Kết luận
Như vậy, bằng cách vận dụng và ủng hộ mô hình “đàn
ngỗng bay” như một phương thức thiết yếu để tiến tới hội
nhập hơn nữa trong khu vực, Nhật Bản đã đóng góp rất lớn
cho sự phát triển cũng như hợp tác kinh tế ở Đông Á. Thực
tế, mạng lưới sản xuất công nghiệp của Nhật Bản không
chỉ trở nên phát triển hơn mà còn có sức ảnh hưởng đáng
kể hơn với các nền kinh tế trong khu vực, hỗ trợ đất nước
này tăng cường hợp tác kinh tế vùng trong những thập kỷ
gần đây. Đây là một mô hình được đánh giá là theo sát bản
chất phát triển của thị trường nên sẽ mang lại sự phát triển
bền vững, ổn định cho các quốc gia, không chỉ trong lĩnh
vực kinh tế mà còn với chính trị trong khu vực. Việt Nam,
với những nỗ lực hướng tới phát triển kinh tế bền vững, cần
nghiêm túc ứng dụng mô hình này vào thực tiễn.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu mô hình phát triển đàn ngỗng bay và bài học cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(119).2017 23
NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN ĐÀN NGỖNG BAY
VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
AN INTRODUCTION TO THE FLYING GEESE PATTERN OF JAPAN
AND LESSONS FOR VIET NAM
Lê Thị Phương Loan1, Lê Phương Mỹ Hiền2
1Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng; ltploan@ufl.udn.vn
2Công ty Cổ phần Hapras Việt Nam; lpmyhien@gmail.com
Tóm tắt - Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI, mô hình phát triển
kinh tế “đàn ngỗng bay” đã được nhiều nhà kinh tế học trên thế
giới nhắc đến như một mô hình điển hình cho sự phát triển vượt
bậc tại khu vực châu Á, trong đó có Nhật Bản - nơi xuất phát của
mô hình này. Trên thực tế, trong 40 năm từ 1960-2010, từ một
quốc gia bại trận trong Thế chiến II, Nhật Bản đã vươn lên đứng
thứ 2 trên thế giới về chỉ số Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), chỉ
sau Mỹ. Có rất nhiều yếu tố mang lại sự thành công vượt trội này
cho Nhật Bản, và một trong những yếu tố thường hay được các
học giả quan tâm và nhắc đến trong thời gian gần đây là mô hình
“Đàn ngỗng bay” (the Flying geese pattern), được nhà kinh tế học
Kaname Akamatsu lần đầu nhắc đến vào năm 1935. Bài báo
nghiên cứu đặc trưng của mô hình để từ đó đề xuất bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam.
Abstract - In the first decades of the twenty-first century, the “flying
geese” economic development pattern has been mentioned by
many economists around the world as a model for growth in the
East Asia region. In fact, in four decades in a row from 1960-2010,
from a defeated nation in World war 2, Japan emerged as the world
second largest economy in terms of GDP, only after the U.S. There
are many factors which have contributed to the phenomenal
economic success of Japan, and one of the most commonly
considered and mentioned recently is the Flying Geese pattern -
first coined in an article published in 1935 by the Japanese
economist Kaname Akamatsu. This model has not only helped
improve Japan’s economy but also enhanced the country’s position
in the diplomatic relations with other countries. The paper, studying
the characteristics of the Flying geese pattern, puts forward some
policy recommendations for Viet Nam.
Từ khóa - mô hình đàn ngỗng bay; phát triển kinh tế; Nhật Bản;
Đông Á; ảnh hưởng.
Key words - flying geese pattern; economic development; Japan;
East Asia; influence.
1. Đặt vấn đề
Xuất hiện lần đầu vào năm 1935 nhưng phải đến thập
niên 1960-1970, thuật ngữ mô hình “đàn ngỗng bay” mới
thực sự được biết đến rộng rãi trên toàn thế giới. Nguyên
nhân một phần vì trước thời điểm này, các nghiên cứu của
tác giả Kaname Akamatsu chỉ xuất hiện qua sách và các bài
báo trong nước (được xuất bản bằng tiếng Nhật). Từ sau
năm 1975, các học trò của ông mới phát triển học thuyết và
tài liệu lần đầu được chuyển dịch sang tiếng Anh thì lúc đó
thuật ngữ này mới thực sự được chú ý. Nghiên cứu này tập
trung làm rõ cơ sở lý thuyết của mô hình và phân tích sự
ảnh hưởng của mô hình này đối với chính sách đối ngoại
của Nhật Bản đối với các nước trong khu vực châu Á nói
chung và Đông Nam Á nói riêng, từ đó rút ra bài học cho
Việt Nam.
2. Tổng quan về mô hình Đàn ngỗng bay
2.1. Khái niệm
Kaname Akamatsu, sau khi quan sát sự phát triển của
ngành sản xuất sợi bông từ cuối thế kỷ XIX đến thập niên
1930, đã nhận thấy hiện tượng: ban đầu, Nhật Bản nhập
khẩu sợi bông, về sau công nghiệp sản xuất sợi bông trong
nước dần khởi sắc; sau đó nhập khẩu và xuất khẩu sợi bông
cùng phát triển, và cuối cùng là cùng rơi vào suy thoái. Nếu
thể hiện điều này trên đồ thị với trục hoành là thời gian và
trục tung là sản lượng thì có thể thấy trên biểu đồ sẽ có ba
đường cong hình chữ V lật ngược, giống như trật tự của
đàn ngỗng trời khi bay. Trong một bài báo năm 1935,
Akamatsu đã lần đầu đề cập đến thuật ngữ “sangyu hatten
1 Nguyên gốc từ Ganko(鵞鳥) là bay theo hàng và Keitai (形態) trong tiếng Nhật mang nghĩa là hình thái
no ganko keitai”1 (hình thái bay theo hàng của sự phát triển
công nghiệp) như là một ý tưởng sơ khởi cho mô hình “đàn
ngỗng bay” sau này. Theo đó, đây sẽ là hình thái công
nghiệp hoá nền kinh tế theo trật tự như một đàn ngỗng bay
mà ở đó một nước muốn cải thiện nền kinh tế theo hướng
công nghiệp thì nên bắt đầu bằng việc nhập khẩu một mặt
hàng chủ lực từ một nước phát triển hơn, sau đó nền công
nghiệp trong nước sẽ từng bước thích ứng với việc sản xuất
mặt hàng này nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường, bắt
đầu bằng nhập khẩu máy móc phục vụ sản xuất, đào tạo
nhân công; tiếp sau đó, ngưng nhập khẩu máy móc và tự
sản xuất máy móc kéo theo các ngành công nghiệp phụ trợ
khác phát triển theo. Thuật ngữ này khi xuất hiện trong các
tài liệu nghiên cứu quốc tế lại được dịch thành “The Flying
Geese Pattern”. Tại Việt Nam, nó xuất hiện dưới tên “Mô
hình Đàn ngỗng bay” hay “Mô hình Nhạn bay” - ban đầu
được sử dụng nhằm mô tả quá trình công nghiệp hoá của
một nước phát triển, nhưng sau đó nó được mở rộng phạm
vi áp dụng cho công nghiệp hoá, phát triển mạng lưới sản
xuất và đặc biệt là lĩnh vực hợp tác trong khu vực [1].
Tóm lại, “Mô hình Đàn ngỗng bay là mô hình thể hiện
sự phát triển kinh tế công nghiệp của một quốc gia bằng
con đường hội nhập với các nước có nền công nghiệp phát
triển hơn. Ở đó các quốc gia ít phát triển sẽ được dẫn
đường bởi các quốc gia phát triển hơn”.
2.2. Các phiên bản của mô hình Đàn ngỗng bay
Nguyên gốc mô hình này được Akamatsu Kaname đưa
ra, sau đó Kojima Kiyoshi và Okita Saburo - hai nhà kinh
tế học - phát triển thành ba phiên bản, gồm: (1) một nước
24 Lê Thị Phương Loan, Lê Phương Mỹ Hiền
một sản phẩm, (2) một nước nhiều sản phẩm và (3) phiên
bản nhiều nước. Trong đó, phiên bản cuối cùng là phiên
bản được sử dụng nhằm miêu tả sự hội nhập của các quốc
gia trong khu vực.
Phiên bản (1): là phiên bản nguyên gốc được
Akamatsu Kaname đưa ra bằng việc quan sát sự phát triển
của ngành dệt tại Nhật như đã nêu ở phần trên. Phiên bản
này tập trung vào sự phát triển công nghiệp bằng cách tập
trung toàn lực phát triển một sản phẩm mũi nhọn duy nhất
để sau đó cả ngành công nghiệp sẽ “cất cánh” theo. Trong
phiên bản này, Akamatsu không lý giải tại sao có mô hình
này. Kojima2 đã dựa trên lý luận Héccher-ohlin để giải
thích lý do là vì sao sau một thời gian dài kinh doanh bằng
nhập khẩu thì doanh nghiệp sẽ tích luỹ đủ vốn để tự sản
xuất và sau khi tích luỹ đủ sản lượng cũng như kinh nghiệm
thì có thể xuất khẩu được.
Phiên bản (2): Một nước – nhiều sản phẩm
Phiên bản này mô tả một nước đang phát triển có thể
phát triển những ngành sơ khai rồi phát triển những ngành
phức tạp, từ những loại hàng tiêu dùng không bền đến hàng
tiêu dùng lâu bền và vật liệu sử dụng trong sản xuất. Nghĩa
là, các nước đang phát triển, vì cơ sở vật chất hạ tầng và
thượng tầng đều không đủ khả năng đáp ứng, nên phát triển
sản xuất những sản phẩm không đòi hỏi sự phức tạp trước
rồi sau đó phát triển dần lên, ví dụ như phát triển ngành
may mặc trước khi phát triển ngành dệt, phát triển ngành
lắp ráp, sản xuất ô-tô, tàu biển trước rồi mới đến ngành
luyện kim. Cứ như vậy, khi ngành này bắt đầu suy thoái thì
ngành kia có thể thay thế làm mặt hàng sản xuất chủ đạo.
Phiên bản (3): Nhiều nước
Phiên bản này miêu tả sự bắt kịp của một nước với các
nước khác trong khu vực. Ví dụ, khi một ngành công
nghiệp của Nhật Bản đang ở giai đoạn gia tăng xuất khẩu
thì các nước Hàn Quốc, Đài Loan,... sẽ nhập khẩu sản phẩm
đó. Theo thời gian, xuất khẩu của ngành này ở Nhật đạt tới
đỉnh và bắt đầu giảm xuất khẩu là lúc các nước khác đẩy
mạnh tự sản xuất thay thế nhập khẩu. Khi lợi thế cạnh tranh
của Nhật không còn vì các nước đẩy mạnh xuất khẩu thì
Nhật lại có ngành khác thay thế vị trí chủ đạo; cứ như vậy
từ ngành này sang ngành khác, từ Nhật Bản sang các nước
công nghiệp mới [2].
2.3. Giai đoạn phát triển của mô hình Đàn ngỗng bay
Mô hình Đàn ngỗng bay có 4 giai đoạn phát triển:
Hình 1. Sự phát triển của mô hình “đàn ngỗng bay”
Giai đoạn 1: Nhập khẩu
Trong giai đoạn này, các quốc gia đang phát triển sẽ
nhập khẩu một số loại hàng hoá từ các nước phát triển hơn
2 Kyoshi Kojima (1920-2010) giáo sư danh dự của đại học Hitotsubashi, là người có đóng góp lớn trong việc phát triển mô hình Đàn ngỗng bay.
nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Ban đầu, các
loại sản phẩm được nhập khẩu chủ yếu là nhu yếu phẩm,
các mặt hàng tiêu dùng có tuổi thọ ngắn hạn, trong trường
hợp của Nhật Bản là đường trắng, thuốc lá, đồng hồ, đĩa
thuỷ tinh, xà phòng.
Giai đoạn 2: Nội địa hoá sản xuất
Dần dần, vì mục đích lợi nhuận, và cũng vì đã tích luỹ
đủ vốn, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng tự sản xuất. Đầu
tiên là nhập khẩu máy móc chuyên dụng, đào tạo nhân
công, sản xuất nguyên vật liệu phụ trợ, v.v. Sự du nhập
công nghiệp sản xuất hàng loạt sẽ dần thay thế ngành sản
xuất thô sơ trong nước. Người lao động thủ công trong
nước có thể sẽ rơi vào tình trạng thất nghiệp và đói nghèo,
nền kinh tế có thể suy giảm gây khó khăn đáng kể cho
người lao động.
Giai đoạn 3: Sản xuất công nghiệp nội địa có đủ khả
năng đáp ứng nhu cầu
Lúc này, những người lao động thủ công, vì lý do kiếm
sống, phải thích ứng với nền công nghiệp mới. Họ sẽ tham
gia vào các công xưởng để nâng cao tay nghề. Ngành công
nghiệp sản xuất nội địa, sau khi tiếp thu công nghệ từ nước
ngoài, bắt đầu hoàn thiện, sản lượng và chất lượng có thể
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước. Chỉ
số nhập khẩu hàng hoá bắt đầu giảm dần.
Giai đoạn 4: Xuất khẩu
Khi việc sản xuất và tiêu thụ tại thị trường trong nước
đã ổn định, sản lượng sản xuất bắt đầu dư thừa thì doanh
nghiệp có xu hướng xuất khẩu ra các nước trong và ngoài
khu vực. Đồng thời, để có thể tối đa hoá lợi nhuận và đáp
ứng được tiêu chuẩn hàng hoá của từng nước, doanh nghiệp
phải nâng cao công nghệ sản xuất của mình. Nhờ vậy, nền
công nghiệp của đất nước sẽ trưởng thành hơn so với trước.
Đất nước sẽ trở thành nước phát triển hơn. Nói cách khác,
thông qua quá trình này, nền kinh tế công nghiệp với những
ngành kinh doanh không hiệu quả sẽ bị loại bỏ, thay vào
đó là những ngành khác mang lại lợi nhuận cao hơn, phát
triển bền vững hơn [3].
2.4. Các đặc trưng của mô hình Đàn ngỗng bay
2.4.1. Cấu trúc
Điểm đáng chú ý đầu tiên của mô hình phát triển này
nằm ở tính trật tự: các đối tượng tham gia vào mô hình này
không có vị thế ngang bằng nhau mà được chia thành 2
nhóm chính: Nhóm quốc gia dẫn đầu (leading countries) và
nhóm quốc gia chậm phát triển hơn (follower countries).
Vị trí quốc gia được xếp dựa theo mức độ tiên tiến của nền
kinh tế/công nghiệp của nước đó. Nhóm nước dẫn đầu là
một hoặc nhóm nước có nền công nghiệp phát triển nhất.
Sau đó là các nước kém phát triển hơn ở hàng thứ nhất.
Hàng thứ ba là những nước có nền công nghiệp kém phát
triển hơn các nước ở hàng thứ hai. Những nước càng có
nền kinh tế công nghiệp cải thiện tích cực sẽ càng tiến gần
về nhóm dẫn đầu. Ngoài ra, cần lưu ý một nhóm nước,
được gọi là các quốc gia mới phát triển, là những quốc gia
ở nhóm nước thứ hai, nhưng lại có sự phát triển vượt bậc
so với các quốc gia còn lại. Có thể kể đến Hàn Quốc hay
Singapore là những ví dụ điển hình cho nhóm nước này. Vị
Nhập
khẩu
Nội địa hóa
sản xuất
Sản xuất công nghiệp nội
địa đạt yêu cầu
Xuất khẩu
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(119).2017 25
trí của các “con ngỗng” trong đàn không cố định trong bất
kỳ thời điểm nào, nên mối quan hệ giữa chúng cũng sẽ theo
đó mà thay đổi theo thời gian. Những con ngỗng đầu đàn
cũng sẽ có lúc mỏi cánh và rơi lại phía sau, những con
ngỗng trẻ sẽ vươn lên phía trước để thay thế. Tương tự như
vậy, sau một quá trình đủ dài, các nước dẫn đầu có thể lâm
vào tình cảnh suy thoái kinh tế và bị tụt hậu, vị trí của nó
có thể được thay thế bởi một trong những nước theo sau,
điều này khiến trật tự của mô hình luôn biến đổi.
2.4.2. Tính thống nhất về định hướng phát triển
Đặc trưng thứ hai của mô hình này là tính thống nhất
trong định hướng phát triển. Tuy vị trí của các quốc gia trong
mô hình có thể không cố định nhưng định hướng phát triển
là thống nhất và không thay đổi. Các nước trong trật tự này
đều là những nước có thiên hướng phát triển kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá. Mô hình “đàn ngỗng bay” không
tập trung vào sự khác biệt về ý thức hệ của quốc gia thành
viên, mà chỉ tập trung vào quá trình phát triển kinh tế thông
qua việc từng bước cải thiện quá trình công nghiệp hóa để
phát triển. Như vậy, sẽ có rất nhiều quốc gia, với văn hóa,
lịch sử khác nhau, có thể cùng tham gia vào mô hình này.
Tuy vị trí đứng của các quốc gia có thể khác nhau theo từng
thời điểm, có một điều không thay đổi: giống như đàn ngỗng
luôn hướng về phương Nam tránh rét, hướng phát triển của
các quốc gia này đều lấy công nghiệp là trụ cột.
3. Ảnh hưởng của mô hình “đàn ngỗng bay” đối với
việc hình thành chiến lược hợp tác khu vực châu Á –
Thái Bình Dương
3.1. Thiết lập mô hình đàn ngỗng tại khu vực châu Á giai
đoạn 1996-2016
Từ những năm 1950-1960, khi quan hệ giữa Nhật Bản
và các các nước châu Á được tăng cường, mô hình “Đàn
ngỗng bay” cũng vì thế mà thu hút nhiều sự quan tâm
nghiên cứu. Nhà kinh tế học Okita Saburo là một trong
những người ủng hộ việc áp dụng mô hình này vào sự phát
triển quan hệ của Nhật Bản với các nước châu Á. Cụ thể,
điều này được thể hiện thông qua các chỉ tiêu phát triển
kinh tế trong nước cũng như đầu tư và mậu dịch với các
nước trong khu vực. Theo thống kê của JETRO (Tổ chức
Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản), từ năm 1996 - 2016 (Hình
2), vốn đầu tư phát triển trực tiếp (FDI) của Nhật Bản luôn
dao động từ 30-40% tổng vốn đầu tư tại các nước trong khu
vực châu Á. Năm 1996, FDI của Nhật dao động từ 28%
đến 30%. Từ năm 1998 - 2004, Nhật Bản lún sâu vào khủng
hoảng tài chính năm 1997 nên mức FDI giảm mạnh trong
giai đoạn này, con số này chỉ bắt đầu khởi sắc trở lại từ năm
2004 - 2016, Nhật Bản vẫn duy trì mức khá ổn định đối với
các nước trong khu vực.
Hình 2. Thống kê FDI của Nhật Bản tại các nước châu Á từ năm 1996-2016 (Nguồn: JETRO)
Năm 2014, mức FDI chạm ngưỡng 30% trở lại sau một
quãng thời gian dài chỉ duy trì ở mức trên dưới 25%. Sang
năm 2015 và 2016, FDI lại giảm nhẹ, nguyên nhân đến từ
việc tranh chấp vùng biển đảo với Trung Quốc.
Trong quan hệ ngoại giao với các nước khu vực, Nhật
Bản luôn dành sự chú trọng đặc biệt đối với các quốc gia
Đông Nam Á. Học thuyết Fukuda (1977) khẳng định ba
điểm chính: (1) Nhật Bản sẽ không trở thành cường quốc
quân sự; (2) Xây dựng lòng tin trên mọi lĩnh vực; và (3)
Tăng cường quan hệ với các nước thành viên ASEAN [5].
Thủ tướng Nhật Bản Miyazawa trong chuyến thăm chính
thức các nước ASEAN tháng 1/1993 đã tuyên bố:
“... trên cơ sở một tầm nhìn lâu dài về an ninh Đông
Nam Á, Nhật Bản chủ trương cùng các nước trong khu
vực tập trung hợp tác ổn định tình hình khu vực, thiết lập
trật tự an ninh và bảo vệ hoà bình ở khu vực... Nhật Bản
kêu gọi hợp tác, phối hợp chặt chẽ với ASEAN nhằm tái
thiết Đông Dương, xác lập Diễn đàn phát triển toàn diện
Đông Dương” [7].
Đến năm 1997, Thủ tướng Nhật Bản, ông Hashimoto
một lần nữa khẳng định việc coi trọng ASEAN trong bài
phát biểu trong chuyến viếng thăm 5 nước thuộc khu vực
này từ ngày 07 - 14/01/1997 [8]. Nội dung điều chỉnh lần
này cho thấy Nhật Bản muốn thông qua hợp tác với
ASEAN để có thể nâng cao hơn nữa vai trò chính trị của
mình trong khu vực. Tokyo cũng khẳng định việc coi Đông
Nam Á là một đối tác quan trọng về chính trị ở khu vực.
Tuy rằng giai đoạn từ 1998 trở đi, Nhật Bản vẫn còn khó
khăn do phải đối mặt với suy thoái kinh tế nhưng vẫn tích
cực đóng góp và hỗ trợ lớn cho các nền kinh tế khu vực
Đông Nam Á và khắc phục được cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ năm 1997.
Hình 3. Vốn FDI phân bổ theo vùng từ năm 1996-2016 (Nguồn: JETRO)
0.0%
50.0%
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
THỐNG KÊ FDI CỦA NHẬT BẢN TẠI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC CHÂU Á TỪ NĂM
1996-2016
0%
50%
100%
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
NIES
ASEAN
26 Lê Thị Phương Loan, Lê Phương Mỹ Hiền
Theo thống kê của JETRO, FDI của Nhật trong 20 năm
qua tập trung chủ yếu ở khu vực Đông Nam Á gồm năm
nước Thái Lan, Philippines, Indonesia, Malaysia (hay còn
gọi là ASEAN4) và Việt Nam, chiếm từ 40-60% trên tổng
FDI tại châu Á (Hình 3). Chính sách đối ngoại khu vực của
Nhật Bản có thể thay đổi theo giai đoạn, tuy nhiên có một
điều không thay đổi, là Nhật Bản luôn coi trọng việc mở
rộng tầm ảnh hưởng của mình với các nước Đông Nam Á.
Bằng việc phân bổ FDI, trong 20 năm qua Nhật Bản vẫn
luôn đóng vai trò chủ lực tại châu Á, góp phần lan tỏa sức
ảnh hưởng của mình lên sự phát triển các nước trong khu
vực. Theo lý thuyết, mô hình “đàn ngỗng bay” tập trung
vào phát triển công nghiệp, và trên thực tế, dòng vốn FDI
từ Nhật vào các nước châu Á cũng tập trung vào phát triển
các ngành công nghiệp (Bảng 1).
Bảng 1. Thống kê vốn FDI của Nhật Bản phân bổ theo ngành (Nguồn: JETRO)
Đơn vị: triệu đô-la Mỹ
Ngành 1996-2000 2001-2005 2005-2010 2011-2013
Nông nghiệp 146 64 129 170
Công nghiệp sản xuất 21.196 16.853 33.961 49.652
Tài chính 10.900 10.347 20.369 20.037
Bất động sản, cho thuê, và hoạt động kinh doanh khác 3.447 583 -98 0.0
Thống kê của JETRO từ năm 1996-2013 cho thấy,
con số FDI ở các lĩnh vực thuộc công nghiệp sản xuất
như luyện kim, may mặc, dệt, cơ khí cao hơn các lĩnh
vực khác rất nhiều. Từ năm 1996 - 2013, thống kê bình
quân 5 năm mức đầu tư FDI của Nhật Bản cho thấy mức
đầu tư vào công nghiệp chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn các
ngành khác. Trong khi mức đầu tư vào nông nghiệp chỉ
chiếm tầm dưới 200 triệu đô-la Mỹ thì mức đầu tư vào
công nghiệp dao động từ khoảng từ 20 đến 50 tỷ đô-la
Mỹ, cao gấp đôi so với lĩnh vực tài chính. Trên thực tế,
cùng với việc tăng vốn FDI, Nhật Bản đã thiết lập mô
hình “đàn ngỗng bay” tại khu vực và đã có những ảnh
hưởng lớn trong thập niên 90 của thế kỷ XX. Nhờ vào
sự đầu tư và hỗ trợ từ Nhật, các nước phát triển tại khu
vực châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng đã đạt
những phát triển đáng kể, trong đó bao gồm cả Việt
Nam, và Nhật Bản cũng vì thế mà đóng vai trò là một
đối tác quan trọng trong quan hệ quốc tế tại khu vực.
3.2. Trung Quốc – sự xuất hiện của con chim đầu đàn
mới
Một trong những đặc trưng của mô hình “đàn ngỗng
bay” là tính trật tự về vị trí của thành viên trong đàn.
Những con chim đầu đàn – những nước trong nhóm dẫn
đầu không phải lúc nào cũng có thể duy trì vị trí của
mình: khi một nước dẫn đầu dần mất đi sức lực của mình
thì sẽ có nước phát triển khác thay thế. Trong trường hợp
này là sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng việc dịch chuyển
sang chính sách mở cửa thị trường, nắm bắt cơ hội trong
bối cảnh thị trường công nghệ thông tin ngày càng sôi
động. Không chỉ nhận gia công, tập trung lợi thế về nhân
công giá rẻ mà còn đầu tư vào sản xuất linh kiện điện tử
với giá thành rẻ hơn đã tạo ra lợi thế cạnh tranh siêu
khủng cho nền kinh tế Trung Quốc. Không chỉ phát triển
kinh tế, Trung Quốc còn nâng cao tầm ảnh hưởng của
mình đối với các nước khác, thể hiện bằng sự cạnh tranh
đối đầu với Nhật Bản. Từ những năm đầu của thế kỷ
XXI, Trung Quốc và Nhật Bản đã có thái độ đối đầu về
ngoại giao trong khu vực, bắt đầu với sự kiện viếng thăm
đền Yasukuni - Ngôi đền thờ hơn 2,5 triệu tử sĩ Nhật
Bản (gồm cả những người đã tham gia lực lượng phát
xít và 14 tội phạm chiến tranh loại A trong Thế chiến
II). Vì Trung Quốc và Hàn Quốc luôn coi ngôi đền này
là biểu tượng của chiến tranh, họ không ủng hộ việc lãnh
đạo Nhật Bản đến viếng đền. Cụ thể, vì họ cho rằng đây
là hành động đề cao tội ác chiến tranh và Nhật Bản
không thẳng thắn thừa nhận sự tàn bạo của mình trong
quá khứ, việc lãnh đạo Nhật viếng thăm ngôi đền này
luôn gây nên làn sóng phẫn nộ đối với Bắc Kinh và
Seoul, ngay cả Nhật Hoàng cũng đã từ bỏ việc công khai
viếng thăm ngôi đền này. Điểm đáng lưu ý là mặc dù
ông Junichiro Koizumi tới thăm đền này đều đặn từ lúc
ông được bầu làm thủ tướng năm 2001, ông đã không
tham gia nhiều sự kiện kỷ niệm 30 năm bình thường hóa
quan hệ Nhật-Trung. Ông cũng không hề thay đổi quan
điểm ngay cả sau khi các cuộc biểu tình lớn ở nhiều nơi
nổ ra tại Trung Quốc. Việc tranh chấp quần đảo Senkaku
(Điếu Ngư) năm 2012 cũng khiến quan hệ của hai nước
trở nên không mấy tốt đẹp.
Từ năm 2008, khi vai trò của Nhật tại châu Á có phần
suy giảm do ảnh hưởng từ chính sách ngoại giao hướng
về phương Tây, và ảnh hưởng từ cuộc suy thoái kinh tế
thì người ta lại chứng kiến sự trỗi dậy đáng chú ý của
Trung Quốc tại chính trường châu Á. Trung Quốc không
chỉ có thái độ hung hăng trong tranh chấp biển đảo tại
biển Đông, mà còn có những động thái phô trương tiềm
lực kinh tế với các nước châu Á. Ngay thời điểm tháng
9/2009, tân thủ tướng Nhật lúc này là ông Hatoyama, đã
khẳng định việc “quay lại châu Á” trong cuộc gặp gỡ với
chủ tịch Trung Quốc tại New York, Mỹ [6]. Từ sau thời
điểm đó cả hai quốc gia đều có động thái tăng vốn đầu
tư kinh tế vào các quốc gia thành viên ASEAN. Theo
thống kê từ Ban Thư ký ASEAN (Bảng 2), tính đến năm
2014, Nhật Bản vẫn là nước có mức vốn FDI vào
ASEAN cao nhất và Trung Quốc đứng thứ 2. Nhưng từ
sau năm 2008, Trung Quốc đã có động thái đẩy mạnh
vốn đầu tư vào khu vực. Mức FDI mà Trung Quốc đầu
tư vào ASEAN năm 2009 cao gấp 2,5 lần so với năm
trước đó, những năm tiếp theo con số này vẫn tiếp tục
tăng theo cấp số nhân, chỉ giảm nhẹ vào năm 2012
(nguyên nhân xuất phát từ những căng thẳng về tranh
chấp biển đảo với các quốc gia ASEAN), trước khi tiếp
tục tăng vào năm 2013.
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(119).2017 27
Bảng 2. Bảng thống kê vốn đầu tư phát triển của các nước vào khu vực ASEAN từ năm 2004-2014
Cũng theo báo cáo của Diễn đàn khu vực ASEAN
(ARF), năm 2013, Trung Quốc đã tuyên bố kế hoạch thành
lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á và việc theo
đuổi kế hoạch phát triển hạ tầng khu vực, còn gọi là chiến
lược Con đường tơ lụa mới (New silk road) hay Một vành
đai, Một con đường (One belt, one road), đã cho thấy tham
vọng muốn dẫn đầu của Trung Quốc tại khu vực cũng như
làm dấy lên sự quan ngại của Nhật về vị thế của Trung
Quốc tại khu vực mà Nhật luôn coi là chiến lược.
4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Với chủ trương phát triển nền kinh tế theo hướng “công
nghiệp hoá, hiện đại hoá”, từ năm 2011 đến nay, nền công
nghiệp của Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực.
Cụ thể, theo báo cáo của Tổng cục Thống kê “Khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 9,64%, cao hơn nhiều mức tăng
6,42% của năm trước, đóng góp 3,20 điểm phần trăm,
trong đó ngành công nghiệp tăng 9,39% so với năm trước
(công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,60%); ngành xây
dựng tăng 10,82%, đây là mức tăng cao nhất kể từ 2010’’.
Về năng suất lao động (NSLĐ) của toàn nền kinh tế năm
2015, trong Báo cáo tóm tắt NSLĐ Việt Nam: Thực trạng
và Giải pháp, theo giá hiện hành ước tính đạt 79,3 triệu
đồng/lao động (tương đương khoảng 3.657 USD/lao động),
tăng 6,4% so với năm 2014, bình quân giai đoạn 2006-2015
tăng 3,9%/năm [10]. Có thể thấy, cùng với quá trình đổi
mới và phát triển kinh tế, NSLĐ của Việt Nam đã có sự cải
thiện đáng kể, theo hướng tăng đều qua các năm. Tuy
nhiên, tốc độ tăng trưởng và NSLĐ của nước ta hiện vẫn
còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Nếu so với
Trung Quốc và Ấn Độ, NSLĐ của Việt Nam tăng chậm
hơn, dẫn tới sự gia tăng cả về khoảng cách tuyệt đối và
tương đối với hai nước trên. Ngày 31/5/2017, theo đánh giá
của Thứ trưởng Bộ Công thương Cao Quốc Hưng, tại Hội
thảo “Kế hoạch cơ cấu lại ngành công nghiệp Việt Nam
2017-2020 hướng tới tăng trưởng nhanh và bền vững”, tốc
độ tăng trưởng của ngành công nghiệp đang có xu hướng
chậm lại, từ trung bình 14,3%/năm của giai đoạn 2006 -
2010 giảm xuống 10%/năm trong giai đoạn 2011 - 2015 và
giảm hầu hết trong các nhóm ngành công nghiệp; tốc độ
tăng NSLĐ của ngành công nghiệp giai đoạn 2006 - 2015
khoảng 2,4%/năm, chậm hơn tốc độ tăng bình quân chung
của nền kinh tế là 3,9%. NSLĐ của Nhật Bản cao gấp 39
lần, Singapore cao gấp 26 lần, Hàn Quốc cao gấp 16 lần và
Trung Quốc cao gấp 2 lần so với NSLĐ của Việt Nam. So
với các nước đang phát triển thành viên ASEAN thì
Malaysia cao gấp 6,5 lần, Thái Lan và Philippines cao gấp
1,5 lần NSLĐ của Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng giá trị gia
tăng trong công nghiệp thấp, tỷ trọng giá trị gia tăng ngành
công nghiệp trong GDP giảm từ 32% năm 2010 xuống còn
khoảng 28% năm 2015. Hiện Việt Nam đứng thứ 101 trên
tổng số 143 nước về chỉ số giá trị gia tăng trong ngành công
nghiệp chế biến chế tạo theo bình quân đầu người [4].
Câu chuyện “Việt Nam với 22.000 thạc sỹ và tiến sỹ mỗi
năm nhưng vẫn không sản xuất nổi một chiếc ốc vít” [11] đã
gây nhiều tranh cãi về sự tụt hậu của ngành công nghiệp
trong nước, khi chỉ tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng mà bỏ
qua yếu tố công nghệ cũng như chất lượng nguồn nhân lực.
Trong bối cảnh như vậy, mô hình “đàn ngỗng bay” sẽ là một
giải pháp thích hợp không chỉ để cải thiện ngành công
nghiệp, tạo thêm việc làm và phát triển kinh tế bền vững, mà
Việt Nam cũng có thể áp dụng mô hình này trong chính sách
bang giao với khu vực. Hiện ở Trung Quốc, nhân công dưới
25 tuổi chiếm đa số tại các xưởng, nhà máy công nghiệp, tuy
nhiên, chính sách “Một con” năm 1979 đã gây ra tình trạng
thiếu hụt nhân công trẻ trong những năm gần đây [9]. Điều
này dẫn đến sự gia tăng mức lương một cách nhanh chóng,
đặc biệt ở những tỉnh như Quảng Đông. Ngoài ra, vì thiếu
hụt lao động, các doanh nghiệp sản xuất phải thu nhận lao
động có tay nghề không cao tại các tỉnh vùng sâu, vùng xa
đến để làm việc. Đây là cơ hội tạo ra lợi thế cạnh tranh cho
Việt Nam - được đánh giá là một trong những quốc gia có
dân số trẻ và có mức chi phí sống thấp hơn. Nâng cao tay
nghề cho lao động và đầu tư vào công nghệ thiết bị và máy
móc trong giai đoạn này sẽ giúp nền công nghiệp Việt Nam
tạo ra được các sản phẩm gia công có mức giá thấp hơn với
chất lượng cao hơn, tạo ra lợi thế cạnh tranh. Sau quá trình
gia công, tiếp thu các công nghệ từ các nước phát triển, Việt
Nam hoàn toàn có thể khẳng định thương hiệu ở lĩnh vực sản
xuất linh kiện điện tử cũng như ngành hàng dệt, may mặc
như cách mà Trung Quốc đã tiếp cận mô hình “đàn ngỗng
bay” để hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và đạt được sự
phát triển vượt bậc. Ngoài ra, Việt Nam nên chú trọng đến
ngành công nghiệp chế biến thực phẩm. Nhu cầu tiêu thụ các
mặt hàng đồ ăn, nước uống đóng chai tại thị trường trong
nước đang ngày càng nâng cao do thu nhập người dân được
cải thiện; tuy nhiên, các mặt hàng nhập khẩu vẫn đang chiếm
được phần lớn thiện cảm của người tiêu dùng. Các doanh
nghiệp trong nước nên cải thiện chất lượng cũng như bao bì
đóng gói để đáp ứng nhu cầu nội địa sau đó tiến hành xuất
khẩu. Các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, luyện kim
như tôn Hoa Sen, thép Nhân Luật, v.v đều là những doanh
28 Lê Thị Phương Loan, Lê Phương Mỹ Hiền
nghiệp đủ sức thích ứng với công nghệ sản xuất công nghiệp
của các nước tiên tiến. Thay vì lãng phí thời gian và nguồn
nhân lực để sáng tạo ra cái mới, việc kế thừa những thành
quả của các nước đi trước sau đó cải thiện và phát triển vẫn
sẽ tiết kiệm thời gian, chi phí và mang lại nguồn lợi nhuận
đáng kể. Cùng với phát triển kinh tế bằng trụ cột công
nghiệp, mô hình “đàn ngỗng bay” cũng là phương thức hữu
hiệu để Việt Nam hoà nhập sâu hơn vào khu vực, hướng tới
hình ảnh “con chim đầu đàn” của ba nước Đông Dương.
5. Kết luận
Như vậy, bằng cách vận dụng và ủng hộ mô hình “đàn
ngỗng bay” như một phương thức thiết yếu để tiến tới hội
nhập hơn nữa trong khu vực, Nhật Bản đã đóng góp rất lớn
cho sự phát triển cũng như hợp tác kinh tế ở Đông Á. Thực
tế, mạng lưới sản xuất công nghiệp của Nhật Bản không
chỉ trở nên phát triển hơn mà còn có sức ảnh hưởng đáng
kể hơn với các nền kinh tế trong khu vực, hỗ trợ đất nước
này tăng cường hợp tác kinh tế vùng trong những thập kỷ
gần đây. Đây là một mô hình được đánh giá là theo sát bản
chất phát triển của thị trường nên sẽ mang lại sự phát triển
bền vững, ổn định cho các quốc gia, không chỉ trong lĩnh
vực kinh tế mà còn với chính trị trong khu vực. Việt Nam,
với những nỗ lực hướng tới phát triển kinh tế bền vững, cần
nghiêm túc ứng dụng mô hình này vào thực tiễn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Akamatsu Kaname, The Trend of Foreign Trade in
Manufactured Woolen Goods in Japan, Shogyo Keizai
Roniew (Higher Commercial School of Nagoya), 13. July, 1935.
[2] Akamatsu Kaname, Waga Kuni Keizai Hatten no Shuku gooben
shoohoo [The Synthetic Principles of the Economic Development of
our country], Shoogyoo Keizai Ron [Theory of commerce and
Economics], Nagoya, 1932.
[3] Akamatsu Kaname, Waga Kuni sangyo hatten no ganko keitai,
tokuni kikai kigu kogyo nit suite [Types in the development of our
imported countries, with special references to the machine and tools
industries], The Hitotsubashi Ronson, Tokyo, 1956.
[4] Bộ Công Thương Việt Nam, Cơ cấu lại ngành công nghiệp Việt Nam
2017-2020, truy cập ngày 11/10/2017,
<
portlet/html/print_cms.jsp?articleId=1807>
[5] Hoàng Thị Minh Hoa, Từ thuyết Đại Đông Á đến học thuyết Fukuda
của Nhật Bản, Thông báo Khoa học Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà
Nội, 1993.
[6] Nguyễn Hoàng Giáp, “Nhận diện trật tự quyền lực của Đông Á hiện
nay”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 4, 2010.
[7] Phát biểu của Thủ tướng Nhật Miyazawa trong chuyến viếng thăm
các nước ASEAN, tháng 2/1993, tại Bangkok, truy cập ngày
12/7/2017,
thirteenth-meeting-of-the-japan-asean-forum-tokyo-japan-16-17-
february-1993
[8] The Nation, Phát biểu của Thủ tướng Nhật Hashimoto tại Singapore
ngày 14/01/1997, truy cập ngày 12/7/2017,
paci/asean/pmv9701/policy.html
[9] Sách thống kê năm 2015 của ASEAN, truy cập ngày 5/7/2017,
Statistical-Yearbook-2015_small_size.pdf
[10] Tổng cục Thống kê, Thông cáo báo chí về Tình hình Kinh tế - Xã
hội năm 2016, truy cập ngày 12/10/2017,
[11] Vietnamnet điện tử, Cầm bằng Tiến sĩ kỹ sư không làm nổi ốc vít,
lam-noi-oc-vit-268988.html, truy cập ngày 13/7/2017.
(BBT nhận bài: 02/10/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 08/10/2017)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_mo_hinh_phat_trien_dan_ngong_bay_va_bai_hoc_cho_v.pdf