bào dân tộc thiểu số đang ở thôn đặc
biệt khó khăn nếu thôn này không thuộc xã
đặc biệt khó khăn.
Cách hiểu thứ hai, trong trường hợp này
cần phải linh hoạt và hiểu thoáng hơn để xét
miễn án phí cho đương sự. Bởi vì, đương sự ở
xã đặc biệt khó khăn suy cho cùng cũng phải
là ở thôn trong xã đó. Do đó, tính chất đặc biệt
của thôn đặc biệt khó khăn cũng tương tự như
các thôn trong xã đặc biệt khó khăn.
Kết luận: Án phí dân sự là một phần
trong quyết định của Tòa án khi giải quyết
các vụ án dân sự. Án phí dân sự không chỉ
liên quan đến quyền và nghĩa vụ của dân sự
mà còn liên quan đến khoản thu nộp ngân
sách nhà nước. Điều này đòi hỏi, Tòa án phải
vận dụng đúng quy định của pháp luật để ra
quyết định về án phí đúng và chính xác nhất.
Mặc khác, những bất cập, vướng mắc trên là
những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn
hiện nay. Do đó, để tạo sự thống nhất trong
nhận thức và vận dụng pháp luật trong thực
tiễn, chúng tôi cho rằng, TANCTC cần sớm
ban hành văn bản hướng dẫn để tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc cho Tòa án các cấp n
KHUNG PHÂN TÍCH... (Tiếp theo trang 42)
Nhiệm vụ quan trọng của tố tụng dânsự (TTDS) nói chung, việc giải quyếtvụ án dân sự nói riêng là góp phần
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân1. Để thực
hiện nhiệm vụ này, một trong những công cụ
được Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
(BLTTDS năm 2015) sử dụng là quy định chế
định biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT)
nhằm tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách
của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài
sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo
toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại
không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc
giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án2.
Số 12 (412) - T6/202052
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC QUA VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP
TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
Thái Chí Bình*
*ThS. Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Biện pháp khẩn cấp tạm
thời, Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 12/03/2020
Biên tập : 06/04/2020
Duyệt bài : 14/04/2020
Article Infomation:
Key words: Temporary emergency
measures; the Civil Procedure Code
of 2015
Article History:
Received : 12 Mar. 2020
Edited : 06 Apr. 2020
Approved : 14 Apr. 2020
Tóm tắt:
Biện pháp khẩn cấp tạm thời có vai trò vô cùng quan trọng trong quá
trình giải quyết vụ án, đảm bảo việc thi hành án và kịp thời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Quy định
của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về biện pháp khẩn cấp tạm thời
cơ bản đảm bảo vai trò này, tạo sự thuận lợi cho đương sự thực hiện
quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và giúp Tòa án
dễ dàng trong việc xem xét áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn
cấp tạm thời cũng như giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Bên cạnh mặt
tích cực đó, quy định của pháp luật tố tụng dân sự về biện pháp khẩn
cấp tạm thời còn tồn tại một số bất cập, hạn chế cần được hoàn thiện.
Abstract:
Temporary emergency measures play a crucial role in the process of
resolving cases, to ensure the execution of judgments and timely
protect the legitimate rights and interests of agencies, organizations
and individuals. The current civil procedural law on temporary
emergency measures basically assumes this role, facilitates the
litigants’ right to request the application of the temporary emergency
measures and helps the court to review, apply, change and cancel the
temporary emergency measures as well as settle complaints and
petitions. In addition, the current civil procedural law on temporary
emergency measures still contains some shortcomings that need to be
further improved.
1 Xem Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
2 Xem Điều 111 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
53Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Với tinh thần đó, BLTTDS năm 2015 đã
liệt kê 17 loại BPKCTT cụ thể được áp dụng
tại Điều 114 và lần lượt quy định cụ thể từng
BPKCTT tại các điều từ Điều 115 đến Điều
132 Bộ luật này. Nhìn chung, quy định của
BLTTDS về từng BPKCTT được áp dụng là
tương đối cụ thể, chi tiết, tạo sự thuận lợi
trong việc áp dụng. Tuy nhiên, qua thực tiễn
nghiên cứu, áp dụng thì quy định đối với từng
BPKCTT phát sinh một vài hạn chế, tạo ra sự
thiếu thống nhất khi áp dụng trong thực tiễn.
1. Một số khó khăn, vướng mắc qua việc
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong tố tụng dân sự
1.1. Đối với biện pháp “giao người
chưa thành niên, người bị mất hoặc hạn
chế năng lực hành vi dân sự cho cá nhân
hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục”
Điều 115 BLTTDS năm 2015 quy định,
việc áp dụng BPKCTT giao người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục được
áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên
quan đến những người này mà họ chưa có
người giám hộ.
Trong thực tiễn, việc áp dụng quy định
này phát sinh vướng mắc trong trường hợp
người chưa thành niên có người đại diện hợp
pháp, người giám hộ nhưng họ đang do
người không có quyền nuôi dưỡng chiếm
giữ thì người có quyền nuôi dưỡng có được
yêu cầu áp dụng BPKCTT này hay không.
Vướng mắc này được thể hiện thông qua vụ
án cụ thể sau3:
Theo đơn khởi kiện, ông Huỳnh Ngọc H
cho rằng, theo bản án hôn nhân và gia đình
sơ thẩm số 629/2018/HNGĐ-ST của Tòa án
nhân dân huyện A, tỉnh T, bà Trần Hồng L
được ly hôn với ông H; bà L được quyền
nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Ngọc K,
sinh ngày 11/10/2016. Chi cục Thi hành án
dân sự huyện A đã giao cháu K cho ông Trần
Hồng T (cha ruột của bà L) nhận nuôi dưỡng
do được bà L ủy quyền. Tuy nhiên, do ông T
nuôi dưỡng cháu K không đúng với bản án
đã tuyên, là người lớn tuổi, vụng về trong
việc chăm sóc trẻ nhỏ nên ông H đã mang
cháu K về nuôi dưỡng sau khi ông T nhận
cháu K khoảng 15 phút. Vì vậy, ông H yêu
cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, giao
cháu K cho ông H nuôi dưỡng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, do yêu
cầu giao trả cháu K nhưng ông H không
chấp nhận nên bà L có đơn yêu cầu Tòa án
áp dụng BPKCTT theo Điều 115 BLTTDS
năm 2015. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân
huyện A đã không chấp nhận yêu cầu của bà
L do cháu K đang có người đại diện hợp
pháp, người giám hộ theo quy định của pháp
luật là bà L, ông H.
Việc Tòa án nhân dân huyện A từ chối
yêu cầu của Bà L dựa trên căn cứ sau: Theo
quy định của khoản 1 Điều 136 Bộ luật Dân
sự năm 2015 (BLDS năm 2015), cha mẹ là
người đại diện theo pháp luật đối với con
chưa thành niên. Đồng thời, các Điều 46, 47
BLDS năm 2015 quy định, đối với người
chưa thành niên, việc giám hộ cho họ chỉ đặt
ra khi họ không còn cha, mẹ hoặc không xác
định được cha, mẹ; có cha, mẹ nhưng cha,
mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ
đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên
bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều
không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con
và có yêu cầu người giám hộ. Trong khi bà
L yêu cầu áp dụng BPKCTT, cháu K đang
3 Vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 742/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2019 về việc
“tranh chấp vể thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” giữa nguyên đơn ông Huỳnh Ngọc H với
bị đơn bà Trần Hồng L của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh A.
Số 12 (412) - T6/202054
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
có người đại diện hợp pháp là ông H, bà L.
Vì vậy, không có cơ sở để Tòa án áp dụng
BPKCTT theo yêu cầu của bà L.
Tuy nhiên, ở đây cần phải hiểu thuật ngữ
“người giám hộ” theo nghĩa rộng gồm
“người đại diện theo pháp luật, người giám
hộ” và phải là việc đại diện, giám hộ hợp
pháp. Trong trường hợp này, theo bản án của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, bà L là
người đại diện theo pháp luật và có quyền
nuôi dưỡng cháu K. Việc ông H giữ cháu K
mà không có sự đồng ý của bà L ảnh hưởng
đến quyền nuôi dưỡng con chung của bà L.
Vì vậy, bà L hoàn toàn có quyền yêu cầu Tòa
án áp dụng BPKCTT tại Điều 115 BLTTDS
năm 2015.
1.2. Đối với biện pháp “kê biên tài sản
đang tranh chấp” và biện pháp “cấm
chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản
đang tranh chấp”
Khoản 1 Điều 120 BLTTDS năm 2015
quy định, kê biên tài sản đang tranh chấp
được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết
vụ án có căn cứ cho thấy người giữ tài sản
đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại
tài sản.
Điều 121 BLTTDS năm 2015 quy định,
cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài
sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong
quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy
người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang
tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về
tài sản đối với tài sản đang tranh chấp cho
người khác.
Như vậy, có thể thấy rằng, mặc dù
BPKCTT được quy định ở hai điều khác
nhau nhưng có sự trùng lắp về mục đích
hướng đến. Theo đó, biện pháp kê biên tài
sản có mục đích hướng đến là ngăn chặn
hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản; biên pháp
cấm chuyển dịch quyền về tài sản có mục
đích hướng đến là ngăn chặn hành vi chuyển
dịch quyền về tài sản. Tuy nhiên, “chuyển
dịch quyền về tài sản” cũng là một dạng của
hành vi “tẩu tán tài sản”. Đồng thời, khi tài
sản bị kê biên thì mặc nhiên tài sản đó không
thể bị chuyển dịch quyền về tài sản4.
Về chủ thể quản lý tài sản bị áp dụng
BPKCTT: Biên pháp kê biên tài sản áp dụng
đối với “người giữ tài sản đang tranh chấp”;
biện pháp cấm chuyển dịch quyền về tài sản
áp dụng đối với “người đang chiếm hữu tài
sản tranh chấp, hoặc người đang giữ tài sản
tranh chấp”. Tuy nhiên, “người đang chiếm
hữu tài sản đang tranh chấp” có hành vi tẩu
tán, hủy hoại tài sản thì cũng cần phải áp
dụng BPKCTT “kê biên tài sản” do hậu quả
của nó đối với tài sản bị áp dụng BPKCTT
là như nhau. Hơn nữa, theo Từ điển tiếng
Việt, kê biên tài sản là “việc ghi lại từng tài
sản, cấm việc tẩu tán, phá hủy, để đảm bảo
cho việc xét xử và thi hành án”5 hay kê biên
là “tạm thời cấm vận chuyển, chuyển đổi,
định đoạt hoặc chuyển dịch tài sản của
người vi phạm pháp luật”6; còn tẩu tán là
“phân tán đi nhiều nơi để giấu”7; hủy hoại
là “làm cho hư hỏng, tan nát đi”8. Như vậy,
kê biên tài sản là nhằm tránh tẩu tán, hủy
hoại. Trong đó, chuyển dịch là “thay đổi
hoặc làm thay đổi vị trí trong khoảng ngắn”
hoặc “chuyển quyền sở hữu”9. Chính vì vậy,
4 Pháp luật thi hành án dân sự cũng có cách hiểu tương tự. Theo đó, Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được
sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định, khi tiến hành cưỡng chế đối với tài sản là vật trong quá trình thi hành
án, cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên áp dụng biện pháp “kê biên tài sản” mà không quy định kèm
theo biện pháp “cấm chuyển dịch quyền về tài sản”.
5 Từ điển các thuật ngữ pháp lý thông dụng, 1999, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
6 Xem:
7 Xem: Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Từ điển Bách Khoa, 2012, tr.1156.
8 Xem: Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Từ điển Bách Khoa, 2012, tr.609.
9 Xem: Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Từ điển Bách Khoa, 2012, tr.252.
55Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
xét về mặt ngôn ngữ, “kê biên tài sản” có
phạm vi bao trùm “cấm chuyển dịch quyền
về tài sản”.
Bên cạnh đó, quy định về phạm vi chủ
thể quản lý tài sản bị áp dụng BPKCTT tại
các Điều 120, 121 BLTTDS năm 2015 chưa
bao quát các chủ thể quản lý tài sản cần bị
áp dụng BPKCTT do không đề cập “chủ sở
hữu tài sản tranh chấp” bị áp dụng BPKCTT.
Điều đó có nghĩa là, nếu “chủ sở hữu tài sản
tranh chấp” có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài
sản hoặc có hành vi chuyển dịch quyền về
tài sản mà họ không “đang chiếm hữu” hoặc
“đang giữ tài sản đang tranh chấp” thì không
thể áp dụng các BPKCTT đối với họ. Điều
này là không hợp lý. Bởi vì, trên thực tế và
theo quy định của pháp luật dân sự, chủ sở
hữu tài sản hoàn toàn có thể thực hiện hành
vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc chuyển dịch
quyền về tài sản ngay cả khi họ không đang
chiếm hữu hoặc giữ tài sản.
Ngoài ra, do chưa có hướng dẫn cụ thể
nên việc xác định “tài sản đang tranh chấp”
trên thực tế vẫn được hiểu theo hai cách khác
nhau.
Cách hiểu thứ nhất, “tài sản đang tranh
chấp” được quy định tại các Điều 120, 121
BLTTDS năm 2015 là tài sản đang bị tranh
chấp quyền sở hữu, đang bị đòi lại, bị yêu
cầu hoàn trả, không bao gồm tài sản là đối
tượng của các giao dịch đang tranh chấp.
Cách hiểu thứ hai, tài sản đang tranh
chấp cần phải hiểu ở nghĩa rộng bao gồm tải
sản đang có tranh chấp về việc ai là người
có quyền sở hữu, sử dụng, chiếm hữu và tài
sản là đối tượng của các giao dịch đang tranh
chấp. Tuy nhiên, để áp dụng thống nhất cần
bổ sung rõ đặc điểm của tài sản đang tranh
chấp.
1.3. Đối với biện pháp “cấm hoặc buộc
thực hiện hành vi nhất định”
Điều 127 BLTTDS năm 2015 quy định,
cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định
được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết
vụ án có căn cứ cho thấy, đương sự hoặc cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác thực hiện hoặc
không thực hiện một hoặc một số hành vi
nhất định làm ảnh hưởng đến việc giải quyết
vụ án, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác có liên quan trong vụ án đang được Tòa
án giải quyết.
Tuy nhiên, quy định của Điều 127 vô
tình tạo khoảng trống để đương sự lạm dụng,
né tránh khi yêu cầu Tòa án áp dụng
BPKCTT trong thực tiễn. Theo đó, đương sự
có thể yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT tại
Điều 127 để buộc người đang chiếm hữu,
người giữ tài sản hoặc chủ sở hữu tài sản (mà
không phải tài sản tranh chấp) không được
tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc có hành vi
chuyển dịch quyền về tài sản cho người khác
hoặc yêu cầu áp dụng BPKCTT đối với phần
tài sản có giá trị lớn hơn nghĩa vụ của người
bị áp dụng BPKCTT. Trong khi đó, các yêu
cầu này thực chất thuộc phạm vi áp dụng
BPKCTT tại các Điều 120, 121, 125, 126
BLTTDS năm 2015. Sự bất cập này được thể
hiện thông qua 02 vụ án cụ thể sau đây:
Vụ án thứ nhất10: Theo đơn khởi kiện và
lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết
vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Thành T
trình bày, ngày 25/12/2015, ông T có nhận
chuyển nhượng từ ông A, bà L quyền sử
dụng đất nông nghiệp diện tích 1.000m2, tọa
lạc tại ấp L, xã L, huyện T, tỉnh B, với giá
90.000.000 đồng. Việc chuyển nhượng có
lập thành văn bản, có xác nhận của Ban ấp
L, xã L, không công chứng, chứng thực. Sau
đó, ông T nhiều lần yêu cầu thực hiện thủ tục
10 Hồ sơ vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 326/2019/TLST-DS ngày 25 tháng 7 năm 2019 về việc “tranh chấp
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Nguyễn Thành T với bị đơn ông Lê
Văn A, bà Đặng Thị Tuyết L của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B.
Số 12 (412) - T6/202056
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
công chứng, sang tên nhưng ông A, bà L hứa
hẹn mà không thực hiện. Quyền sử dụng đất
chuyển nhượng thuộc thửa số110, tờ bản đồ
số 63, có diện tích 2.937m2 đã được Ủy ban
nhân dân huyện T, tỉnh B cấp quyền sử dụng
cho ông A, bà L theo giâý chứng nhận quyêǹ
sử dụng đât́, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số CH02555 ngày
08/10/2014. Khi chuyển nhượng hai bên chỉ
tự xác định ranh giới trên thực địa mà không
nhờ cơ quan chuyên môn đo vẽ. Vì vậy, ông
T khởi kiện yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
15/12/2015 giữa ông T với ông A, bà L.
Trong quá trình giải quyết vụ án, cho
rằng ông A, bà L có hành vi chuyển nhượng
quyền sử dụng đất diện tích 2.937m2 thuộc
thửa số 110, tờ bản đồ số 63 và ông T không
xác định được vị trí phần đất diện tích
1.000m2 trong phần đất diện tích 2.937m2
cho nên ông T yêu cầu Tòa án áp dụng
BPKCTT tại Điều 127 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015, cấm ông A, bà L chuyển
nhượng quyền sử dụng đất diện tích
2.937m2, thuộc thửa số 110, tờ bản đồ số 63.
Ngày 05/8/2019, Tòa án nhân dân huyện T
ban hành Quyết định áp dụng BPKCTT theo
yêu cầu của ông T.
Vụ án thứ hai11: Theo đơn khởi kiện
ngày 13/5/2019, nguyên đơn ông Huỳnh
Văn T trình bày, vào ngày 17/02/2019, ông
T có cho bà Nguyễn Thị Đ vay số tiền
50.000.000 đồng, lãi suất 5%/tháng, thời hạn
vay 01 năm. Hai bên có lập biên nhận thể
hiện. Từ lúc vay tiền đến nay, bà Đ không
đóng lãi cho ông T. Do bà Đ vi phạm nghĩa
vụ trả lãi nên ông T khởi kiện yêu cầu Tòa
án nhân dân huyện T, tỉnh B buộc bà Đ trả
lại số tiền vay 50.000.000 đồng và tiền lãi
theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình giải quyết vụ án, do biết
bà Đ được cấp quyền sử dụng đất nông
nghiệp diện tích 3.500m2 theo giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CS03878 ngày
15/9/2017 của Ủy ban nhân dân huyện T,
tỉnh B và bà Đ đang thực hiện thủ tục chuyển
nhượng cho người khác nên để đảm bào cho
việc thi hành án, ông T yêu cầu Tòa án áp
dụng BPKCTT tại Điều 127 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015, cấm bà Đ chuyển nhượng
quyền sử dụng đất diện tích 3.500m2. Ngày
21/8/2019, Tòa án nhân dân huyện T ban
hành Quyết định áp dụng BPKCTT theo yêu
cầu của bà Đ.
Căn cứ để Tòa án nhân dân huyện T áp
dụng BPKCTT đối với 02 trường hợp này là
quy định của Điều 127 BLTTDS năm 2015
không bắt buộc đối tượng bị áp dụng là tài
sản đang tranh chấp, không giới hạn giá trị
tài sản trong phạm vi đối tượng giao dịch
đang tranh chấp và không giới hạn hành vi
bị cấm thực hiện. Tuy nhiên, chúng tôi cho
rằng, Điều 127 BLTTDS năm 2015 quy định
theo hướng mở. Theo đó, khi hành vi bị cấm
hoặc buộc phải thực hiện, không thuộc phạm
vi áp dụng của các BPKCTT khác mà
BLTTDS năm 2015 quy định, mới được áp
dụng BPKCTT tại Điều 127. Trong khi đó,
việc cấm thực hiện hành vi chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thuộc phạm vi áp dụng
BPKCTT tại Điều 120, Điều 121 BLTTDS
năm 2015. Hơn nữa, theo quy định của Điều
136 BLTTDS sự năm 2015, khi yêu cầu áp
dụng BPKCTT tại các Điều 120, 121
BLTTDS năm 2015 thì người yêu cầu phải
thực hiện biện pháp bảo đảm. Trong khi đó,
11 Hồ sơ vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 347/2019/TLST-DS ngày 06 tháng 8 năm 2019 về việc “tranh chấp
hợp đồng dân sự vay tài sản” giữa nguyên đơn ông Huỳnh Văn T với bị đơn bà Nguyễn Thị Đ của Tòa án
nhân dân huyện T, tỉnh B.
57Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
việc áp dụng BPKCTT tại Điều 127
BLTTDS năm 2015 lại không phải thực hiện
biện pháp bảo đảm. Vì vậy, việc Tòa án
nhân dân huyện T áp dụng BPKCTT sẽ dẫn
đến bất hợp lý là người yêu cầu áp dụng
BPKCTT đối với tài sản đang tranh chấp
theo Điều 120, Điều 121 BLTTDS năm
2015 phải thực hiện biện pháp bảo đảm
(phải thực hiện nghĩa vụ kèm theo). Tuy
nhiên, người yêu cầu nội dung tương tự đối
với tài sản không phải là tài sản đang tranh
chấp tại Điều 127 BLTTDS năm 2015 lại
không phải thực hiện biện pháp bảo đảm
(không phải thực hiện nghĩa vụ kèm theo).
1.4. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời đối với tài sản đã chuyển nhượng
cho người thứ ba nhưng chưa hoàn thành
thủ tục chuyển nhượng
Hiện nay, việc áp dụng BPKCTT đối với
trường hợp quyền sử dụng đất đã được
chuyển nhượng cho người thứ ba, chưa hoàn
thành thủ tục nhưng có điều kiện công nhận
giao dịch12 còn được hiểu khác nhau.
Cách hiểu thứ nhất, Tòa án không chấp
nhận yêu cầu áp dụng BPKCTT do quyền sử
dụng đất đã chuyển nhượng cho người khác
trước thời điểm yêu cầu. Mặc dù chưa hoàn
thành thủ tục nhưng có đủ điều kiện công
nhận nên không còn là tài sản của người bị
yêu cầu.
Cách hiểu thứ hai, Tòa án vẫn được áp
dụng BPKCTT. Bởi vì, theo quy định của
pháp luật đất đai, pháp luật dân sự, giao dịch
chưa hoàn thành thủ tục để người nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất được
công nhận là người có quyền sử dụng nên
cần phải áp dụng BPKCTT. Khi Tòa án áp
dụng BPKCTT, người bị yêu cầu sẽ tham gia
tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan. Họ có quyền yêu cầu độc lập
để Tòa án công nhận giao dịch của họ, qua
đó, xác định họ có quyền sử dụng đất. Trong
trường hợp, việc yêu cầu áp dụng BPKCTT
gây thiệt hại cho người nhận chuyển nhượng
thì họ có quyền yêu cầu Tòa án buộc người
yêu cầu áp dụng BPKCTT bồi thường theo
khoản 1 Điều 113 BLTTDS năm 2015 và
mục 11 Phần IV Giải đáp số 01/2017/GĐ-
TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân
dân tối cao13.
Tuy nhiên, trong trường hợp Tòa án
chấp nhận áp dụng BPKCTT mà phát sinh
thiệt hại cho người thứ ba thì người yêu cầu
áp dụng BPKCTT phải bồi thường. Việc
buộc người yêu cầu áp dụng BPKCTT phải
bồi thường là chưa hợp lý. Bởi vì, Tòa án có
thể từ chối áp dụng để tránh thiệt hại phát
sinh nếu có quy định.
2. Kiến nghị
Để khắc phục các khó khăn, vướng mắc
từ việc áp dụng quy định của pháp luật
TTDS về các BPKCTT nêu trên, chúng tôi
có một số kiến nghị sau:
Một là, đối với biện pháp “giao người chưa
thành niên, người bị mất hoặc hạn chế năng lực
hành vi dân sự cho cá nhân hoặc tổ chức trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục”:
Sửa đổi Điều 115 thay cụm từ “người
giám hộ” thành “người giám hộ hoặc người
đại diện hợp pháp theo quy định của pháp
12 Như: (1) Việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong trường hợp hợp đồng có một
số vi phạm theo mục 2 Phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn
nhân gia đình; (2) công nhận giao dịch dân sự do không tuân thủ quy định về hình thức theo Điều 129 Bộ
luật Dân sự năm 2015.
13 Theo đó, việc giải quyết bồi thường thiệt hại do yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng được tiến hành
trong cùng vụ án dân sự. Trường hợp đương sự yêu cầu giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại này mà chưa
có điều kiện chứng minh thì yêu cầu bồi thường đó có thể tách ra để giải quyết bằng vụ án dân sự khác.
Số 12 (412) - T6/202058
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
luật hoặc theo bản án, quyết định của Tòa
án đã hiệu lực pháp luật”.
Hai là, đối với biện pháp “kê biên tài
sản đang tranh chấp” và biện pháp “cấm
chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản
đang tranh chấp”:
Sửa đổi Điều 120, 121 BLTTDS năm
2015 theo hướng nhập nội dung của Điều
121 vào Điều 120 với nội dung như sau:
“Điều 120. Kê biên tài sản đang tranh
chấp
1. Kê biên tài sản đang tranh chấp được
áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án
có căn cứ cho thấy người chiếm hữu tài sản
tranh chấp, người giữ tài sản tài sản tranh
chấp hoặc chủ sở hữu tài sản tranh chấp có
hành vi tẩu tán, hủy hoại hoặc có hành vi
chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản
đang tranh chấp cho người khác.
2. Tài sản bị kê biên có thể được thu giữ,
bảo quản tại cơ quan thi hành án dân sự
hoặc lập biên bản giao cho một bên đương
sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có
quyết định của Tòa án.
3. Tài sản đang có tranh chấp tại khoản
1, khoản 2 Điều này bao gồm tài sản đang
bị tranh chấp quyền sở hữu, sử dụng, chiếm
hữu và tài sản là đối tượng của các giao dịch
dân sự bị tranh chấp”.
Ba là, đối với biện pháp “cấm hoặc buộc
thực hiện hành vi nhất định”:
Sửa đổi Điều 127 BLTTDS năm 2015
theo hướng chuyển biện pháp “cấm hoặc
buộc thực hiện hành vi nhất định” xuống vị
trí cuối danh sách các BPKCTT được liệt kê
và sửa đổi, bổ sung BPKCTT này với nội
dung như sau:
“Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất
định được áp dụng nếu trong quá trình giải
quyết vụ án có căn cứ cho thấy đương sự
hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thực
hiện hoặc không thực hiện một hoặc một số
hành vi nhất định làm ảnh hưởng đến việc
giải quyết vụ án, quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác có liên quan trong vụ án
đang được Tòa án giải quyết.
Hành vi bị cấm hoặc buộc thực hiện tại
Điều này không thuộc phạm vi hành vi bị cấm
hoặc buộc thực hiện của các BPKCTT khác
được quy định từ Điều 115 đến Điều....”.
Đồng thời, bổ sung khoản 3 quy định về
trách nhiệm của người yêu cầu áp dụng
BPKCTT tại Điều 127 BLTTDS năm 2015
vào Điều 136 BLTTDS năm 2015 theo
hướng trong trường hợp có thể gây thiệt hại
cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc người
thứ ba với nội dung như sau:
“3. Người yêu cầu áp dụng BPKCTT
cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định
tại Điều... Bộ luật này phải thực hiện biện
pháp bảo đảm theo quy định tại các khoản
1, 2 Điều này trong trường hợp nội dung yêu
cầu đó có thể gây thiệt hại cho người bị áp
dụng BPKCTT hoặc người thứ ba”.
Chuyển Điều 127 xuống sau Điều 131
BLTTDS năm 2015.
Bốn là, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời đối với tài sản đã chuyển nhượng
cho người thứ ba nhưng chưa hoàn thành thủ
tục chuyển nhượng:
Để áp dụng thống nhất việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản
đã chuyển nhượng cho người thứ ba nhưng
chưa hoàn thành thủ tục chuyển nhượng,
Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành hướng
dẫn như sau:
“Nếu yêu áp dụng BPKCTT đối với
quyền sử dụng đất đã chuyển nhượng cho
người thứ ba, thủ tục chuyển nhượng chưa
hoàn thành nhưng theo quy định của pháp
luật có liên quan, có cơ sở để công nhận
giao dịch thì Tòa án cần giải thích cho người
yêu cầu biết bằng băn bản. Trường hợp Tòa
án đã giải thích mà người yêu cầu vẫn giữ
yêu cầu thì Tòa áp áp dụng theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự. Trong trường
hợp phát sinh thiệt hại cho người bị yêu cầu,
người thứ ba thì người yêu cầu phải bồi
thường theo quy định tại Điều 113 Bộ luật
Tố tụng dân sự” n
59Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT NHẬT BẢN VỀ TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP
VÀ NHữNG GợI MỞ CHO VIỆT NAM
Cầm Vũ Thảo Nguyên*
* Hitotusbashi University - Faculty of Sociology
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Tình trạng khẩn cấp, pháp
luật Nhật Bản.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 01/06/2020
Biên tập : 16/06/2020
Duyệt bài : 19/06/2020
Article Infomation:
Key words: State of emergency,
laws of Japan.
Article History:
Received : 01 Jun. 2020
Edited : 16 Jun. 2020
Approved : 19 Jun. 2020
Tóm tắt:
Tình trạng khẩn cấp là trạng thái xã hội được thiết lập khi xảy ra tình
huống bất thường, ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân cũng
như hoạt động bình thường của xã hội, như dịch bệnh, thiên tai, bạo
loạn Việc tuyên bố tình trạng khẩn cấp giúp chính quyền nhanh
chóng lập lại trật tự, giúp người dân nhanh chóng ổn định lại cuộc
sống. Bên cạnh đó, việc ban bố tình trạng khẩn cấp lại có khả năng
làm ảnh hưởng đến nền pháp quyền và các quyền con người. Vì vậy,
Hiến pháp và pháp luật cần phải có quy định chặt chẽ về vấn đề này.
Bài viết phân tích quy định về tình trạng khẩn cấp trong Hiến pháp
và pháp luật Nhật Bản, những tranh luận của giới luật học về vấn đề
này trong bối cảnh Nhật Bản đang nỗ lực đối phó với đại dịch
COVID-19, từ đó rút ra những gợi mở cho Việt Nam.
Abstract:
State of emergency is an extraordinary situation heavily affecting the
lives of its citizens as well as the normal functioning of society, such
as epidemics, natural disasters, or riots, etc. The declaration of a state
of emergency helps the Government quickly restore social order, and
help people quickly stabilize their lives. In addition, declaration of
state of emergency has the potential to affect the rule of law and
human rights. Therefore, the Constitution and laws need to have strict
regulations on this issue. This article provide analysis of the legal
regulations on the state of emergency in the Japanese Constitution
and law under the imperial period and modern era, as well as legal
discussions on this issue in the context of COVID-19 pandemic in
Japan, and based on that to draw lessons learned for Vietnam.
Số 12 (412) - T6/202060
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1. Quy định của Hiến pháp Nhật Bản về
tình trạng khẩn cấp
Dưới thời phong kiến, Hiến pháp Nhật
Bản quy định rõ quyền ban bố tình trạng
khẩn cấp thuộc về lãnh đạo tối cao của quốc
gia - tức Thiên hoàng. Điều 8 Hiến pháp
Nhật Bản năm 1899 quy định: “Để bảo đảm
sự an toàn của cộng đồng khỏi thảm hoạ, tai
ương, trong trường hợp Quốc hội không họp
được, dựa trên nhu cầu cấp thiết, Thiên
hoàng có quyền ra sắc lệnh về tình trạng
khẩn cấp. Sắc lệnh này có hiệu lực tạm thời
như luật, và phải được trình lên Quốc hội
trong kỳ họp kế tiếp. Nếu Quốc hội không
thông qua sắc lệnh này, Chính phủ phải
thông báo huỷ bỏ hiệu lực ngay sau đó”. Dựa
trên sắc lệnh về tình trạng khẩn cấp, Chính
phủ có thể ban bố việc thiết quân luật và các
biện pháp ứng phó tạm thời1.
Điều 14 Hiến pháp Nhật Bản năm 1899
quy định, quyền thiết quân luật – lệnh giới
nghiêm thuộc Thiên hoàng. Đặc biệt, Điều
31 quy định: “các quyền lợi, nghĩa vụ của
người dân, trong trường hợp đất nước xảy ra
chiến tranh hoặc biến cố” sẽ bị giới hạn để
“không làm cản trở đến đại quyền của Thiên
hoàng”2. Ngoài ra, Hiến pháp Nhật Bản năm
1899 còn quy định về quản lý tài chính trong
tình trạng khẩn cấp (Điều 70)3.
Từ khi Hiến pháp Nhật Bản năm 1899
ra đời đến năm 1946, Nhật Hoàng đã ban
hành tổng cộng 108 sắc lệnh về tình trạng
khẩn cấp. Tuy nhiên, Hiến pháp Nhật Bản
năm 1946 đã không còn bao hàm bất cứ quy
định nào liên quan đến tình trạng khẩn cấp.
Trên thực tế, những tranh luận xung
quanh sự cấp thiết phải quy định về việc ban
hành tình trạng khẩn cấp mới chỉ xuất hiện
khoảng 2 thập kỷ gần đây. Năm 1996, giáo
sư Takeshi Tominaga viết bài đăng trên Tạp
chí Tổng hợp luận án Hiến pháp của Hội
nghiên cứu Hiến pháp Kansai4, trong đó
khẳng định: “Hiến pháp hiện hành chưa có
những quy định về quyền công bố tình trạng
khẩn cấp quốc gia, rất may mắn rằng, trong
thực tế, việc thực thi quyền công bố tình
trạng khẩn cấp quốc gia vẫn chưa bao giờ trở
thành vấn đề”5.
Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
2005 do Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản
(Liberal Democratic Party of Japan - LDP)
trình Quốc hội cũng không có điều khoản
nào về quyền công bố tình trạng khẩn cấp
quốc gia. Chỉ đến năm 2012, sau khi xảy ra
thảm hoạ động đất sóng thần Tohoku, bản
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp do LDP trình bày
mới lần đầu đề cập đến việc “xây dựng hệ
thống ứng phó tình trạng khẩn cấp minh
bạch, trên cơ sở Hiến pháp”6. Bản dự thảo
sửa đổi Hiến pháp năm 2012 đã đề xuất bổ
sung hai điều mới: Điều 98 - Ban bố tình
trạng khẩn cấp; Điều 99 - Hệ quả của việc
ban bố tình trạng khẩn cấp. Hai điều này đã
trở thành vấn đề gây tranh cãi đến tận bây
giờ. Điều 98 quy định: Quyền ban bố tình
trạng khẩn cấp thuộc về người đứng đầu Nội
các, được thực hiện sau khi thông qua Nội
các, trên cơ sở quy định của pháp luật hiện
1 Theo 大日本帝国憲法 The constitution of the Empire of Japan – 日本国会図書館 National Diet Library,
dịch bởi tác giả.
2 Như trên.
3 Như trên.
4 憲法論叢』第3号、関西憲法研究会、1996年6月.
5 富永健(1996)「日本国憲法には緊急権に関する規定が存しないだけでなく、幸いにも現実に
緊急権の行使が問題になることはなかった」、『憲法論叢』第3号 p.72.
6 日本自由民主党(2012 「緊急事態に対処するための仕組みを、憲法上明確に規定しました、
自 民 党 に よ る 日 本 憲 法 改 正 草 案 Q&A question No.39, p.32 https://jimin.jp-east-
2.storage.api.nifcloud.com/pdf/pamphlet/kenpou_qa.pdf .
hành7. Điều 99 quy định: Trong tình trạng
khẩn cấp, Nội các có quyền ban hành nghị
định có hiệu lực như luật. Ngoài ra, Thủ
tướng có quyền sử dụng các gói tài chính
cho ứng cứu và các khoản chi tiêu cần thiết;
quyền chỉ đạo chính quyền địa phương trong
việc ứng phó tình trạng khẩn cấp8. Các văn
bản do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban
hành trong tình trạng khẩn cấp, sau này, cần
phải được Quốc hội phê chuẩn; trong thời
gian diễn ra tình trạng khẩn cấp, Quốc hội sẽ
không bị giải tán (khoản 2 và 4 Điều 99)9.
Những đề xuất nêu trên của LDP có
nhiều nét tương đồng so với quy định trong
Hiến pháp ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Theo phân tích của Phó Giáo sư Kenneth
Mori McElwain, Đại học Tokyo, có hơn
66.1% Hiến pháp ở các nước trao quyền ban
bố tình trạng khẩn cấp cho người đứng đầu
chính phủ (Thủ tướng hoặc Tổng thống);
53.8% Hiến pháp yêu cầu việc ban bố tình
trạng khẩn cấp cần được sự đồng ý của Quốc
hội; 18.8% yêu cầu không được giải tán
Quốc hội trong thời gian diễn ra tình trạng
khẩn cấp10. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa
Nhật Bản với các nước khác ở chỗ, Thủ
tướng Nhật Bản ban bố tình trạng khẩn cấp
“dựa trên cơ sở luật pháp hiện hành”, tức
dựa trên cơ sở các văn bản luật khác mà
không phải căn cứ vào Hiến pháp. Trên thế
giới, chỉ có khoảng 6.5% quốc gia quy định
như Nhật Bản11.
Ngoài ra, khoản 3 Điều 99 quy định,
trong thời gian diễn ra tình trạng khẩn cấp,
mọi người phải chấp hành các quy định do
cơ quan nhà nước ban hành để bảo vệ tính
mạng, thân thể và tài sản của cá nhân. Trong
trường hợp này, quyền bình đẳng trước pháp
luật; quyền bất khả xâm phạm thân thể;
quyền tự do tư tưởng, quyền tự do ngôn
luận, xuất bản, hội họp, thành lập công ty, tự
do hiệp hội cũng như các quy định khác
trong Hiến pháp về nhân quyền vẫn được tôn
trọng đến mức tối đa”12.
Tranh luận về sự cần thiết phải quy
định về tình trạng khẩn cấp trong Hiến
pháp Nhật Bản
Xoay quanh việc Hiến pháp hiện hành
của Nhật Bản không quy định về việc ban bố
tình trạng khẩn cấp, các học giả, chính trị gia
và giới truyền thông nước này có ý kiến rất
khác nhau. Giáo sư Takeshi Tominaga chia
các ý kiến đó thành hai trường phái: trường
phái phủ định và trường phái thừa nhận13.
Trường phái phủ định cho rằng, Hiến
pháp hiện hành của Nhật Bản không công
nhận quyền công bố tình trạng khẩn cấp
quốc gia. Trường phái phủ định còn được
chia ra làm hai nhánh: nhánh thứ nhất cho
rằng, việc không công nhận quyền công bố
tình trạng khẩn cấp quốc gia là sự thiếu sót
lớn của Hiến pháp (thuyết khiếm khuyết);
nhánh thứ hai cho rằng, quyền công bố tình
trạng khẩn cấp không cần thiết, do đó đánh
giá cao Hiến pháp hiện tại (thuyết phủ nhận).
Thuyết khiếm khuyết được nêu lên bởi
giáo sư, nhà nghiên cứu Hiến pháp Yoshio
Onishi. Ông cho rằng, “yêu cầu cơ bản của
chủ nghĩa lập hiến là thực hiện quyền lực
trên cơ sở Hiến pháp. Ngay cả trong trường
61Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
7 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp Nhật Bản 2012日本国憲法改正草案,dịch bởi tác giả.
8 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp Nhật Bản 2012日本国憲法改正草案,dịch bởi tác giả.
9 Như trên.
10 Kenneth Mori McElwain, “Using Constitutional Data to Understand “State of Emergency” Provision”,
University of Tokyo 02/05/2017.
11 Kenneth Mori McElwain, “Using Constitutional Data to Understand “State of Emergency” Provision”,
University of Tokyo 02/05/2017.
12 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp Nhật Bản 2012, 日本国憲法改正草案, dịch bởi tác giả.
13 憲法論叢』第3号、関西憲法研究会、1996年6月.
Số 12 (412) - T6/202062
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
hợp đặc biệt, khi quốc gia gặp phải vấn đề
khẩn cấp, thì khi đó, việc thi hành quyền lực
ngoại lệ cũng cần phải tuân thủ theo một
nguyên tắc nhất định, như vậy, mới có thể
dự đoán được phạm vi ảnh hưởng của cũng
như giới hạn của nó”14 . Hội đồng Thẩm định
Hiến pháp do Chính phủ Nhật Bản thành lập
cũng cho rằng, một trong những khiếm
khuyết lớn nhất của Hiến pháp hiện hành là
việc không có điều khoản nào quy định về
cách xử lý trường hợp đất nước trong trường
hợp khẩn cấp khác thường”15.
Trái với thuyết khiếm khuyết, thuyết phủ
nhận cho rằng, quyền công bố tình trạng
khẩn cấp quốc gia là “một phần không thể
thiếu của chế độ quân chủ dưới thời Hiến
pháp Minh Trị”16, nhưng hiện nay, Nhật Bản
đã bãi bỏ chủ nghĩa quân chủ, lập nên bản
Hiến pháp dân chủ. Vì vậy, việc Hiến pháp
không quy định về quyền công bố tình trạng
khẩn cấp quốc gia cũng là một cách để bảo
vệ nền dân chủ. Do đó, việc Hiến pháp không
quy định về quyển công bố tình trạng khẩn
cấp không phải là khiếm khuyết của Hiến
pháp; trái lại, đó là bằng chứng tích cực nhất
cho thấy nước Nhật đã rút ra bài học từ
những kinh nghiệm lịch sử của mình để loại
bỏ những tiêu cực của chế độ cũ còn sót lại17.
Trường phái thừa nhận – thuyết dung
nhận cho rằng, việc đưa quyền công bố tình
trạng khẩn cấp quốc gia vào Hiến pháp là
không cần thiết, bởi lẽ trên thực tế, việc này
nên được coi như một “luật bất thành văn”.
Giáo sư Takayanagi Kenzou Đại học Tokyo,
đại diện của trường phái này, cho rằng: “Khi
phát sinh tình trạng khẩn cấp thì một quốc
gia có chủ quyền phải ngay lập tức thực hiện
các biện pháp xử lý khẩn cấp, bất kể điều đó
có được quy định trong Hiến pháp hay
không, đây là một nguyên lý bất thành văn
mà ai cũng công nhận”.
Các học giả theo thuyết dung nhận còn
cho rằng, việc chỉ sau khi có quy định cụ thể
trên Hiến pháp thì quốc gia mới có thể ứng
phó với các tình huống khẩn cấp mới chính
là vấn đề đáng báo động; bởi lẽ, chúng ta
không thể dự đoán hết được những tình
huống nào có thể xảy ra trong tương lai, do
đó, không thể xây dựng một cơ chế phản ứng
đầy đủ và sẵn sàng cho bất kỳ thử thách nào.
Trong trường hợp đó, sự lựa chọn thích hợp
nhất là để lực lượng chức năng tuỳ cơ ứng
biến, theo nguyên tắc, lấy việc bảo vệ các
quyền và tự do cá nhân làm cốt lõi. Mặt
khác, quy định cứng của pháp luật có thể lại
tạo ra khe hở cho việc lạm dụng quyền lực.
2. Quy định của pháp luật Nhật Bản về
tình trạng khẩn cấp
Trong hệ thống pháp luật của Nhật Bản,
tình trạng khẩn cấp được quy định ở các văn
bản sau đây:
- Luật Lực lượng phòng vệ Nhật Bản.
Điều 76 về điều động quốc phòng cho phép
Thủ tướng có quyền ra lệnh điều động Lực
lượng phòng vệ khi quốc gia bị tấn công vũ
lực hoặc có nguy cơ bị tấn công vũ lực từ
14 大西芳雄(1975)「あらゆる権力の行使をあらかじめ法の定めたルールに従って運用するこ
とが立法主義の基本的要求である。国家非情の場合の例外的権力をもあらかじめ定めたルー
ルに従ってそのやり方と範囲が予見され、その限界が予想されなければならない」、『憲法
の基本理論』、p.222; dịch bởi tác giả.
15 日本憲法調査会(1964)「現憲法の最大欠陥の一つは、国家の非常事態に対する処置が全く
講ぜられていない点である」『憲法調査会における各委員の意見』Dịch bởi tác giả
16 小林直樹(1979)「明治憲法の緊急権が軍権絶対のイデオロギーと不可分であった」、『国
家緊急権―非常事態における方と政治』、p.181; dịch bởi tác giả.
17 Như trên, 「憲法が緊急権規定を持たなかったのは憲法の欠缺でも欠陥でもなくて、旧体制の
経験の考え見てその遺物を払拭するという過去の対するネガティブな側面を有すると言わ
ねばなるまい」
63Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
bên ngoài, hoặc trong trường hợp nước đồng
minh thân cận bị tấn công vũ lực có nguy cơ
ảnh hưởng đến Nhật Bản. Quyết định của
Thủ tướng phải được Quốc hội thông qua
trước khi có hiệu lực, và việc sử dụng vũ lực
chỉ để tự vệ.
Điều 78 Luật cho phép Thủ tướng điều
động Lực lượng phòng vệ đến bảo vệ an
ninh ở khu vực trong trường hợp cảnh sát
không đủ khả năng duy trì trật tự. Quyết định
này cũng cần được Quốc hội thông qua.
- Điều 71 Luật Cảnh sát về các biện
pháp xử lý đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp
quy định: Trong trường hợp xảy ra thiên tai
hoặc tình trạng rối loạn trên quy mô lớn, Thủ
tướng có thể tuyên bố tình trạng khẩn cấp ở
một khu vực hoặc trên toàn bộ đất nước.
- Luật Chính sách cơ bản về phòng
chống thảm hoạ thiên tai tại Điều 105 quy
định: Khi có các thảm hoạ thiên tai xảy ra,
Thủ tướng có thể tuyên bố về tình trạng khẩn
cấp ở một khu vực hoặc trên toàn bộ lãnh thổ
quốc gia; ban hành quyết định di tản, xây
dựng cơ sở y tế tạm thời, cứu nạn cũng như
nhận viện trợ từ nước ngoài.
- Luật Các biện pháp đặc biệt đối phó với
các loại virus cúm mùa chủng mới năm 2013.
Văn bản này quy định về những biện pháp
phòng tránh cũng như điều trị cho bệnh nhân
khi có sự xuất hiện của một chủng virus cúm
mùa mới lây lan nhanh trên toàn quốc và có
nguy cơ trở nên nguy hiểm cho tính mạng
con người, gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh
tế. Luật này cho phép Chính phủ thực hiện
những đối sách phù hợp, trong đó bao gồm
cả việc ban bố tình trạng khẩn cấp cho một
vùng hoặc toàn lãnh thổ. Luật này được sửa
đổi, bổ sung vào ngày 13/3/2020 để cho phép
ứng phó với dịch COVID-19 như một virus
cúm mùa chủng mới18.
Tuy nhiên, những quy định hiện nay về
tình trạng khẩn cấp không làm vơi đi nỗi lo
lắng của dự luật xã hội Nhật Bản về sự “đầy
đủ” và “kín kẽ” của các quy định này. Dư
luận xã hội Nhật Bản đặt ra câu hỏi là liệu
rằng, trong trường hợp diễn ra tình trạng
khẩn cấp, với những quy định nêu trên,
Chính phủ Nhật Bản có thể hành động nhanh
đến đâu để bảo vệ người dân của mình mà
không động chạm đến các vấn đề nhân
quyền? Đặc biệt, trong bối cảnh diễn ra đại
dịch Covid-19, Nhật Bản cần áp dụng các
biện pháp khẩn cấp mạnh mẽ nhằm phòng,
chống dịch bệnh.
Trả lời trước báo chí sau khi Luật sửa
đổi Luật Các biện pháp đặc biệt đối phó với
các loại virus cúm mùa chủng mới được
thông qua, Bộ trưởng Bộ Tái tăng trưởng
kinh tế Nishimura Yasutoshi cho rằng: “Sẽ
có những biện pháp được đưa ra mà trong đó
sẽ gây ảnh hưởng đến các quyền tự do cá
nhân, chính vì thế, Chính phủ mong muốn
hạn chế sử dụng những biện pháp đó, nếu
buộc phải sử dụng thì Chính phủ sẽ lựa chọn
ở mức độ tối thiểu”19. Dù vậy, vẫn có nhiều
người bày tỏ quan điểm quan ngại đối với
việc sử dụng quyền hạn của Chính phủ trong
trường hợp khẩn cấp, cũng như yêu cầu
Chính phủ phải minh bạch trong quá trình ra
quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp, có
18 内閣法制局(2020)「新型コロナウイルス感染症の発生及びそのまん延により国民の生
命及び健康に重大な影響を与えることが懸念される状況に鑑み、この法律の施行の日から起
算して二年を超えない範囲内において政令で定める日までの間、新型コロナウイルス感染症
を新型インフルエンザ等対策特別措置法に規定する新型インフルエンザ等とみなし、同法に
基づく措置を実施する必要がある。これが、この法律案を提出する理由である」 ;
https://www.clb.go.jp/contents/diet_201/reason/201_law_046.html.
19 <新型コロナ>改正特措法が成立 きょう施行 「緊急宣言」可能に、国民の自由制限も』
東京新聞2020年3月14日.
Số 12 (412) - T6/202064
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
trách nhiệm lưu giữ đầy đủ những ghi chép
về nội dung các cuộc họp trước khi dẫn đến
quyết định này.
Ngày 7/4/2020, lần đầu tiên kể từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản ra
tuyên bố về tình trạng khẩn cấp áp dụng cho
7 tỉnh thành phố lớn là Tokyo, Kanagawa,
Saitama, Chiba, Osaka, Hyogo và Fukuoka.
Trong khoảng thời gian một tháng hiệu lực
của tình trạng khẩn cấp, người dân ở 7 tỉnh
này được khuyến cáo không nên ra đường
nếu không cần thiết, mọi hoạt động vui chơi
đều bị huỷ bỏ, bảo tàng, trường học được
yêu cầu đóng cửa, một số nhà hàng, quán ăn
cũng được yêu cầu dừng hoạt động hoặt rút
ngắn giờ làm... Tất cả những hoạt động này
nhằm hạn chế đến mức tối đa những tiếp xúc
giữa người với người. Thủ tướng Abe cho
biết mục tiêu của quyết định này là nhằm
giảm ít nhất 70 đến 80 phần trăm sự tiếp xúc
thông thường20.
Với việc đưa ra những quy định nêu
trên, nhiều quyền hiến định của công dân
Nhật Bản đã bị giới hạn đến một mức độ
nhất định. Tuy nhiên, trong tuyên bố và các
quy định về tình trạng khẩn cấp, Chính phủ
Nhật Bản mới chỉ dừng ở mức độ “yêu cầu”
chứ chưa phải là “bắt buộc ” thực hiện.
Thực tế nêu trên cho thấy sự thận trọng
của Chính phủ Nhật Bản trong bối cảnh hiện
tại. Khi mà chưa có quy định rõ ràng trong
Hiến pháp, Chính phủ không đưa ra những
quyết định mạnh, kể cả trong những trường
hợp được coi là khẩn cấp. Ở một góc độ
khác, điều này còn cho thấy, xã hội Nhật
Bản, sau những kinh nghiệm rút ra từ chế độ
quân chủ, đã rất quan tâm đến việc bảo vệ
các quyền con người.
Những gợi mở cho Việt Nam
Từ phân tích những quy định và thực
tiễn áp dụng quy định về tình trạng khẩn của
Nhật Bản có thể rút ra những gợi mở sau cho
Việt Nam:
Thứ nhất, tình trạng khẩn cấp có ảnh
hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức.
Vì vậy, để bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà
nước, tổ chức, cá nhân, cần một hệ thống
pháp luật về tình trạng khẩn cấp toàn diện,
rõ ràng và chặt chẽ: Bất kể những quy định
đó có thể được nêu trong Hiến pháp hay tại
các văn bản pháp luật dưới Hiến pháp, chúng
cần phải bao gồm: các trưởng hợp được ban
bố tình trạng khẩn cấp, những chủ thể có
thẩm quyền liên quan, thời gian hiệu lực
cũng như phạm vi ảnh hưởng.
Thứ hai, mọi quyết định liên quan đến
tình trạng khẩn cấp cần có sự chuẩn thuận
của Quốc hội. Trong trường hợp Quốc hội
không họp được, chủ thể có thẩm quyền, dựa
trên tính cấp bách của vấn đề, ra quyết định
ban bố tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, quyết
định đó cần nhận được sự phê chuẩn của
Quốc hội tại kỳ họp sớm nhất được tổ chức.
Trong suốt thời gian diễn ra tình trạng khẩn
cấp, Quốc hội không thể bị giải tán.
Thứ ba, cần công khai, minh bạch mọi
quyết định liên quan đến tình trạng khẩn cấp.
Thông qua phương tiện thông tin đại chúng,
phương tiện truyền thông khác, chính quyền
cần thông báo nội dung các quyết định liên
quan đến tình trạng khẩn cấp với người dân
một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời.
Thứ tư, cần xây dựng một thiết chế độc
lập, minh bạch để giám sát mọi quyết định
liên quan đến tình trạng khẩn cấp, trong đó
Toà án cần đóng một vai trò quan trọng n
20 安倍首相「人と人の接触を7割か8割削減することが前提だ」緊急事態宣言発出後の記者会
見 2020年4月7日.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_lap_phap_so_12_nam_2020.pdf