Nghiên cứu mô hình chính sách trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) và khả năng áp dụng tại Việt Nam
Đánh giá Khả năng áp dụng mô hình EPR
Từ rất nhiều thuận lợi và khó khăn nêu trên, có thể
nhận định rằng mô hình EPR hoàn toàn có khả năng
áp dụng được ở Việt Nam tuy nhiên cần hệ thống chế
tài hợp lý và chặt chẽ giữa 3 bên: Nhà nước, doanh
nghiệp sản xuất và đối tượng sử dụng:
*. Đối với Nhà nước
- Thành lập Hội đồng Ủy ban định giá (thành phần
bao gồm các cơ quan Nhà nước; các doanh nghiệp,
hiệp hội) kèm theo việc ban hành quy phạm pháp luật
để đảm bảo công bằng cho các bên tham gia;
- Thiết lập Quỹ tái chế độc lập với Quỹ bảo vệ môi
trường Việt Nam nhằm tạo ra sự công bằng trong việc
sử dụng quỹ;
- Thành lập cơ quan kiểm toán độc lập.
*. Đối với doanh nghiệp
- Các doanh nghiệp có trách nghiệp nộp phí tái chế;
- Các doanh nghiệp có thể cân nhắc cơ chế kí quỹ;
- Mở rộng từ các mặt hàng cho EPR, đi từ các sản
phẩm phát sinh nhiều nhất hoặc dễ nhất (ắc quy) và có
thể áp dụng từ các doanh nghiệp lớn;
- Các doanh nghiệp chủ động kết hợp với các đơn
vị có cùng loại chất thải để thành lập các Hiệp hội tái
chế PRO; tạo sự chủ động hơn trong việc xử lý chất
thải do chính mình tạo ra.
*. Đối với người sử dụng
- Người dân: có ý thức trong việc phân loại rác
tại nguồn;
- Nhà nước có thể khuyến khích người dân bằng
cách khi bỏ sản phẩm sẽ được nhận phí phù hợp.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 286 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu mô hình chính sách trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) và khả năng áp dụng tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
83 SỐ 64 (11-2020)
NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH CHÍNH SÁCH TRÁCH NHIỆM MỞ RỘNG
CỦA NHÀ SẢN XUẤT (EPR) VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM
RESEARCH ON EPR MODEL APPLIED IN SOME COUNTRIES AND THE
APPLICABILITY OF THIS MODEL IN VIETNAM
NGUYỄN THỊ THƯ*, NGUYỄN THỊ TÂM
Viện Môi trường, Trường Đại học Hàng hải Việt Nam
*Email liên hệ: thunt.vmt@vimaru.edu.vn
Tóm tắt
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, khái niệm EPR
không còn xa lạ nhưng khá mới ở Việt Nam.
Qua đây, nhà nước khẳng định rõ rằng các đơn
vị sản xuất phải chịu trách nhiệm lớn với hậu
quả của mình tạo ra bằng hành động cụ thể
hoặc tài chính đối với các tác động đến môi
trường trong suốt vòng đời sản phẩm của mình.
Bài báo này trình bày mô hình EPR ở một số
quốc gia và đánh giá khả năng áp dụng mô hình
này tại Việt Nam.
Từ khóa: EPR, PRO, trách nhiệm mở rộng của
nhà sản xuất, quản lý sản phẩm.
Abstract
Extended Producer Responsibility (EPR) is not
new but new in Vietnam. In this concept, the state
clearly stated that producers have to be
responsible financially or physically for the
environmental related consequences along the
life cycle of their products. This paper introduces
EPR models in some countries and assesses
applicability in Vietnam.
Keywords: EPR, PRO, extended producer
responsibility, product Stewardship.
1. Đặt vấn đề
1.1. Khái niệm
Nền kinh tế phát triển mạnh mẽ đồng nghĩa với
lượng chất thải thải bỏ vào trong môi trường dần lớn
hơn. Hiện nay, trách nhiệm bảo vệ môi trường không
chỉ còn thuộc về Nhà nước mà còn là nhiệm vụ của xã
hội, đặc biệt là các nhà sản xuất - đối tượng trực tiếp
phát sinh lượng lớn chất thải mỗi năm.
EPR - Extended Producer Responsibility là cơ chế
tăng cường (hay mở rộng) về trách nhiệm của những
nhà sản xuất đang được áp dụng trong công tác quản
lý môi trường ở nhiều quốc gia trên Thế giới [4].
EPR là một giải pháp nhằm lồng ghép giá trị chi
phí về môi trường diễn ra ở suốt vòng đời sản phẩm
đặt vào trong giá của sản phẩm, nhờ việc bắt buộc các
nhà sản xuất chịu trách nhiệm trong thu gom, xử lý
các sản phẩm đã sử dụng sau khi được thải bỏ.
EPR là hướng tiếp cận chính sách môi trường theo
đó trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm của
mình được mở rộng tới khi sản phẩm đã được tiêu thụ
trong vòng đời sản phẩm. Áp dụng EPR cho quản lý
chất thải rắn không những giúp giảm nhẹ gánh nặng
tài chính lên ngân sách nhà nước, chuyển một phần
trách nhiệm cho các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, mà
còn giúp gia tăng tỷ lệ thu hồi, tái chế chất thải và
giảm áp lực trong xử lý chất thải rắn. Từ những năm
1980, EPR đã được áp dụng rộng rãi tại hầu hết các
quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(OECD) như là một giải pháp trọng yếu nhằm giải
quyết các thách thức ngày càng lớn, phức tạp trong
quản lý chất rắn.
Các hạng mục của EPR bao gồm:
- Các đề án thu lại sản phẩm yêu cầu nhà sản xuất
và nhà bán lẻ sản phẩm ở giai đoạn tiêu dùng: Các yêu
cầu về thu lại sản phẩm bao gồm giao trách nhiệm cho
nhà sản xuất hay bán lẻ trong việc quản lý sản phẩm
xuyên suốt quá trình từ khi sản phẩm ra đời cho đến
khi vứt bỏ. Loại yêu cầu này thường được áp dụng
nhờ đặt ra các mục tiêu về thu gom và tái chế cho sản
phẩm hoặc vật liệu.
- Các công cụ kinh tế để quản lý môi trường bao
gồm kí quỹ hoàn trả hay phí xử lí trả trước ADF, thuế
vật liệu,
- Các quy định và tiêu chuẩn: đây là những tiêu
chuẩn bắt buộc hoặc do các ngành tự nguyện áp dụng
thông qua các chương trình tình nguyện. Ví dụ: quy
định lượng sản phẩm tái chế tối thiểu có thể khuyến
khích việc thu lại các sản phẩm đã hết giá trị sử dụng.
Khi kết hợp với thuế, các tiêu chuẩn như vậy giúp đẩy
mạnh việc thiết kế lại sản phẩm [2].
PROs - Producer Responsibility Organisations: là
tổ chức có vai trò phối hợp các nhà sản xuất trong việc
thu lại sản phẩm. Các tổ chức này thường được gọi là
tổ chức trách nhiệm của các nhà sản xuất, được coi là
bên thứ ba, được cơ cấu hiệu quả để quản lý và thu
gom các sản phẩm hậu tiêu dùng.
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
84 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
1.2. Tổng quan về tình hình áp dụng EPR trên thế giới
Một số quốc gia trong Liên minh châu Âu và các
nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, đã đưa ra
nhiều văn bản luật, quy định, pháp lệnh về trách nhiệm
của nhà sản xuất cho một số loại hình chất thải như:
chất thải điện - điện tử, acquy, pin, bao bì, các loại
phương tiện động cơ sau sử dụng,... Nhà nước ở đó
quy định các nhà sản xuất cũng như công ty nhập khẩu
sản phẩm phải có những trách nhiệm trong giải quyết
việc thu gom, xử lý các loại hàng hóa sau khi sử dụng.
Những hành động này thường được đảm nhận bởi các
tập đoàn, công ty do chính các nhà sản xuất tự đứng
ra thành lập, làm nhiệm vụ từ khâu thu gom, đến vận
chuyển và xử lý. Một số công ty lớn có thể kể đến như:
El-Kretsen AB của Thụy Điển, Elretur của Na Uy hay
DSD của Đức, Nhà sản xuất, nhập khẩu phải nộp lệ
phí phục vụ quá trình thu gom, tái chế. Thực tế đã cho
thấy rằng, thông qua việc áp dụng EPR, nhiều quốc
gia đã thúc đẩy ngành công nghiệp tái chế, tạo ra cơ
hội việc làm cho nhiều người lao động, đồng thời đáp
ứng nhu cầu của xã hội.
Các loại sản phẩm hiện nay được tái chế cao thể
hiện trong Hình 1 dưới đây:
Hình 1. Các loại sản phẩm được tái chế nhiều nhất
trên thế giới (Theo OECD- 2016)
2. Một số mô hình EPR tại Đài Loan và Hàn Quốc
2.1. Mô hình EPR tại Đài Loan
a. Bối cảnh
Vào những năm 1970, Đài Loan được gọi là đảo rác
bởi rác thải tràn lan khắp mọi nơi, chính phủ không có
giải pháp để giảm bớt và cải thiện chất lượng cảnh quan.
Trước tình hình đó, năm 1987 tái chế lần đầu tiên
được đưa vào Luật xử lý rác thải. Từ năm 1987 đến
năm 1998, chính sách tái chế thay đổi từ việc điều
hành bởi doanh nghiệp tư nhân sang điều hành bởi
doanh nghiệp Nhà nước. Có 4 giai đoạn chính:
Giai đoạn 1: Tháng 1/1989 đến Tháng 3/1994;
Giai đoạn 2: Tháng 4/1994 đến Tháng 12/1996;
Giai đoạn 3: Tháng 1/1997 đến Tháng 6/1998;
Giai đoạn 4: Tháng 7/1998 đến nay.
b. Mô hình EPR tại Đài Loan - Hệ thống tái chế 4
trong 1
Đài Loan đã áp dụng mô hình Nhà nước tài trợ ở
cơ quản bảo vệ môi trường EPA- nơi được thực hiện
chương trình 4 trong 1 gồm có quỹ tái chế, người thực
hiện tái chế, chính quyền thành phố với tư cách đơn vị
thu gom và người tiêu dùng.
Hình 2. Mô hình EPR tại Đài Loan
Trong đó:
- Cộng đồng: thành lập các tổ chức tái chế tự
nguyện và đẩy mạnh phân loại rác tại hộ gia đình;
- Doanh nghiệp tái chế: khuyến khích sự phát triển
của loại hình tái chế tư nhân; mua rác có thể tái chế từ
người dân, tổ chức cộng đồng và đội thu mua rác của
thành phố;
- Quỹ tái chế: giám sát các đơn vị chịu trách nhiệm
được chỉ định trong việc nộp phí dọn dẹp, xử lý, tái
chế và thành lập quỹ quản lý tái chế;
- Chính quyền địa phương: có nhiệm vụ thu gom
và xử lý riêng các nguồn chất thải; Nguồn thu nhập từ
việc bán nguyên liệu tái chế thu gom từ người dân
hoặc các đội công nhân vệ sinh sẽ được trả lại cho
người dân và công nhân theo tỷ lệ cụ thể [2].
Mục tiêu:
1. Đảm bảo các nguồn tài nguyên có thể được tái
chế, tái sử dụng hoặc xử lý đúng cách;
2. Người tham gia, các đội vệ sinh và doanh nghiệp
tái chế sẽ thu được lợi nhuận hoặc thù lao hợp lý;
3. Có hệ thống phản hồi để khuyến khích sự tham
gia trên toàn quốc.
EPA đặt ra phí tái chế đối với các nhà sản xuất
nhằm cân bằng quỹ và chi phí trả trợ cấp tái chế cho
những người thực hiện tái chế.
Cộng
đồng
Doanh
nghiệp
tái chế
Quỹ tái
chế
Chính
quyền
địa
phương
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
85 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
Hình 3. Mô hình EPR tại Đài Loan [2]
c. Kết quả đạt được
- Hiện nay tại Đài Loan đã có 13 nhóm với 33 loại
chất thải được tái chế theo đúng quy định;
- Đài Loan từ 1 quốc gia có lượng chất thải lớn trở
thành 1 trong những nơi sạch nhất châu Á.
2.2. Mô hình EPR tại Hàn Quốc
a. Bối cảnh
Từ những năm 1990, Chính phủ Hàn Quốc đã có
chính sách tập trung vào việc giảm thiểu và tái chế rác
thải để giải quyết lượng rác thải lớn được tạo ra bởi
việc tiêu thụ và sản xuất hàng loạt các sản phẩm theo
định hướng của xã hội.
Đến năm 2000, Chính phủ nước này đã đưa ra hệ
thống trách nhiệm của nhà sản xuất mở rộng EPR có
tên gọi KECO nhằm tăng cường trách nhiệm của
người sản xuất từ giai đoạn đầu sản xuất đến thu thập
và tái chế.
b. Mô hình EPR tại Hàn Quốc - Quản trị hệ thống
Các hiệp hội tái chế PRO tại Hàn Quốc bao gồm:
TT Các PRO Sản phẩm
1.
Hợp tác xã tái chế
bao bì
Hộp kim loại, hộp bìa
cứng, chai thủy inh, chai
nhựa, bao bì nhựa
2.
Hiệp hội công
nghiệp dầu nhờn
Dầu nhờn
3. Hiệp hội tái chế đèn Đèn huỳnh quang
4. Hiệp hội tái chế pin Pin
5.
Hiệp hội sản xuất
lốp xe
Lốp
6.
Hiệp hội tái chế vỏ
chai lọ
Chai thủy tinh rỗng
7.
Hiệp hội môi trường
điện tử
Thiết bị điện, điện tử thải
Tháng 4 hàng năm các nhà sản xuất và PRO gửi
kết quả triển khai chương trình tái chế cho KECO. Các
kết quả báo cáo, các tài liệu cung cấp chi tiết về sản
xuất và nhập khẩu được gửi để cung cấp dữ liệu cơ
bản nhằm tính toán khối lượng tái chế định sẵn cho
từng nhà sản xuất.
KECO có nhiệm vụ bao quát cả hệ thống EPR,
hiện nay có khoảng 120 nhân viên với các nhiệm vụ
như giám sát PRO, đảm bảo rằng các nhiệm vụ được
thực hiện, kết nối với các nhà sản xuất và PRO, lập
báo cáo cho Bộ Môi trường.
Bộ sẽ áp các biện pháp tài chính cho các nhà sản
xuất và nhà nhập khẩu hoặc các PRO gọi là Phí tái chế.
Hình 4. Mô hình EPR tại Hàn Quốc [2]
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
86 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
c. Kết quả của hệ thống EPR
- Tăng tỉ lệ tái chế;
- Giảm bớt sử dụng nguyên liệu thô;
- Cải thiện môi trường;
- Xây dựng nền tảng cho công nghệ tái chế;
- Tiết kiệm nguồn năng lượng và giảm khí thải.
Sau khi áp dụng EPR ở Hàn Quốc, lượng chất thải rắn
sinh hoạt được tái chế tăng 72% từ 1.047 nghìn tấn
năm 2003 lên 1.675 nghìn tấn năm 2015; 93% bao bì
màng nhựa được tái chế trong năm 2018 (từ 172.000
tấn năm 2003 lên 851.000 tấn năm 2018).
3. Nghiên cứu khả năng áp dụng tại Việt Nam
3.1. Liên minh tái chế PRO Việt Nam và thực trạng
thu hồi sản phẩm sau khi sử dụng tại Việt Nam
a. PRO tại Việt Nam
Năm 2019, các doanh nghiệp lớn trên thị trường
có sự cạnh tranh đã cùng hợp tác với cùng mục đích
là cải thiện chất lượng môi trường Việt Nam. PRO
Việt Nam là một tổ chức hoạt động phi lợi nhuận, hoạt
động trên tinh thần tự nguyện, mục tiêu hướng đến
việc thúc đẩy thu gom và tái chế sản phẩm bao bì của
những thương hiệu hàng hóa đã đồng ý tham gia.
Các đơn vị đồng sáng lập PRO Việt Nam gồm có:
Tetra Pak, La Vie, Nutifood, Coca - Cola Việt Nam,
TH Group, PepsiCo Việt Nam, Nestle, Universal
Robina Corporation và Friesland Campina Việt Nam.
Đây là liên minh tái chế hỗ trợ tạo ra một hệ sinh thái
hoàn chỉnh về thu gom và tái chế một số bao bì, giúp tăng
tỉ lệ chất thải được tái chế và giảm bớt tỉ lệ bao bì thải bỏ.
PRO Việt Nam góp phần đẩy mạnh hỗ trợ một số hoạt
động trên các lĩnh vực bao gồm nâng cao ý thức người
sử dụng sản phẩm về phân loại và tái chế rác thải, làm
vững mạnh hệ sinh thái thu gom bao bì vốn sẵn có.
PRO Việt Nam đồng thời cũng hỗ trợ các chương
trình tái chế thực hiện tại các nhà máy xử lý cũng như
nhà máy sản xuất các nguyên liệu tái chế. Tổ chức này
cũng sẽ hợp tác với Chính phủ trong mảng Recycle -
tái chế của chiến dịch 3R Reduce - giảm thiểu, Reuse
- tái sử dụng và Recycle - tái chế thông qua quan hệ
đôi bên tự nguyện [3]. Ngoài ra, PRO Việt Nam cũng
cùng kết hợp với các trung tâm thuộc một số trường
đại học, cao đẳng trên cả nước nhằm tìm ra các giải
pháp trong công nghệ sản xuất và tái chế phù hợp với
môi trường Việt Nam.
Hướng phát triển của PRO Việt Nam trong thời
gian tới là sẽ triển khai thu gom, tái chế rác thải thí
điểm ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời,
tổ chức này sẽ thành lập một công ty xã hội nhằm triển
khai những chương trình cụ thể và kêu gọi thêm các
doanh nghiệp cùng mục tiêu tham gia vào tổ chức.
b. Thực trạng thu hồi sản phẩm thải bỏ sau sử dụng ở
Việt Nam
Tại Việt Nam, khái niệm EPR lần đầu tiên được
mang tính nguyên tắc trong Luật Bảo vệ môi trường
năm 2005 và tiếp tục được quy định trong Luật Bảo
vệ môi trường năm 2014. Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành quy định về thu hồi và xử lý sản phẩm thải
bỏ vào năm 2013 và quy định này đã được sửa đổi,
bổ sung năm 2015. Tuy nhiên, hiệu quả của EPR
hiện nay còn thấp do chưa thể hiện được tính bao
trùm trong phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng,
thiếu vắng các công cụ tài chính hiệu quả và các
hướng dẫn thực thi cụ thể. Do đó, việc hoàn thiện
EPR được xem là một trong những công cụ chính
sách quan trọng về quản lý chất thải rắn nói.
Thực tế hiện nay, dù chưa áp dụng chính thức
EPR, nhưng vấn đề thu gom sản phẩm nguy hại hết
hạn sử dụng hoặc thải bỏ sau khi sử dụng như: acquy,
đồ điện gia dụng, đã được thực hiện ở nước ta. Các
loại chất thải này đã được người thu mua đồng nát
tiến hành thu gom và vận chuyển tới các làng nghề
chuyên tái chế. Lực lượng lao động này làm việc
hoàn toàn tự phát và đã được duy trì suốt nhiều năm
qua cũng do việc tái chế thủ công tại các làng nghề
vẫn còn hoạt động khá tốt vì không phải tuân theo
các chuẩn mực về môi trường. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy rằng ở các làng nghề thủ công với công nghệ
thô sơ, lạc hậu thì hoạt động tái chế chất thải là hoạt
động tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
Trong khi mục tiêu cuối cùng của EPR là đảm bảo,
kiểm soát việc xử lý các sản phẩm thải bỏ đạt chuẩn
những yêu cầu về môi trường. Do đó, từ thực tế cho
thấy cần thiết phải nghiên cứu, triển khai rộng rãi mô
hình EPR tại Việt Nam để nâng cao hiệu quả của việc
thu gom, tái chế các sản phẩm sau khi sử dụng, tránh
nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
3.2. Khả năng áp dụng mô hình EPR tại Việt Nam
*. Thuận lợi
- Hiện nay tại Việt Nam đã có 2 nhóm Tái chế -
Thu gom (Làng nghề - Mạng lưới người thu mua phế
liệu), chủ yếu là khối phi chính thức;
- Một số khu vực đã áp dụng cơ chế tích điểm; tích
điểm đổi quà;
- Mạng lưới thu gom đồng nát đã và đang thu một
số rác thải ở các địa bàn hoạt động thường xuyên;
- Đã áp dụng một số phần mềm điện thoại thu gom
thí điểm các loại rác thải nhựa (phần mềm mGreens);
- Đã có các tổ chức tiên phong trong việc tái chế
rác thải. Ví dụ: Việt Nam Tái chế.
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
87 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
*. Khó khăn
- Cơ chế điều phối, vận hành chưa rõ ràng, chủ yếu
các hoạt động thu gom đều đang ở mức độ tự phát,
không chính thức.
- Chưa có Quỹ phục vụ cho hoạt động tái chế
chuyên biệt; các hỗ trợ đều được sử dụng từ Quỹ bảo
vệ môi trường;
- Khi dự án đi vào hoạt động cần có chính sách để
kiểm soát tính công khai, minh bạch;
- Khó khăn trong việc làm rõ động lực của các
doanh nghiệp khi nộp tiền vào Quỹ tái chế;
- Tạo động lực cho công dân trong chiến dịch phân
loại rác thải tại nguồn;
- Có thể gây cản trở cho phát triển kinh tế;
- Với các nhà sản xuất nhỏ (SMEs - gia công thủ
công) rất khó tham gia vào quá trình EPR.
3.3. Đánh giá Khả năng áp dụng mô hình EPR
Từ rất nhiều thuận lợi và khó khăn nêu trên, có thể
nhận định rằng mô hình EPR hoàn toàn có khả năng
áp dụng được ở Việt Nam tuy nhiên cần hệ thống chế
tài hợp lý và chặt chẽ giữa 3 bên: Nhà nước, doanh
nghiệp sản xuất và đối tượng sử dụng:
*. Đối với Nhà nước
- Thành lập Hội đồng Ủy ban định giá (thành phần
bao gồm các cơ quan Nhà nước; các doanh nghiệp,
hiệp hội) kèm theo việc ban hành quy phạm pháp luật
để đảm bảo công bằng cho các bên tham gia;
- Thiết lập Quỹ tái chế độc lập với Quỹ bảo vệ môi
trường Việt Nam nhằm tạo ra sự công bằng trong việc
sử dụng quỹ;
- Thành lập cơ quan kiểm toán độc lập.
*. Đối với doanh nghiệp
- Các doanh nghiệp có trách nghiệp nộp phí tái chế;
- Các doanh nghiệp có thể cân nhắc cơ chế kí quỹ;
- Mở rộng từ các mặt hàng cho EPR, đi từ các sản
phẩm phát sinh nhiều nhất hoặc dễ nhất (ắc quy) và có
thể áp dụng từ các doanh nghiệp lớn;
- Các doanh nghiệp chủ động kết hợp với các đơn
vị có cùng loại chất thải để thành lập các Hiệp hội tái
chế PRO; tạo sự chủ động hơn trong việc xử lý chất
thải do chính mình tạo ra.
*. Đối với người sử dụng
- Người dân: có ý thức trong việc phân loại rác
tại nguồn;
- Nhà nước có thể khuyến khích người dân bằng
cách khi bỏ sản phẩm sẽ được nhận phí phù hợp.
4. Kết luận
Từ điều kiện thực tế và những thuận lợi đã nêu,
kèm theo sự xuất hiện lần đầu tiên của Liên minh tái
chế bao bì Việt Nam, có thể khẳng định rằng Việt
Nam hoàn toàn đủ khả năng để xây dựng mô hình
EPR theo mẫu của những quốc gia đã và đang rất
thành công như Đài Loan hay Hàn Quốc. Tuy nhiên,
khi áp dụng, nhà nước và các đơn vị liên quan cần có
chế tài rõ ràng, khích lệ được các bên liên quan tham
gia và cùng thực hiện.
Lời cảm ơn
Bài báo này là sản phẩm của đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Trường năm học 2019-2020, tên đề tài:
“Nghiên cứu khả năng áp dụng chính sách trách
nhiệm mở rộng của các nhà sản xuất trong quản lý
chất thải nguy hại tại Việt Nam”, được hỗ trợ kinh phí
bởi Trường Đại học Hàng hải Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Chris Van Rossem, Naoko Tojo, Thomas
Lindhqvist, Extended Prodcer Responsibility - An
examination of its impact on innovation and
greening products, The international institute for
industrial environmental economics -
Internationella Miljöinstitutet, 2006.
[2] Bộ tài nguyên môi trường, Australia global
alumini, Tăng cường nguồn lực cho hoạt động
quản lý chát thải và tái chế rác thải thông qua sự
tham gia của khối tư nhân ở Việt Nam - thực hiện
cơ chế thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ, Bộ tài
nguyên môi trường, 2019.
[3] Trần Anh Tuấn, Quản lý chất thải rắn, NXB
Hàng hải, 2017.
[4] https://www.oecd.org/env/tools
evaluation/extendedproducerresponsibility.htm
Ngày nhận bài: 18/05/2020
Ngày nhận bản sửa: 27/05/2020
Ngày duyệt đăng: 16/06/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_mo_hinh_chinh_sach_trach_nhiem_mo_rong_cua_nha_sa.pdf