Nghiên cứu mối liên quan giữa nhiễm khuẩn đường tiết niệu và một số biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh phân phì đại tuyến tiền liệt

2. Mối liên quan giữa nhiễm khuẩn đường tiết niệu và một số đặc điểm cận lâm sàng ở bệnh nhân phì đại tuyến tiền liệt Bảng 2. Liên quan giữa tình trạng nhiễm khuẩn đường tiết niệu và tình trạng giảm albumin máu Nhóm Albumin máu NKTN (n=11) Không NKTN (n=60) OR, p số BN % số BN % Giảm (n=19) 6 31,6 13 68,4 OR=4,34 Bình thường (n=52) 5 9,6 47 90,4 p< 0,05 Nhóm bệnh nhân giảm albumin máu có tỷ nhiễm NKTN là 31,6%, cao hơn nhóm có albumin máu bình thường (9,6%), khác biệt có ý nghĩa với p<0,05. OR=4,34. Vậy tình trạng dinh dưỡng kém có lẽ suy giảm miễn dịch của bệnh nhân và có liên quan đến tình trạng NKTN. BN có albumin máu giảm có khả năng bị NKĐTN cao gấp 4,34 lần BN có albumin máu bình thường. Nghiên cứu Allon M, Radeva M, Bailey J và cs (2005) cũng chỉ ra mối liên quan giữa giảm albumin máu và tình trạng nhiễm khuẩn trên đối tượng bệnh nhân lọc máu chu kỳ [5]. Tác giả Toba K, Sudoh N, Ouchi Y và cs cũng nhận định giảm albumin huyết thanh là yếu tố nguy cơ của NKTN[11]. Bảng 3. Liên quan giữa tình trạng nhiễm khuẩn đường tiết niệu và thể tích nước tiểu tồn dư Nhóm PVR NKTN (n=7) Không NKTN (n=59) OR, p số BN % số BN % ≥ 50 ml (n = 9) 3 33,3 6 66,7 OR=6,63 < 50 ml (n = 57) 4 7,0 53 93,0 p<0,05 Nước tiểu tồn dư trong phì đại tuyến tiền liệt được tạo thành là do cơ chế bít tắc đường ra của dòng nước tiểu ở cổ bàng quang [10], đây sẽ là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn trú ngụ và phát triển. Tỷ lệ bệnh nhân NKTN ở nhóm có PVR≥ 50 ml cao hơn nhóm PVR< 50 ml, khác biệt có ý nghĩa với p < 0,05. Khả năng bị NKTN ở nhóm BN có PVR mức độ trung bình và nặng cao hơn nhóm có PVR là 6,63 lần (OR=6,63). Nghiên cứu của Caron F, Alexandre K, Pestel-Caron M và cs (2015) cũng chỉ ra mối liên quan giữa thể tích nước tiểu tồn dư và tình trạng NKĐTN [6].

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu mối liên quan giữa nhiễm khuẩn đường tiết niệu và một số biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh phân phì đại tuyến tiền liệt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX196 I. đẶT VẤN đỀ Phì đại tuyến tiền liệt là một bệnh phổ biến ở các nước phát triển có tuổi thọ cao, thường gặp ở những người 50 tuổi trở lên. Sự chèn ép tổ chức khối tăng sinh vào đường niệu là nguyên nhân gây cản trở đường niệu và là điều kiện thuận lợi gây ra các biến chứng như nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Theo điều tra dịch tễ học của Trần Đức Hòe và cộng sự năm 1995 thì tỷ lệ phì đại tuyến tiền liệt ở nam giới trên 50 tuổi là 50% và tỷ lệ này tăng dần theo lứa tuổi [2]. Phì đại tuyến tiền liệt tuy không trực tiếp đe dọa đến tính mạng người bệnh nhưng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, đặc biệt là những người cao tuổi khi khả năng tự phục vụ hạn chế. Một trong các biến chứng cấp tính thường gặp của phì đại tuyến tiền liệt là biến chứng nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Nếu không được phát hiện sớm, điều trị đúng, trong một vài trường hợp có thể gây sẹo đáng kể ở đường tiết niệu, hậu quả về lâu dài có thể gây suy thận. Nếu hiểu các yếu tố thuận lợi, các yếu tố nguy cơ gây lên nhiễm khuẩn đường tiết niệu ở bệnh nhân phì đại tuyến tiền liệt giúp chúng ta phòng tránh, giảm được tỷ lệ nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi thực hiện đề tài này với mục tiêu: “Nghiên cứu mối liên quan giữa nhiễm khuẩn đường tiết niệu và một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân phì đại tuyến tiền liệt”. II. đỐI TƯỢNG Và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. đối tượng nhiên cứu Đối tượng là 71 bệnh nhân phì đại tuyến tiền liệt (PĐTTL) điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân Y 103 từ tháng 7-2014 đến tháng 7-2015. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân: Các bệnh nhân có khối lượng tuyến tiền liệt ≥ 25g trên siêu âm, có thể có hoặc không kèm theo các triệu chứng phì đại tuyến trên lâm sàng. Loại trừ các trường hợp không đồng ý tham gia nghiên cứu. 2. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu tiến cứu, mô tả, cắt ngang nhóm bệnh nhân nghiên cứu. Chọn mẫu thuận tiện trong thời gian nghiên cứu. NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA NHIỄM KHUẨN đƯỜNG TIẾT NIỆU Và MỘT sỐ BIỂU HIỆN LÂM sàNG, CẬN LÂM sàNG Ở BỆNH PHÂN PHÌ đẠI TUYẾN TIỀN LIỆT ngô tuấn minh*, lê Việt thắng* *Bệnh viện Quân Y 103 TÓM TẮT Nghiên cứu mối liên quan giữa nhiễm khuẩn đường tiết niệu và một số biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng ở 71 bệnh nhân phì đại tuyến tiền liệt. Kết quả cho thấy: Nhiễm khuẩn đường tiết niệu liên quan với tuổi, nhóm tuổi trên 75 có tỷ lệ nhiễm khuẩn đường tiết niệu cao hơn nhóm tuổi dưới 75, p<0,05. OR=4,81. Nhóm có nhiễm khuẩn đường tiết niệu có điểm IPSS và điểm QoL trung bình cao hơn nhóm bệnh nhân không có nhiễm khuẩn đường tiết niệu, p<0,001; Bệnh nhân có albumin máu giảm có tỷ lệ nhiễm khuẩn đường tiết niệu cao hơn nhóm albumin máu bình thường, p<0,05.OR=4,34. Tỷ lệ nhiễm khuẩn đường tiết niệu ở nhóm bệnh nhân có thể tích nước tiểu tồn dư trên 50ml cao hơn nhóm có thể tích nước tiểu tồn dư dưới 50ml, OR=6,63, p<0,05. Không thấy liên quan giữa nhiễm khuẩn đường tiết niệu và kích thước tuyến tiền liệt, p>0,05. Từ khóa: Phì đại tuyến tiền liệt, Nhiễm khuẩn đường tiết niệu, Nước tiểu tổn dư. nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 197 Bệnh nhân được khai thác các tuổi, điểm IPSS, điểm QoL, xét nghiệm sinh hóa máu, phân tích nước tiểu, siêu âm hệ tiết niệu. Chẩn đoán PĐTTL theo Hội tiết niệu thận học Việt Nam năm 2013) [1]: Đánh giá và phân chia mức độ tình trạng tắc nghẽn bằng bảng điểm đánh giá IPSS (International Prostatic Symptomatic Score). Đánh giá mức độ ảnh hưởng của PĐTTL đến chất lượng cuộc sống sử dụng bảng khuyến cáo của Hội nghị tiết niệu quốc tế - 1991 QoL (Quality of life). Phân độ thể tích nước tiểu tồn dư (PVR) theo đồng thuận quốc tế lần thứ 5 về tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt [4]. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Và BàN LUẬN Tuổi trung bình 71,44 ± 8,06 tuổi, thời gian phát hiện bệnh trung bình 4,5 ± 3,1 năm. 1. Mối liên quan giữa nhiễm khuẩn đường tiết niệu và một số biểu hiện lâm sàng ở bệnh nhân phì đại tuyến tiền liệt Bảng 1. Liên quan giữa tình trạng nhiễm khuẩn đường tiết niệu và tuổi đặc điểm NKTN (n=11) Không NKTN (n=60) p OR số BN % số BN % Tuổi ≥ 75 (n=23) 7 30,4 16 69,6 < 0,05 4,81 Tuổi < 75 (n=48) 4 8,3 60 91,7 Nguy cơ nhiễm khuẩn đường tiết niệu tăng theo tuổi, do tuổi càng cao, bàng quang giảm khả năng tống nước tiểu khi nằm lâu hoặc do các bệnh thần kinh, giảm tiết protein Tamm Horfall, tuyến tiền liệt phì đại và giảm các yếu tố diệt khuẩn. Nhóm bệnh nhân từ 75 tuổi trở lên có khả năng bị nhiễm khuẩn đường tiết niệu cao hơn 4,81 lần so với nhóm tuổi nhỏ hơn 75 tuổi, với p < 0,05. Kết quả nghiên cứu của Hồ Thị Hồng cũng cho thấy, các bệnh nhân có nhóm tuổi càng cao thì càng tăng nguy cơ nhiễm khuẩn đường tiết niệu [3]. Tác giả Rowe T.A., Juthani-Mehta M. nghiên cứu về NKĐTN ở người già nhận định tuổi cao là yếu tố nguy cơ của NKĐTN (2014) [9], nghiên cứu của các tác giả Deville W, Yzermans J và cộng sự [7], Teresa Raposo, Antonio Rodrigues, Adelaide Almeida [8] cũng cho kết quả tương tự. Biểu đồ 1. So sánh mức độ rối loạn tiểu tiện theo thang điểm IPSS giữa hai nhóm có NKĐTN và không NKĐTN Điểm IPSS trung bình của nhóm có NKTN là 22,1 ± 6,8 cao hơn nhóm không có NKTN 12,4 ± 5,5, có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Các bệnh nhân có NKTN có triệu chứng đường tiểu dưới nặng hơn, thường xuyên hơn nhóm BN không có NKTN, tình trạng tắc nghẽn đường niệu nặng nề hơn. nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX198 Biểu đồ 2. So sánh diểm chất lượng cuộc sống QoL giữa hai nhóm có NKĐTN và không NKĐTN Điểm chất lượng cuộc sống QoL ở nhóm có nhiễm khuẩn đường tiết niệu (5,1± 0,9) cao hơn so với nhóm không có nhiễm khuẩn đường tiết niệu (2,9 ± 0,9), có ý nghĩa với p < 0,001. Do phải trải qua tình trạng nhiễm khuẩn tiết niệu tái diễn, các triệu chứng rối loạn tiểu tiện nặng nề nên điểm QoL trung bình ở nhóm có NKTN rất cao. 2. Mối liên quan giữa nhiễm khuẩn đường tiết niệu và một số đặc điểm cận lâm sàng ở bệnh nhân phì đại tuyến tiền liệt Bảng 2. Liên quan giữa tình trạng nhiễm khuẩn đường tiết niệu và tình trạng giảm albumin máu Nhóm Albumin máu NKTN (n=11) Không NKTN (n=60) OR, p số BN % số BN % Giảm (n=19) 6 31,6 13 68,4 OR=4,34 p< 0,05Bình thường (n=52) 5 9,6 47 90,4 Nhóm bệnh nhân giảm albumin máu có tỷ nhiễm NKTN là 31,6%, cao hơn nhóm có albumin máu bình thường (9,6%), khác biệt có ý nghĩa với p<0,05. OR=4,34. Vậy tình trạng dinh dưỡng kém có lẽ suy giảm miễn dịch của bệnh nhân và có liên quan đến tình trạng NKTN. BN có albumin máu giảm có khả năng bị NKĐTN cao gấp 4,34 lần BN có albumin máu bình thường. Nghiên cứu Allon M, Radeva M, Bailey J và cs (2005) cũng chỉ ra mối liên quan giữa giảm albumin máu và tình trạng nhiễm khuẩn trên đối tượng bệnh nhân lọc máu chu kỳ [5]. Tác giả Toba K, Sudoh N, Ouchi Y và cs cũng nhận định giảm albumin huyết thanh là yếu tố nguy cơ của NKTN[11]. Bảng 3. Liên quan giữa tình trạng nhiễm khuẩn đường tiết niệu và thể tích nước tiểu tồn dư Nhóm PVR NKTN (n=7) Không NKTN (n=59) OR, p số BN % số BN % ≥ 50 ml (n = 9) 3 33,3 6 66,7 OR=6,63 p<0,05< 50 ml (n = 57) 4 7,0 53 93,0 Nước tiểu tồn dư trong phì đại tuyến tiền liệt được tạo thành là do cơ chế bít tắc đường ra của dòng nước tiểu ở cổ bàng quang [10], đây sẽ là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn trú ngụ và phát triển. Tỷ lệ bệnh nhân NKTN ở nhóm có PVR≥ 50 ml cao hơn nhóm PVR< 50 ml, khác biệt có ý nghĩa với p < 0,05. Khả năng bị NKTN ở nhóm BN có PVR mức độ trung bình và nặng cao hơn nhóm có PVR là nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 199 IV. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu mối liên quan giữa nhiễm khuẩn đường tiết niệu và một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở 71 BN phì đại tuyến tiền liệt, chúng tôi rút ra một vài nhận xét sau: + Nhiễm khuẩn đường tiết niệu liên quan với tuổi, tuổi càng cao tỷ lệ nhiễm khuẩn đường tiết niệu càng cao, p < 0,05. OR=4,81. Nhóm có nhiễm khuẩn đường tiết niệu có điểm IPSS và điểm QoL trung bình cao hơn nhóm bệnh nhân không có nhiễm khuẩn đường tiết niệu, p < 0,001. + Bệnh nhân có albumin máu giảm có tỷ lệ nhiễm khuẩn đường tiết niệu cao hơn nhóm albumin máu bình thường, p < 0,05. OR=4,34. Tỷ lệ nhiễm khuẩn đường tiết niệu ở nhóm bệnh nhân có thể tích nước tiểu tồn dư trên 50ml cao hơn nhóm có thể tích nước tiểu tồn dư dưới 50ml , OR=6,63, p < 0,05. Không thấy liên quan giữa nhiễm khuẩn đường tiết niệu và kích thước tuyến tiền liệt, p > 0,05. 6,63 lần (OR=6,63). Nghiên cứu của Caron F, Alexandre K, Pestel-Caron M và cs (2015) cũng chỉ ra mối liên quan giữa thể tích nước tiểu tồn dư và tình trạng NKĐTN [6]. Bảng 4. Liên quan giữa tình trạng nhiễm khuẩn đường tiết niệu với kích thước tuyến tiền liệt trên siêu âm KT TTL trên siêu âm (gram) NKTN (n=7) Không NKTN (n=59) p số BN % số BN % 25 - < 30 (n= 10) 2 20 8 80 > 0,05 30 - 39 (n=24) 4 16,7 20 83,3 40 - 49 (n=14) 1 7,1 13 92,3 50 - 59 (n=10) 1 10 9 90 > 60 (n=13) 3 23,1 10 76,9 Không có sự liên quan giữa nhiễm khuẩn đường tiết niệu và kích thước tuyến tiền liệt trên, p > 0,05. Như vậy ta thấy kích thước tuyến tiền liệt không đóng vai trò quan trọng trong bệnh sinh NKTN ở bệnh nhân phì đại tuyến tiền liệt, tuyến to nhưng không phát triển về phía đường niệu, không gây hẹp đường niệu thì không phải là yếu tố thuận lợi cho NKTN, một tuyến tiền liệt có kích thước nhỏ tuy nhiên sự phì đại của nó lại phát triển vào trong lòng đường niệu sẽ gây bít tắc dòng nước tiểu, tạo nước tiểu tồn dư trong bàng quang,gây ra các triệu chứng đường tiểu dưới và đó là điều kiện thuận lợi cho NKTN. TàI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Lê Chuyên (2013), “Hướng dẫn xử trí tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt”, Hội Tiết niệu thận học Việt Nam. 2. Trần Đức Hòe (1996), “Kết quả điều tra dịch tễ học u xơ tuyến tiền liệt”, Tạp chí Y học Quân sự, 2, tr.69-74. 3. Hồ Thị Hồng (2013), “Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân nhiễm khuẩn tiết niệu cấp tính”, Học viện Quân Y, Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Abrams P., Griffiths D., Hofner K. (2000), “The Urodynamic assessment of lower urinary tract symptom", Benign Prostatic Hyperplasia, 5th International Consultation on Benign Prostatic Hyperplasia, pp.227-82. 5. Allon M., Radeva M., Bailey J., et al. (2005), “The spectrum of infection-related morbidity in hospitalized haemodialysis patients”, Nephrol Dial Transplant, 20(6), pp.1180-6. 6. Caron F., Alexandre K., Pestel-Caron M., et al. (2015), “High bacterial titers in urine are predictive of abnormal postvoid residual urine nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX200 in patients with urinary tract infection”, Diagn Microbiol Infect Dis, 83(1), pp.63-7. 7. Deville W. L., Yzermans J. C., van Duijn N. P., et al. (2004), “The urine dipstick test useful to rule out infections. A meta-analysis of the accuracy”, BMC Urol, 4, pp.4. 8. Linhares I., Raposo T., Rodrigues A., et al. (2013), “Frequency and antimicrobial resistance patterns of bacteria implicated in community urinary tract infections: a ten-year surveillance study (2000-2009)”, BMC Infect Dis, 13, pp.19. 9. Rowe T. A., Juthani-Mehta M. (2014), “Diagnosis and management of urinary tract infection in older adults”, Infect Dis Clin North Am, 28(1), pp.75-89. 10. Ruud Bosch J. L. (1995), “Postvoid residual urine in the evaluation of men with benign prostatic hyperplasia”, World J Urol, 13(1), pp.17-20. 11. Toba K., Sudoh N., Ouchi Y., et al. (1993), “The importance of the host nutritional and immune status on the prognosis of urinary tract infection in the elderly”, Nihon Ronen Igakkai Zasshi, 30(6), pp.487-96. ABsTRACT sTUDY ON ReLATION BeTWeeN URINARY TRACT INFeCTION AND sOMe CLINICAL AND LABORATORY CHARACTeRIsTICs IN PROsTATe HYPeRPLAsIVe PATIeNTs Study on relation between urinary tract infection and some clinical and laboratory characteristics in 71 patients with prostate hypertrophy. The results showed that:ratio of urinary tract infections of patients with over 75 ages is higher significantly thanthat of under 75 patients, p <0.05, OR = 4.81. In urinary tract infection patients,averagescores of IPSS and QoL arehigher than patients without urinary tract infection, p <0.001; Ratio of urinary tract infection in serum low albumin is higher patients with normal blood albumin, p<0.05. OR = 4.34. Prevalence of urinary tract infection of patients with post void residual greater than 50ml higher than group withpost void residual less than 50ml, OR = 6.63, p 0.05. Keywords: Prostate Hyperplasia, Urinary Tract Infection, Post Void Residual.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_moi_lien_quan_giua_nhiem_khuan_duong_tiet_nieu_va.pdf