Nghiên cứu mối liên quan giữa một số yếu tố tiên lượng kinh điển với tình trạng thụ thể nội tiết, Ki-67 và her2 trong ung thư vú xâm nhập

Liên quan giữa các yếu tố tiên lượng kinh điển với các dấu ấn hóa mô miễn dịch Khi đánh giá mối tương quan giữa các yếu tố tiên lượng kinh điển trong thư vú là kích thước u, độ mô học, di căn hạch nách và giai đoạn bệnh với các dấu ấn hóa mô miễn dịch là ER, PR, Ki-67 và HER2; chúng tôi chỉ phát hiện mối liên quan có ý nghĩa giữa độ mô học và sự biểu lộ HER2 (p<0,05). Trong khi đó, ở các nghiên cứu của các tác giả khác cũng có những kết quả khác nhau. Nghiên cứu của Tạ Văn Tờ (2004) cũng cho thấy mối liên quan thuận giữa sự biểu lộ HER2 với độ mô học của khối u [8]. Đoàn Phương Thảo (2012) nhận thấy có sự tương quan thuận giữa kích thước u với HER2 và Ki-67, tương quan nghịch với ER; Độ mô học tương quan thuận với Ki-67, HER2, tương quan nghịch với ER và không tương quan với PR; có sự tương quan thuận, mạnh giữa số lượng hạch di căn với chỉ số phân bào Ki-67,HER2 và tương quan nghịch với ER [6]. Nguyễn Phúc Duy Quang (2011) cho thấy độ mô học có mối tương quan nghịch với ER, PR và tương quan thuận với HER2 [5]. Đặng Công Thuận (2008) thấy có mối tương quan có ý nghĩa của độ mô học với ER,PR, và HER2 trong đó tương quan nghịch với ER, PR; tình trạng di căn hạch tương quan thuận với sự biểu lộ HER2 [7]. Tác giả John Alfred Carr (2000) nghiên cứu mối liên quan giữa việc khuếch đại gen HER2 với sự tái phát ung thư vú đã nhận thấy có mối liên quan giữa kích thước khối u với HER2. Tác giả cũng cho thấy khuyếch đại HER2 liên quan nhiều đến độ mô học khối u. Nghiên cứu của tôi cũng phù hợp với các tác giả khác ở quan điểm có sự tương quan giữa độ mô học với thụ thể HER2. Mối liên quan này có thể giải thích do sự biểu hiện của HER2 thường biểu hiện với tăng mức độ phân bào của tế bào u mà ảnh hưởng lớn nhất là sự đa hình thái của nhân tế bào, là một thành phần cấu thành của độ mô học.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 37 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu mối liên quan giữa một số yếu tố tiên lượng kinh điển với tình trạng thụ thể nội tiết, Ki-67 và her2 trong ung thư vú xâm nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
70 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 1 - tháng 2/2017 JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY - Địa chỉ liên hệ: Đặng Công Thuận, email: thuandangcong@gmail.com - Ngày nhận bài: 10/8/2016; Ngày đồng ý đăng: 15/2/2017; Ngày xuất bản: 25/2/2017 NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỘT SỐ YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG KINH ĐIỂN VỚI TÌNH TRẠNG THỤ THỂ NỘI TIẾT, Ki-67 VÀ HER2 TRONG UNG THƯ VÚ XÂM NHẬP Đặng Công Thuận, Phan Thị Thu Thủy, Trần Nam Đông, Ngô Cao Sách, Võ Thị Hồng Vân Bộ môn Giải phẫu bệnh - Pháp Y, Trường Đại học Y Dược Huế Tóm tắt Mục tiêu: Nghiên cứu các đặc điểm giải phẫu bệnh và tình trạng biểu lộ thụ thể nội tiết, Ki-67 và HER2 của các bệnh nhân ung thư vú tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá mối liên quan giữa một số yếu tố tiên lượng kinh điển trong ung thư vú gồm kích thước u, độ mô học, tình trạng di căn hạch và giai đoạn bệnh với sự biểu lộ tình trạng thụ thể nội tiết (ER, PR), Ki-67 và HER2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu thu thập từ 96 bệnh nhân ung thư vú từ 05/2015 đến 4/2016. Các mẫu mô bệnh học được nhuộm H-E và nhuộm hóa mô miễn dịch tại khoa Giải phẫu bệnh, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế. Kết quả: Bệnh nhân ung thư vú thường ở nhóm 50-59 tuổi (39,6%), ung thư biểu mô thể ống xâm nhập (82,3%), kích thước u ≤2cm (54,2%), độ mô học II (60,2%), di căn hạch (53,1%), giai đoạn bệnh II (51%); ER(+) 46,9%, PR (+) 49,0%, Ki-67(+) 77,1%, HER2(+) 30,2%. Kết luận: Có mối tương quan giữa độ mô học và sự biểu lộ HER2 (p<0,05) trong ung thư vú xâm nhập. Từ khóa: ung thư vú xâm nhập, hóa mô miễn dịch, kích thước u, độ mô học, di căn hạch, giai đoạn bệnh Abstract RELATION BETWEEN TRADITIONAL PROGNOSIS FACTORS AND HORMONE RECEPTORS STATUS, Ki-67, HER2 IN INVASIVE BREAST CARCINOMA Dang Cong Thuan, Phan Thi Thu Thuy, Tran Nam Dong, Ngo Cao Sach, Vo Thi Hong Van Hue University of Medicine and Pharmacy Objectives: To examine histopathologic features and hormone receptors status, Ki-67 and HER2 in invasive breast carcinoma at Hue University Hospital to evaluating the relation between tumor size, histological grade, lymph node metastasis status, disease stage and the expression of steroid hormone receptors status, Ki-67 and HER2 in invasive breast carcinoma. Materials and methods: From May 2015 to April 2016, samples were collected from 96 breast carcinoma patients. Histopathologic samples were stained by Hematoxylin-Eosin and immunohistochemistry staining at Pathology Department, Hue University Hospital. Results: Most invasive breast carcinoma patients were among the age of 50-59 (39.6%), invasive ductal carcinoma (82.3%), tumor size ≤2cm (54.2%), histological grade II (60.2%), lymph node metastasis (53.1%), disease stage II (51%); ER(+) 46.9%, PR(+) 49.0%, Ki-67(+) 77.1%, HER2(+) 30.2% of cases. Conclusion: There were a positive correlation between histological grade with the HER2 expression (p<0.05) in invasive breast carcinoma. Key words: invasive breast carcinoma, immunohistochemistry, tumor size, histological grade, lymph node metastasis, disease stage 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất và là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong do ung thư ở phụ nữ trên toàn thế giới. Năm 2008, theo điều tra của Cơ quan Quốc tế nghiên cứu về ung thư (IARC), ung thư vú đứng hàng thứ hai trong các loại ung thư và là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trong ung thư của phụ nữ ở châu Âu. Ở Hoa Kỳ (2008) ước tính có khoảng 182.460 ca mới mắc và 40.840 phụ nữ chết vì căn bệnh này [15]. Tại Việt Nam, ung thư vú đứng đầu trong các ung thư ở nữ giới. Tỷ lệ mắc ung thư vú tăng lên rõ rệt. Năm 2000, ước tính tỷ lệ mắc là 3,8/100.000 dân, 71 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 1 - tháng 2/2017 JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY có khoảng 5.538 ca mới mắc; đến năm 2010, tỷ lệ này tăng lên là 28,1/100.000 dân, số ca mới mắc là 12.533 ca [1]. Ung thư vú là loại ung thư đã được tập trung khảo sát về mọi mặt liên quan đến nguyên nhân, yếu tố thuận lợi, phương pháp chẩn đoán, tiên lượng và điều trị. Tuy nhiên, những kết quả thu được nhờ chẩn đoán sớm và điều trị vẫn không làm giảm được tỷ lệ mắc bệnh [5]. Ở Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế, hàng năm có hàng trăm phụ nữ đến khám và điều trị bệnh tuyến vú nói chung và ung thư vú nói riêng, là một trong số các bệnh ung thư thường gặp nhất. Bệnh nhân được xét nghiệm mô bệnh học sau mổ, hóa mô miễn dịch xác định tình trạng thụ thể nội tiết (ER, PR), đánh giá sự tăng sản tế bào u bằng Ki-67 và xác định sự biểu lộ protein của gen sinh u HER2 sau phẫu thuật. Để tìm hiểu về mối liên quan giữa các yếu tố tiên lượng kinh điển với sự biểu lộ các đặc điểm hóa mô miễn dịch trong ung thư vú xâm nhập tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế, chúng tôi tiến hành đề tài này với các mục tiêu sau: 1. Xác định các đặc điểm kích thước u, độ mô học, di căn hạch, giai đoạn bệnh và tình trạng thụ thể nội tiết, sự biểu lộ Ki-67, HeR2 ở bệnh nhân ung thư vú xâm nhập 2. Khảo sát mối liên quan giữa các yếu tố tiên lượng kinh điển và sự biểu lộ eR, PR, Ki-67 và HeR2 trong ung thư vú xâm nhập 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Gồm 96 bệnh nhân đến khám và điều trị ung thư vú tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 05 năm 2015 đến tháng 04 năm 2016. 2.2. Phương pháp nghiên cứu - Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. - Tiêu chuẩn chọn bệnh: Các bệnh nhân được chẩn đoán mô bệnh học sau phẫu thuật là ung thư vú xâm nhập. - Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân đã được điều trị bệnh tuyến vú trước đó (phẫu thuật, xạ trị, hóa trị). - Xét nghiệm mô bệnh học và hóa mô miễn dịch: Được thực hiện tại khoa Giải phẫu bệnh, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế. Nhuộm mảnh mô bằng phương pháp nhuộm Hematoxylin-Eosin. Phân loại mô học, độ mô học, giai đoạn bệnh theo Tổ chức Y tế Thế giới 2003. Nhuộm HMMD 4 dấu ấn sinh học ER, PR, Ki-67 và HER2 thực hiện trên máy BenchMark, Ventana dùng bộ kit phát hiện màu Ultra ViewDAB của hãng Roche. Đánh giá sự biểu lộ thụ thể estrogen, progesteron: dựa theo tiêu chuẩn của Allred và nhà sản xuất dựa trên 2 tiêu chuẩn là cường độ và tỷ lệ % tế bào u bắt màu nhuộm. Đánh giá Ki-67 dương tính theo tiêu chuẩn của Carey: <20%: âm tính, ≥20% dương tính. Đánh giá biểu lộ HER2 theo tiêu chuẩn đánh giá ASCO/CAP 2013 [11] như sau: 0 (âm tính): Không có phản ứng; 1+ (âm tính): Nhuộm màng nhạt màu/một phần <10% tế bào u. 2+ (không rõ ràng): Nhuộm màng hoàn toàn từ yếu đến vừa >10% tế bào u. IHC 3+ (dương tính): Bắt màu đậm hoàn toàn màng tế bào >10% tế bào u. HER2 được xác định là dương tính khi IHC 2+ và 3+. - Xử lý số liệu: Số liệu được lưu trữ bằng chương trình Excel và xử lý bằng SPSS 16.0 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Các đặc điểm giải phẫu bệnh và hóa mô miễn dịch 3.1.1. Tuổi mắc bệnh Bảng 1. Phân bố nhóm tuổi mắc bệnh Nhóm tuổi Số lượng Tỷ lệ % <30 0 0 30 – 39 7 7,3 40 – 49 32 33,3 50 – 59 38 39,6 ≥ 60 19 19,8 Tổng cộng 96 100,0 Tuổi mắc bệnh ung thư vú cao nhất là 50-59 tuổi (39,6%). 72 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 1 - tháng 2/2017 JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY 3.1.2. Các đặc điểm giải phẫu bệnh Bảng 2. Các đặc điểm giải phẫu bệnh Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ % Kích thước u ≤ 2cm 52 54,2 >2 - 5 cm 34 35,4 > 5 cm 10 10,4 Loại mô học Thể ống xâm nhập 79 82,3 Thể thùy xâm nhập 12 12,5 Thể nhầy 2 2,1 Dị sản vảy 3 3,1 Tình trạng di căn hạch N0 45 46,9 N1 32 33,3 N2 11 11,5 N3 8 8,3 Độ mô học (83 trường hợp UTBM thể ống xâm nhập) Độ I 5 6,1 Độ II 50 60,2 Độ III 28 33,7 Giai đoạn bệnh sau phẫu thuật I 25 26,0 IIA 39 40,6 IIB 10 10,4 IIIA 22 30 IV 0 0 U có kích thước >2 - 5 cm là thường gặp nhất (35,4%). Thể ống xâm nhập là loại mô học chiếm tỷ lệ cao nhất (82,3%). Tỷ lệ ung thư vú di căn hạch nách cùng bên là 53,1%. Độ mô học II chiếm đa số (60,2%). Giai đoạn IIA là giai đoạn bệnh hay gặp nhất (40,6%). 3.1.3. Các đặc điểm hóa mô miễn dịch * Sự biểu lộ ER và PR Bảng 3. Sự biểu lộ ER, PR Thụ thể nội tiết PR (-) PR (+) Tổng cộng ER(-) n 41 10 51 % 42,7 10,4 53,1 ER (+) n 8 37 45 % 8,3 38,6 46,9 Tổng cộng n 49 47 96 % 51,0 49,0 100,0 Tỷ lệ ung thư vú có ER, PR dương tính lần lượt là 46,9% và 49,0% 73 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 1 - tháng 2/2017 JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY * Sự biểu lộ Ki-67 Bảng 4. Sự biểu lộ Ki-67 Ki-67 Số lượng Tỷ lệ % Âm tính 22 22,9 Dương tính 74 77,1 Tổng cộng 96 100,0 Ki-67 dương tính trong 77,1% các trường hợp. * Sự biểu lộ HER2 Bảng 5. Sự biểu lộ HER2 Thụ thể HER2 Tổng cộng Số lượng Tỷ lệ % Âm tính 0 65 67,7 69,8 1+ 2 2,1 Dương tính 2+ 18 18,8 30,2 3+ 11 11,4 Tổng cộng 96 100,0 100,0 HER2 dương tính trong 30,2% các trường hợp ung thư vú. 3.2. Mối liên quan giữa các yếu tố tiên lượng kinh điển và các dấu ấn miễn dịch 3.2.1. Mối liên quan giữa các dấu ấn miễn dịch Bảng 6. Mối liên quan giữa các dấu ấn miễn dịch ER PR HER2 Ki-67 ER _ r = 0,605 r = - 0,059 r = 0,054 p < 0,0001 p = 0,569 p = 0,602 PR r = 0,605 _ r = - 0,191 r = - 0,061 p < 0,0001 p = 0,063 p = 0,555 HER2 r = - 0,059 r = - 0,191 _ r = 0,089 p = 0,569 p = 0,063 p = 0,389 Ki-67 r = 0,054 r = - 0,061 r = 0,089 _ p = 0,602 p = 0,555 p = 0,389 ER và PR có mối tương quan thuận có ý nghĩa thống kê (p<0,0001) 3.2.2. Mối liên quan giữa các yếu tố tiên lượng kinh điển với các dấu ấn hóa mô miễn dịch Bảng 7. Mối liên quan giữa các yếu tố tiên lượng kinh điển với các dấu ấn hóa mô miễn dịch ER PR HER2 Ki-67 Kích thước u p = 0,219 p = 0,761 p = 0,615 p = 0,460 Độ mô học p = 0,281 p = 0,366 p = 0,015 p = 0,809 Di căn hạch p = 0,51 p = 0,426 p = 0,794 p = 0,528 Giai đoạn bệnh p = 0,457 p = 0,453 p = 0,819 p = 0,935 Độ mô học tương quan có ý nghĩa với sự biểu lộ HER2 (p=0,015). 74 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 1 - tháng 2/2017 JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY 4.BÀN LUẬN 4.1. Các đặc điểm giải phẫu bệnh và hóa mô miễn dịch 4.1.1. Tuổi phát hiện bệnh Kết quả nghiên cứu cho thấy bệnh nhân mắc bệnh ung thư vú xâm nhập trẻ nhất là 31 tuổi, bệnh nhân lớn tuổi nhất là 81 tuổi. Tuổi phát hiện trung bình là 52,37 tuổi. Hai nhóm tuổi phát hiện cao nhất là 50 - 59 tuổi (39,6%) và 40 - 49 tuổi (33,3%). Tuy nhiên, khi so sánh với các tác giả nước ngoài thì tuổi phát hiện bệnh trung bình cao hơn hẳn. Hai tác giả Spitale [19] và Adedayo [12] đều cho độ tuổi trung bình mắc bệnh là 62,7 tuổi. Ngoài những lý do khác biệt về môi trường, lối sống, chủng tộc thì sự khác biệt này có thể do đặc điểm sinh học khác biệt của phụ nữ Việt Nam cũng như có thể là do nhiều cơ chế sinh ung thư chuyên biệt khác mà chúng ta cần nghiên cứu sâu hơn. 4.1.2. Kích thước u Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 54,2% u có đường kính £ 2 cm, 34,5% u >2-5cm, 10,4% u > 5cm. Kích thước u nhỏ nhất đo được khi phẫu tích là 0,6 cm, lớn nhất là 14 cm. Kích thước u trung bình là 3,02 cm. So sánh kết quả của Đặng Công Thuận [7] và Nguyễn Phúc Duy Quang [5] cho thấy nhóm u có kích thước từ >2 -5 cm chiếm đa số. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của các tác giả Adedayo [12] và Spitale [19] thì tỷ lệ u ≤ 2cm chiếm tỷ lệ cao nhất tương tự nghiên cứu này. Kích thước u có ý nghĩa quan trọng để đánh giá giai đoạn bệnh, liên quan đến di căn hạch nách và là một yếu tố tiên lượng độc lập quan trọng. Kích thước u nguyên phát càng lớn, nguy cơ di căn hạch càng cao, đặc biệt là dễ cho di căn xa. 4.1.3. Loại mô học Ung thư biểu mô ống xâm nhập kinh điển chiếm tỷ lệ cao nhất là 82,3%, sau đó là ung thư biểu mô thể tiểu thùy xâm nhập (12,5%). Các loại khác chiếm tỷ lệ thấp. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác trong nước [5], [6], [8]. 4.1.4. Tình trạng di căn hạch nách Trong nghiên cứu này, tỷ lệ di căn hạch nách chiếm 53,1%. Tỷ lệ di căn hạch nách trong nghiên cứu của tôi ctương tự kết quả nghiên cứu của các tác giả trong nước như Tạ Văn Tờ (52,8%) [8], Đoàn Thị Phương Thảo (43,3%) [6], Hứa Chí Minh (55,7%) [4] và Đặng Công Thuận (59,1%) [7]. Tuy nhiên, tỷ lệ này cao hơn nhiều so với của các tác giả nước ngoài như Jos A van der Hage (37%) [17], Spitale (37,1%) [19], Adedayo (33,5%) [12]. Điều này có thể được giải thích qua việc tầm soát phát hiện ung thư vú giai đoạn sớm ở các nước Châu Âu có hiệu quả hơn ở nước ta. Việc ghi nhận tình trạng di căn hạch là một trong những tiêu chí quan trọng hàng đầu bởi vì nó là yếu tố tiên lượng có ý nghĩa nhất liên quan đến tỷ lệ tái phát và thời gian sống thêm của bệnh nhân, hơn nữa hạch di căn còn là yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn lựa phương thức điều trị. 4.1.5. Độ mô học Ung thư vú có độ mô học II trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm tỷ lệ cao nhất là 60,2%, độ mô học III chiếm 33,7%, độ mô học I thấp nhất chiếm 6,1 %. Nhìn chung, các tác giả trong nước đều đưa ra kết quả là độ mô học II chiếm đa số, phù hợp với kết quả của nghiên cứu này. Tuy nhiên, theo các tác giả nước ngoài thì độ mô học III chiếm đa số. Điều này có thể giải thích là do sự khác biệt về đặc tính sinh học của nhóm bệnh nhân được nghiên cứu và khi đánh giá các yếu tố trên tiêu bản có sự khác nhau do nhận định chủ quan của mỗi người. Dù cách chia độ như thế nào hoặc đối tượng nghiên cứu khác nhau giữa các tác giả khác nhau nhưng kết quả nghiên cứu đều thống nhất, tỷ lệ sống thêm giảm dần theo độ mô học tăng dần với sự khác biệt rất có ý nghĩa. Tầm quan trọng của độ mô học trong tiên lượng ung thư vú đã được xác định và là thành phần bắt buộc trong chẩn đoán giải phẫu bệnh. 4.1.6. Giai đoạn bệnh sau phẫu thuật Giai đoạn II chiếm đa số với 51% cho cả hai nhóm II, giai đoạn IIIA chiếm 30%, giai đoạn I chỉ ghi nhận được 26% và không có giai đoạn IV. Kết quả này phù hợp với các tác giả trong nước. Nghiên cứu của Gamel [16] và cộng sự năm 1997 khẳng định vai trò của việc xác định giai đoạn bệnh và loại mô học có ý nghĩa trong tiên lượng diễn biến lâm sàng bởi vì điều trị bệnh nhân ở giai đoạn càng sớm khả năng khỏi bệnh càng cao, những bệnh nhân giai đoạn I, II có thời gian sống thêm không bệnh kéo dài hơn, ít tái phát hơn sau điều trị. 4.1.7. Sự biểu lộc của thụ thể Estrogen và Progesteron Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ ung thư vú dương tính với ER là 46,9% và với PR là 49,0%. Kết quả này hơi thấp hơn so với đa số các tác giả trong và ngoài nước. Theo nghiên cứu của Tạ Văn Tờ (2004) cho thấy có 59,1% ER(+), 51,4% PR(+) [8]; Theo Nguyễn Phúc Duy Quang (2011) có 48,6% ER(+), 41,9% PR(+) [5]; Tác giả Nguyễn Thùy Linh (2015) ER(+) là 51,67% và với PR là 45% [3]. Các nghiên cứu của Nishimura (2013) cho kết quả là 74,6% ER(+) và 61,7% PR(+) [18]; Engstrom (2013) tỷ lệ ER(+) lên tới 82,4% và PR(+) 57,3% [15]. Có sự khác biệt này là do: - Cách đánh giá kết quả phản ứng HMMD với ER và PR trong các nghiên cứu có khác nhau. 75 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 1 - tháng 2/2017 JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY - Đối tượng nghiên cứu của các nghiên cứu này cũng không giống nhau. 4.1.9. Sự biểu lộ Ki-67 Trong nghiên cứu này, tỷ lệ dương tính với Ki-67 (77,1%) khá cao so với các tác giả khác trong nước [5], [7], [8]. Ki-67 có liên quan mật thiết với hình thái tăng trưởng tế bào, đặc biệt là chỉ số phân bào và độ mô học của u. Trong ung thư vú sự biểu hiện của Ki67 còn liên quan đến các dấu ấn khác của sự biệt hóa và tiên lượng như estrogen, progesteron, p53. Nói chung trong ung thư vú, Ki67 có tương quan mạnh với độ mô học cao. Tỷ lệ Ki67 dương tính càng cao thì nguy cơ tái phát bệnh càng lớn, thời gian sống còn và sống còn không bệnh càng ngắn [15]. 4.1.10. Sự biểu lộ của HER2 Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho tỷ lệ dương tính với HER2 là 30,2% thấp hơn kết quả nghiên cứu của các tác giả khác trong và ngoài nước như của Tạ Văn Tờ là 35,1% [8]; Hadi là 50,9% [10]; Vũ Hồng Thắng 50% [13]; Nguyễn Phúc Duy Quang là 59% [5]; Đoàn Thị Phương Thảo là 39,2% [6]; Nguyễn Thùy Linh là 45,83% [3]. Kết quả biểu lộ HER2 giữa các tác giả có sự khác biệt như vậy là do thụ thể HER2 là một loại protein thuộc màng tế bào nên dễ bị biến tính trong quá trình xử lý mẫu bệnh phẩm và bị tác động rất lớn bởi dung dịch cố định, thời gian cố định. Ngoài ra đây là xét nghiệm bán định lượng nên tính chủ quan trong đánh giá kết quả có thể dẫn đến kết quả khác nhau. Mặc khác, khác với ER và PR, HER2 ở mô vú được coi là dương tính khi đánh giá tổng cộng từ 2+ đến 3+, sự biểu lộ ở mức 1+ vẫn coi là âm tính. Mặc khác, theo ASCO thì lý do quan trọng nhất của sự khác biệt về tỉ lệ biểu hiện thụ thể HER2 vẫn là do đặc tính sinh học của cộng đồng bệnh nhân ung thư vú được nghiên cứu [11]. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất cách cho điểm giữa các nhà nghiên cứu trong nước cũng như nước ngoài, vì vậy việc đánh giá dương tính hay âm tính phải được xem xét cẩn thận, và trong trường hợp không nhận định được chắc chắn ở mức 2+ thì khuyến cáo nên làm kỹ thuật lai tại chỗ (ISH) để xác định có khuếch đại gen hay không. Đây là những phương pháp xét nghiệm đã được FDA đã chấp thuận dùng cho khảo sát HER2, các phòng xét nghiệm chẩn đoán giải phẫu bệnh có thể thực hiện được và đặc biệt là xác định được chính xác tình trạng gen HER2 trên tế bào ung thư xâm lấn. 4.2. Liên quan giữa các yếu tố tiên lượng kinh điển và các dấu ấn hóa mô miễn dịch 4.2.1. Liên quan giữa các dấu ấn hóa mô miễn dịch Kết quả nghiên cứu cho thấy các thụ thể ER, PR có mối tương quan chặt chẽ với nhau (r=0,605; p<0,05) nhưng không tương quan với HER2 và Ki67 (p>0,05). Tác giả Nguyễn Phúc Duy Quang cũng cho kết quả ER và PR có mối tương quan với nhau, nhưng không tương quan với HER2 [5]. Nghiên cứu của Đặng Công Thuận (2008) cho kết quả ER và PR có tương quan với nhau và có tương quan nghịch với HER2 (p<0,05) [7]. Kết quả nghiên cứu này giống với hai tác giả trên ở chỗ ER và PR có tương quan với nhau. 4.2.2. Liên quan giữa các yếu tố tiên lượng kinh điển với các dấu ấn hóa mô miễn dịch Khi đánh giá mối tương quan giữa các yếu tố tiên lượng kinh điển trong thư vú là kích thước u, độ mô học, di căn hạch nách và giai đoạn bệnh với các dấu ấn hóa mô miễn dịch là ER, PR, Ki-67 và HER2; chúng tôi chỉ phát hiện mối liên quan có ý nghĩa giữa độ mô học và sự biểu lộ HER2 (p<0,05). Trong khi đó, ở các nghiên cứu của các tác giả khác cũng có những kết quả khác nhau. Nghiên cứu của Tạ Văn Tờ (2004) cũng cho thấy mối liên quan thuận giữa sự biểu lộ HER2 với độ mô học của khối u [8]. Đoàn Phương Thảo (2012) nhận thấy có sự tương quan thuận giữa kích thước u với HER2 và Ki-67, tương quan nghịch với ER; Độ mô học tương quan thuận với Ki-67, HER2, tương quan nghịch với ER và không tương quan với PR; có sự tương quan thuận, mạnh giữa số lượng hạch di căn với chỉ số phân bào Ki-67,HER2 và tương quan nghịch với ER [6]. Nguyễn Phúc Duy Quang (2011) cho thấy độ mô học có mối tương quan nghịch với ER, PR và tương quan thuận với HER2 [5]. Đặng Công Thuận (2008) thấy có mối tương quan có ý nghĩa của độ mô học với ER,PR, và HER2 trong đó tương quan nghịch với ER, PR; tình trạng di căn hạch tương quan thuận với sự biểu lộ HER2 [7]. Tác giả John Alfred Carr (2000) nghiên cứu mối liên quan giữa việc khuếch đại gen HER2 với sự tái phát ung thư vú đã nhận thấy có mối liên quan giữa kích thước khối u với HER2. Tác giả cũng cho thấy khuyếch đại HER2 liên quan nhiều đến độ mô học khối u. Nghiên cứu của tôi cũng phù hợp với các tác giả khác ở quan điểm có sự tương quan giữa độ mô học với thụ thể HER2. Mối liên quan này có thể giải thích do sự biểu hiện của HER2 thường biểu hiện với tăng mức độ phân bào của tế bào u mà ảnh hưởng lớn nhất là sự đa hình thái của nhân tế bào, là một thành phần cấu thành của độ mô học. 76 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 1 - tháng 2/2017 JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY 5. KẾT LUẬN Nhóm tuổi mắc bệnh ung thư vú xâm nhập cao nhất là 50-59 (39,6%). Kích thước u thường gặp là ≤2cm (54,2%). Loại mô học hầu hết là thể ống xâm nhập (82,3%), độ mô học II (60,2%), đã di căn hạch (53,1%) và ở giai đoạn II (51,0%). ER, PR, Ki-67 và HER2 dương tính ở 46,9%; 49,0%; 77,1% và 30,2%. Có mối tương quan giữa độ mô học và sự biểu lộ HER2 (p<0,05) trong ung thư vú xâm nhập. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Bá Đức, Đặng Thế Căn, Nguyễn Duy Thăng và cs (2009), “Tình hình mắc bệnh ung thư vú ở phụ nữ tại một số tỉnh thành giai đoạn 2001-2007”, Tạp chí Ung thư học Việt Nam, Hội phòng chống ung thư Việt Nam, tr5-11. 2. Nguyễn Văn Chủ (2016), "Nghiên cứu áp dụng phân loại phân tử ung thư biểu mô tuyến vú bằng phương pháp hóa mô miễn dịch", Luận án tiến sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội. 3. Nguyễn Thùy Linh, Nguyễn Thành Chung, Trần Ngọc Dũng, Nguyễn Phi Hùng (2015), “Nghiên cứu phân nhóm phân tử của ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập bằng hóa mô miễn dịch”. Nguồn: vn/vietnamese/bai-bao-y-hoc/nghien-cuu-phan-nhom- phan-tu-cua-ung-thu-bieu-mo-tuyen-vu-ong-xam-nhap- bang-hoa-mo-mien-dich/611/ truy cập ngày 18/4/2016 4. Hứa Chí Minh (2008), “Nghiên cứu độ mô học của ung thư vú xâm nhập”, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, tập 12, phụ bản 1, tr 367-373. 5. Nguyễn Phúc Duy Quang (2011), “Nghiên cứu sự bộc lộ thụ thể ER, PR, HER2 và nồng độ CA15-3 trong ung thư biểu mô tuyến vú xâm nhập”, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược Huế. 6. Đoàn Thị Phương Thảo (2012), "Nghiên cứu gen HER2 và phân nhóm phân tử ung thư vú", Luận án tiến sỹ Y học, Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh. 7. Đặng Công Thuận (2008), Ứng dụng chỉ số Nottingham và một số yếu tố khác trong phân nhóm tiên lượng ung thư biểu mô tuyến vú xâm nhập, Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội. 8. Tạ Văn Tờ (2004), "Nghiên cứu hình thái, hóa mô miễn dịch và giá trị tiên lượng của chúng trong ung thư biểu mô tuyến vú", Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội. 9. Bhargava R. et al (2010), “Immunohistochemical Surrogate Markers of Breast Cancer Molecular Classes Predicts Response to Neoadjusvant Chemotherapy”, Cancer,116: pp.1431-1439. 10. Hadi Y., Lynn C.G., Todd S.B., Robert W (2004), “Testing in Breast Cancer Using Parallel Tissue - Based Methods”, JAMA; 291, pp:1972-1977. 11. Wolff A.C., Hammond M.E., Schwartz J.N., et al (2007), “American Society of Clinical Oncology/College of American Pathologists guideline recommendations for human epidermal growth factor receptor 2 testing in breast cancer”, J Clin Oncol. 25, pp. 118–45. 12. Adedayo A., Jessica M., Robert T., et al. (2009), “Breast Cancer Subtypes Based on ER/PR and HER2 Expression: Comparison of Clinicopathologic Features and Survival”, Clinical Medicine & Research, Volume 7, Number 1-2, pp: 4-13. 13. Thang V.H. (2012), Prognostic and predictive factors in Vietnamese Breast cancer: A comparison with Swedish patients and effect on survival, Karolinska Institutet 1-46. 14. Wilbur D.C.,Willis J., Mooney R.A., Fallon M.A., (1992), “Estrogen and progesterone receptor detection in archival formalin fixed, parafin embedded tissue from breast carcinoma. A comparison of immunohistochemical with dextran coated charcoal assay”, Med Patho, 5, pp.79-84. 15. Engstrom M.J., et al (2013), “Molecular subtypes, histopathological grade and survival in a historic cohort of breast cancer patients”, Breast cancer res treat, 104: 463-473. 16. Gamel JW, Robert LV, (1997), “Comparison Of Parametric And Non-Parametric Survival Methods Using Simulated Clinical Data”, Statistics In Medicine, vol.16, pp. 1629 -1643 17. Hage A. J., Mieog JSD., Cornelis JHV., Putter H., Harry B. and Marc J V (2011), “Impact of established prognostic factors and molecular subtype in very young breast cancer patients: pooled analysis of four EORTC randomized controlled trials”, Breast Cancer Research, 13: R68. 18. Nishimura R. et al (2013), “Ki67 as a prognostic marker according to breast cancer subtype and a predictor of recurrence time in primary breast cancer”, Experimental and Therapeutic Medicine, 1: 747-754. 19. Spitale A., Mazzola P., Soldini D., Mazzucchelli L., Bordoni A. (2009), “Breast cancer classification according to immunohistochemical markers: clinicopathologic features and short-term survival analysis in a population- based study from the South of Switzerland”, Annals of Oncology 20: 628–635.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_moi_lien_quan_giua_mot_so_yeu_to_tien_luong_kinh.pdf
Tài liệu liên quan