Khi nghiên cứu về hoàn cảnh xảy ra táo bón,
chúng tôi thấy tỷ lệ trẻ bị táo bón trong nhóm
đi nhà trẻ thấp hơn 0,2 lần so với nhóm được
chăm sóc tại nhà (p < 0,01). Kết quả nghiên
cứu này không phù hợp với y văn trước đây
cho rằng bắt đầu đi học là thời điểm dễ xuất
hiện táo bón do trẻ nhịn đi ngoài (do không
muốn sử dụng nhà vệ sinh tại trường học, sợ
cô giáo) [14]. Kết quả này có thể lý giải do đối
tượng nghiên cứu của chúng tôi thuộc lứa tuổi
nhỏ từ 1 - 5 tuổi, thời gian bị táo bón tương
đối dài (thời gian trung bình là 11 ± 9,7 tháng,
thời gian ngắn nhất là 1 tháng, dài nhất là 48
tháng). Như vậy, phần lớn biểu hiện đầu tiên
của táo bón sẽ xuất hiện khi trẻ còn chăm sóc
tại nhà. Nếu mở rộng nghiên cứu trên nhiều độ
tuổi khác nhau, có thể kết quả sẽ có sự thay đổi.
Đối tượng nghiên cứu phần lớn là các trẻ
có cân nặng bình thường. Trong nhóm trẻ bị
táo bón, 91,5% có cân nặng bình thường, tỷ lệ
suy dinh dưỡng và béo phì lần lượt là 7,1% và
1,4%. Nguy cơ suy dinh dưỡng trên những trẻ
táo bón cao gấp 2,3 lần so với nhóm trẻ bình
thường, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê với p > 0,05. Trong một nghiên
cứu bệnh chứng trên 2375 trẻ em tiểu học từ
7 - 12 tuổi để tìm hiểu mối liên quan giữa táo
bón và tình trạng dinh dưỡng của trẻ, Wu và
cộng sự nhận thấy trẻ em bị táo bón có chỉ số
khối cơ thể (BMI) thấp hơn đáng kể so với nhóm
trẻ bình thường (17,5kg/m2 so với 18,3 kg/m2,
p < 0,001) [15]. Theo nghiên cứu của Roma và
cộng sự, trẻ bị táo bón có chỉ số cân nặng/chiều
cao thấp hơn so với trẻ bình thường (p < 0,001)
[16]. Trẻ bị táo bón có sự phát triển thể chất
kém hơn so với trẻ bình thường có thể lý giải do
một trong những biểu hiện của táo bón là chán
ăn, buồn nôn và đau bụng. Điều này khiến trẻ
ăn uống kém, thể chất kém phát triển. Ngược
lại, ăn uống kém, lượng xơ và nước cung cấp
không đủ lại càng làm cho tình trạng táo bón
nặng hơn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ gây táo bón chức năng ở trẻ em tại bệnh viện nhi trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
29
PHẦN NGHIÊN CỨU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Táo bón là tình trạng rối loạn tiêu hóa thường
gặp ở trẻ em trên thế giới. Tỷ lệ mắc táo bón ở trẻ
em dao động từ 0,7% đến 29,6% tùy theo từng
nghiên cứu [1]. Nguyên nhân gây táo bón khá đa
dạng nhưng chủ yếu là táo bón do nguyên nhân
chức năng. Các yếu tố nguy cơ gây táo bón chức
năng là do hành vi giữ phân, ảnh hưởng của yếu
tố tâm lý, chế độ ăn uống không phù hợp và trẻ
không được huấn luyện đi vệ sinh đúng cách,
đúng thời điểm. Táo bón chức năng không được
theo dõi và điều trị hợp lý sẽ gây ra nhiều hậu
quả về sức khỏe và tâm lý cho trẻ như nứt kẽ hậu
môn, giãn đại trực tràng, sa trực tràng, chán ăn,
chậm lên cân, thậm chí gây tình trạng đau bụng
kéo dài hoặc đi ngoài không tự chủ. Cho đến nay,
các nghiên cứu về những yếu tố nguy cơ gây
táo bón chức năng ở trẻ em Việt Nam còn chưa
nhiều. Xuất phát từ vấn đề này, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu với mục tiêu: Nhận xét một số
yếu tố nguy cơ gây táo bón chức năng ở trẻ từ 1
đến 5 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Đối tượng nghiên cứu
280 trẻ từ 1 đến 5 tuổi đến khám tại phòng
khám chuyên khoa Tiêu hóa hoặc điều trị tại
khoa Tiêu hóa, Bệnh viện Nhi Trung ương trong
thời gian 1/10/2013 – 31/11/2014.
Tiêu chuẩn chọn nhóm chứng:
- Trẻ từ 1 đến 5 tuổi có số lần đi ngoài bình
thường theo lứa tuổi (trung bình 1 lần/ ngày),
phân mềm (phân loại 4 trong thang điểm Bristol),
không đau và gắng sức khi đi ngoài.
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ
NGUY CƠ GÂY TÁO BÓN CHỨC NĂNG Ở TRẺ EM
TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Nguyễn Thị Việt Hà*, Đỗ Thị Minh Phương*
* Bộ môn Nhi, Trường Đại học Y Hà Nội
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ gây táo bón chức năng ở trẻ từ 1 đến 5 tuổi.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu bệnh - chứng trên 280 trẻ từ 1 đến 5 tuổi đến khám tại
phòng khám chuyên khoa tiêu hóa, Bệnh viện Nhi Trung ương. Đánh giá yếu tố nguy cơ gây táo
bón chức năng ở trẻ em dựa trên phân tích hồi quy đơn biến và đa biến. Kết quả: 140 trẻ được
chẩn đoán táo bón chức năng theo tiêu chuẩn ROME III và 140 trẻ không bị táo bón được nghiên
cứu. Khi phân tích đa biến, các yếu tố nguy cơ gây táo bón chức năng ở trẻ em bao gồm tuổi ≥ 36
tháng (OR: 2,5, p = 0,032), lượng xơ cung cấp trong ngày ≤ 80% so với khuyến cáo (OR: 5,8, p <
0,001), lượng nước cung cấp trong ngày ≤ 80% so với khuyến cáo (OR: 6,4, p < 0,001), không có
thói quen đại tiện hàng ngày (OR: 24,3, p < 0,001), tiền sử gia đình có người bị táo bón (OR: 4,2,
p = 0,005). Kết luận: Thay đổi chế độ ăn, tập thói quen đi đại tiện hàng ngày giúp phòng tránh
táo bón chức năng ở trẻ em
Từ khóa: Táo bón chức năng, yếu tố nguy cơ, trẻ em, chế độ ăn, thói quen đại tiện.
TẠP CHÍ NHI KHOA 2016, 9, 1
30
- Trẻ không bị táo bón trong thời gian ít nhất 6
tháng trước khi khám.
- Tiêu chuẩn chọn nhóm táo bón chức năng
Trẻ từ 1 đến 5 tuổi có biểu hiện táo bón chức
năng được xác định theo tiêu chuẩn ROME III [2]:
+ Không có nguyên nhân thực thể gây táo
bón.
+ Có ít nhất 2 trong số 6 tiêu chuẩn sau:
• Đi ngoài ≤ 2 lần/tuần.
• Són phân ít nhất 1 lần/tuần sau khi đã biết
đi vệ sinh.
• Tiền sử nhịn đi ngoài hoặc ứ phân quá mức
một cách tự ý.
• Tiền sử đi phân cứng hoặc đau khi đi ngoài.
• Có khối phân lớn trong trực tràng.
• Tiền sử đi ngoài khuôn phân kích thước lớn,
có thể làm tắc bồn cầu.
+ Trẻ < 4 tuổi, các triệu chứng kéo dài ít nhất
1 tháng.
+ Trẻ ≥ 4 tuổi, các triệu chứng kéo dài ít nhất
2 tháng và không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán hội
chứng ruột kích thích.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu
bệnh - chứng
Các bệnh nhi từ 1 đến 5 tuổi được chọn
vào nghiên cứu theo các tiêu chuẩn của nhóm
bệnh và nhóm chứng. Mỗi trẻ được hỏi bệnh và
thăm khám lâm sàng đánh giá tình trạng dinh
dưỡng. Phỏng vấn bà mẹ về tiền sử gia đình, về
khẩu phần ăn và lượng nước uống (bao gồm cả
sữa, nước lọc, nước trong cháo, canh, các sản
phẩm từ sữa) trong 1 ngày bình thường của
trẻ. Ước lượng lượng xơ và lượng nước bằng
cách đối chiếu hàm lượng nước và xơ trong
thực phẩm theo Bảng thành phần thực phẩm
Việt Nam [3]. Nhu cầu chất xơ hàng ngày bằng
số tuổi cộng với 5 gram [4]. Nhu cầu dịch hàng
ngày với trẻ 1-3 tuổi là 1300ml, từ 4-8 tuổi là
1700ml [5].
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS
16.0, đánh giá các yếu tố nguy cơ qua phân tích
hồi quy đơn và đa biến.
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Từ tháng 10/2013 - 11/2014, 280 trẻ được đưa
vào nghiên cứu có tuổi trung bình là 34,5 ± 16,3
tháng tuổi. Nhóm tuổi từ 12 đến dưới 24 tháng
chiếm tỷ lệ cao nhất (30,7%), Nhóm tuổi từ 48 - 60
tháng chiếm tỷ lệ thấp nhất (10,4%). Tỷ lệ nam:
nữ là 1,1: 1.
Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Đặc điểm Nhóm bệnh Nhóm chứng p
Tuổi (tháng) 37 ± 16,1 32,1 ± 16,3 0,130
Giới
Nam 72 (51,4%) 77 (52,9%)
0,811
Nữ 68 (48,6%) 66 (47,1%)
Cân nặng (kg) 13,5 ± 3,8 13 ± 3,7 0,240
Chiều cao (cm) 92,1 ± 12,1 89,5 ± 11,5 0,063
Không có sự khác biệt giữa nhóm bệnh và nhóm chứng về tuổi, giới, cân nặng, chiều cao với
p>0,05.
31
PHẦN NGHIÊN CỨU
4. BÀN LUẬN
Các yếu tố nguy cơ gây táo bón chức năng ở
trẻ em được các nghiên cứu trong nước và trên
thế giới đề cập nhiều nhất là sự thay đổi chế độ
ăn không phù hợp, yếu tố tâm lý, thói quen đại
tiện, tiền sử gia đình, sợ đi đại tiện tại trường học
[6], [7].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trẻ từ 36
tháng tuổi có nguy cơ bị táo bón cao gấp 2,5 lần
so với trẻ dưới 36 tháng (95% CI: 1,1 – 5,8, p =
0,032). Các nghiên cứu trên thế giới nhận thấy tỷ
lệ táo bón ở các nhóm tuổi là khác nhau, nhưng
thời điểm bắt đầu đi nhà trẻ là lứa tuổi dễ bị táo
bón. Phần lớn các trường hợp táo bón chức năng
xuất hiện ở trẻ từ 2 - 4 tuổi theo ghi nhận của
Plunkett [8]. Mota và cộng sự theo dõi 4231 trẻ
sơ sinh và đánh giá tại các thời điểm 12, 24 và 48
tháng phát hiện biểu hiện táo bón. Nghiên cứu
cho thấy tỷ lệ mắc táo bón ở thời điểm 24 và 48
tháng tuổi, tương ứng là 27,3% và 31,0%. Sự khác
biệt về tuổi xuất hiện táo bón có nghĩa thống kê
với p < 0,001 [9].
Chế độ ăn uống, trong đó lượng xơ, lượng
nước cung cấp trong ngày được coi là yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến táo bón chức năng.
Chế độ ăn cung cấp ≤ 80% lượng xơ/ngày so với
khuyến cáo làm tăng nguy cơ táo bón gấp 5,8
3.2. Một số yếu tố nguy cơ gây táo bón chức năng ở trẻ em
Bảng 2. Một số yếu tố nguy cơ gây táo bón chức năng
Yếu tố nguy cơ
Táo bón chức năng OR (95% CI)
Phân tích đơn biến Phân tích đa biến
Tuổi
≥ 36 tháng 2 (1,2 – 3,2)* 2,5 (1,1 – 5,8)*
< 36 tháng 1 1
Lượng xơ
cung cấp/ngày
≤ 80% nhu cầu 7,8 (4,3 – 13,8)* 5,8 (2,5 – 13,4)*
> 80% nhu cầu 1 1
Lượng nước
cung cấp/ngày
≤ 80% nhu cầu 7,1 (4 - 12,7)* 6,4 (2,7 – 14,8)*
> 80% nhu cầu 1 1
Thói quen đại tiện hàng ngày
Không 35,1 (16,3 – 75,7)* 24,3 (10 – 58,9)*
Có 1 1
Tiền sử gia đình có người bị táo bón
Có 2,7 (1,4 – 5,1)* 4,2 (1,5 – 11,3)*
Không 1 1
Hoàn cảnh xảy ra táo bón
Nhà trẻ 0,4 (0,3 – 0,7)* 0,2 (0,1 – 0,5)*
Tại nhà 1 1
Tình trạng dinh dưỡng
Suy dinh dưỡng 2,1 (0,7 – 6,2) 2,3 (0,5 – 11,0)
Bình thường 1 1
* p < 0,05
Phân tích yếu tố nguy cơ theo mô hình hồi quy đơn biến và đa biến cho thấy có 5 yếu tố nguy
cơ là tuổi ≥ 36 tháng, lượng xơ và lượng nước ≤ 80% so với khuyến cáo, không có thói quen đại
tiện hàng ngày và tiền sử gia đình có người bị táo bón.
TẠP CHÍ NHI KHOA 2016, 9, 1
32
lần so với những trẻ cung cấp lượng xơ/ngày
> 80% so với khuyến cáo (95% CI: 2,5 – 13,4,
p < 0,001). Trong nghiên cứu của Morais, nguy
cơ gây táo bón tăng gấp 4,1 lần (95% CI: 1,64 -
10,32) so với nhóm chứng nếu trẻ nhận lượng
xơ ít hơn so với mức khuyến cáo (tuổi + 5 g)
[9]. 86,4% trẻ bị táo bón có chế độ ăn ít xơ và
rau quả trong khi tỷ lệ này ở trẻ bình thường
là 39,5% (OR = 9,8, p < 0,001) cũng được ghi
nhận trong nghiên cứu của Comas và cộng sự
[6]. Chế độ ăn đủ xơ có lợi và phòng tránh táo
bón dựa trên cơ chế chất xơ làm tăng hiệu quả
tống phân, giữ nước, tăng vi khuẩn đại tràng
và sinh hơi. Chất xơ không tan làm tăng khối
lượng phân và tăng các sản phẩm của vi khuẩn
sinh hơi (như acid béo chuỗi ngắn) giúp làm cải
thiện nhu động đại tràng [11].
Theo nghiên cứu của chúng tôi, nguy cơ táo
bón tăng gấp 6,4 lần (95% CI: 2,7 – 14,8, p <
0,001) ở nhóm trẻ được cung cấp ≤ 80% lượng
nước cần thiết trong ngày khi so với nhóm trẻ
cung cấp > 80% nhu cầu nước hàng ngày. Kết
quả này tương tự công bố của Comas khi tìm
hiểu mối liên quan giữa lượng nước uống với
triệu chứng táo bón. Comas nhận thấy 73,4% trẻ
uống ít hơn 4 cốc nước/ngày trong nhóm trẻ bị
táo bón trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm trẻ không
bị táo bón là 47,1%. Uống ít hơn 4 cốc nước/ngày
làm tăng nguy cơ táo bón lên 1,7 lần so với uống
từ 4 - 8 cốc và tăng gấp 3,4 lần so với nhóm uống
trên 8 cốc (p < 0,05) [6]. Trong một nghiên cứu
khác trên trẻ em tại Hồng Kông, Lee và cộng sự
lại không ghi nhận thấy mối liên quan giữa lượng
nước cung cấp trong ngày với tình trạng táo bón
ở trẻ [12].
93,6% số trẻ bị táo bón trong nghiên cứu
này không có thói quen đi đại tiện hàng ngày.
Không có thói quen đại tiện hàng ngày làm tăng
nguy cơ bị táo bón lên 24,3 lần so với những
trẻ có thói quen đi đại tiện đều đặn hàng ngày
(95% CI: 10 – 58,9, p < 0,001). Theo nghiên cứu
của Comas và cộng sự, 53,2% số trẻ bị táo bón
không có thói quen đi đại tiện hàng ngày trong
đó 64,9% số trẻ không bị táo bón có thói quen
đại tiện hàng ngày, sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê với OR = 2,17, p < 0,001 [6]. Tỷ lệ trẻ bị
táo bón không có thói quen đại tiện của chúng
tôi cao hơn so với nghiên cứu khác có thể do độ
tuổi của đối tượng nghiên cứu và kiến thức của
người chăm sóc. Độ tuổi nghiên cứu của chúng
tôi là từ 1 đến 5 tuổi, phần lớn những trẻ này
vẫn chưa tập thói quen đi vệ sinh một mình mà
việc đi vệ sinh phụ thuộc vào người chăm sóc
và cô giáo. Người chăm sóc coi việc đi vệ sinh
là nhu cầu của trẻ, không chủ động tập cho trẻ
cách đi vệ sinh hàng ngày và tư thế đúng khi đi
vệ sinh.
Sự liên quan giữa táo bón và yếu tố gia đình
đã được ghi nhận trong nhiều nghiên cứu. Tiền
sử gia đình có người bị táo bón làm tăng nguy
cơ bị táo bón cao gấp 4,2 lần so với trẻ không
có người bị táo bón trong gia đình (95% CI: 1,5
– 11,3, p = 0,005). Theo nghiên cứu của Inan và
cộng sự, 39,3% số trẻ táo bón có người trong
gia đình mắc táo bón, tỷ lệ này là 20,8% trong
nhóm không táo bón (OR = 2, p < 0,01, 95% CI:
1,2 – 3,6) [7]. Tiền sử trong gia đình có người bị
táo bón làm gia tăng nguy cơ táo bón ở trẻ cũng
được ghi nhận trong nghiên cứu của Comas và
cộng sự. Ở nhóm trẻ bị táo bón, 53,6% số trẻ có
mẹ bị táo bón, tỷ lệ này trong nhóm không bị
táo bón là 21,4% (OR = 1,9, p < 0,001) [6]. Dựa
trên những bằng chứng về sự xuất hiện táo
bón ngay trong những tháng đầu đời và nhiều
trẻ có tiền sử gia đình có người bị táo bón, yếu
tố di truyền được xem là tác nhân đóng vai trò
trong sự hình thành táo bón ở trẻ em. Theo
Peeters, yếu tố di truyền có vai trò trong việc
33
PHẦN NGHIÊN CỨU
hình thành táo bón ở trẻ em, tuy nhiên, cho
đến nay vẫn chưa xác định được nguyên nhân
của những trường hợp táo bón có tính chất gia
đình này do đột biến ở gen đặc hiệu nào [13].
Bên cạnh yếu tố di truyền, sự không phù hợp
về các hành vi, lối sống, chế độ ăn uống của cha
mẹ cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển
thể chất, tinh thần và có thể gây ra các rối loạn
ở trẻ em.
Khi nghiên cứu về hoàn cảnh xảy ra táo bón,
chúng tôi thấy tỷ lệ trẻ bị táo bón trong nhóm
đi nhà trẻ thấp hơn 0,2 lần so với nhóm được
chăm sóc tại nhà (p < 0,01). Kết quả nghiên
cứu này không phù hợp với y văn trước đây
cho rằng bắt đầu đi học là thời điểm dễ xuất
hiện táo bón do trẻ nhịn đi ngoài (do không
muốn sử dụng nhà vệ sinh tại trường học, sợ
cô giáo) [14]. Kết quả này có thể lý giải do đối
tượng nghiên cứu của chúng tôi thuộc lứa tuổi
nhỏ từ 1 - 5 tuổi, thời gian bị táo bón tương
đối dài (thời gian trung bình là 11 ± 9,7 tháng,
thời gian ngắn nhất là 1 tháng, dài nhất là 48
tháng). Như vậy, phần lớn biểu hiện đầu tiên
của táo bón sẽ xuất hiện khi trẻ còn chăm sóc
tại nhà. Nếu mở rộng nghiên cứu trên nhiều độ
tuổi khác nhau, có thể kết quả sẽ có sự thay đổi.
Đối tượng nghiên cứu phần lớn là các trẻ
có cân nặng bình thường. Trong nhóm trẻ bị
táo bón, 91,5% có cân nặng bình thường, tỷ lệ
suy dinh dưỡng và béo phì lần lượt là 7,1% và
1,4%. Nguy cơ suy dinh dưỡng trên những trẻ
táo bón cao gấp 2,3 lần so với nhóm trẻ bình
thường, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê với p > 0,05. Trong một nghiên
cứu bệnh chứng trên 2375 trẻ em tiểu học từ
7 - 12 tuổi để tìm hiểu mối liên quan giữa táo
bón và tình trạng dinh dưỡng của trẻ, Wu và
cộng sự nhận thấy trẻ em bị táo bón có chỉ số
khối cơ thể (BMI) thấp hơn đáng kể so với nhóm
trẻ bình thường (17,5kg/m2 so với 18,3 kg/m2,
p < 0,001) [15]. Theo nghiên cứu của Roma và
cộng sự, trẻ bị táo bón có chỉ số cân nặng/chiều
cao thấp hơn so với trẻ bình thường (p < 0,001)
[16]. Trẻ bị táo bón có sự phát triển thể chất
kém hơn so với trẻ bình thường có thể lý giải do
một trong những biểu hiện của táo bón là chán
ăn, buồn nôn và đau bụng. Điều này khiến trẻ
ăn uống kém, thể chất kém phát triển. Ngược
lại, ăn uống kém, lượng xơ và nước cung cấp
không đủ lại càng làm cho tình trạng táo bón
nặng hơn.
5. KẾT LUẬN
Các yếu tố nguy cơ gây táo bón chức năng ở
trẻ em bao gồm: tuổi ≥ 36 tháng, lượng xơ và
lượng nước cung cấp trong ngày ≤ 80 % so với
khuyến cáo, không có thói quen đại tiện hàng
ngày, tiền sử gia đình có người bị táo bón. Trong
số những yếu tố nguy cơ gây táo bón mà chúng
tôi đưa ra, phần lớn là những yếu tố có thể thay
đổi được. Vì vậy, để phòng tránh mắc táo bón,
cần tuyên truyền, giáo dục cho cha mẹ và người
chăm sóc trẻ cung cấp cho trẻ chế độ ăn phù hợp
với lứa tuổi, đầy đủ lượng xơ và nước, tập cho trẻ
thói quen đi vệ sinh hàng ngày.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Van den Berg MM, Benninga MA, Di
Lorenzo C. (2006). Epidemiology of childhood
constipation: a systematic review. The American
Journal of Gastroenterology. 101(10), 2401-2409.
2. Rome Foundation. (2006). Guidelines
Rome III Diagnostic Criteria for Functional
Gastrointestinal Disorders, Journal of
Gastrointestinal and Liver Disease; 15(3), 307-
312.
TẠP CHÍ NHI KHOA 2016, 9, 1
34
3. Nguyễn Công Khẩn (2007), Bảng thành
phần thực phẩm Việt Nam, Nhà xuất bản Y học,
Hà Nội.
4. Felt BT, Brown PI, Harrision RV, et al (2008),
Functional Constipation and Soiling in Children,
UMHS Functional Constipation and Soiling
Guideline.
5. Panel on dietary reference intakes for
electrolytes and water, standing committee
on the scientific evaluation of dietary
reference intakes (2005), Dietary reference
intakes for water, potassium, sodium chloride
and sulfate, The National Academies Press,
Washington DC.
6. Comas Vives A, Polanco Allué I. (2005).
Case-control study of risk factors associated
with constipation. Anales de pediatría, 62(4),
340-345.
7. Inan M, Aydiner CY, Tokuc B, et al. (2007).
Factors associated with childhood constipation.
Journal of Pediatrics and Child Health, 43, 700-
706.
8. Plunkett A, Phillips CP, Beattie RM. (2007).
Management of chronic functional constipation
in childhood. Paediatric Drugs, 9, 33-46
9. Mota DM, Barros AJ, Santos I, Matijasevich
A. (2012). Characteristics of intestinal
habits in children younger than 4 years:
detecting constipation. Journal of Pediatric
Gastroenterology and Nutrition, 55(4), 451-456.
10. Morais MB, Vitolo MR, Aguirre AN, et
al. (1999). Measurement of low dietary fiber
intake as a risk factor for chronic constipation in
children. Journal of Pediatric Gastroenterology
and Nutrition, 29, 132-135.
11. Mugie SM, Di Lorenzo C, Benninga
MA. (2011). Constipation in childhood. Nature
reviews, Gastroenterology and Hepatology, 8(9),
502-511.
12. Lee WT, Ip KS, Chan JS, et al. (2008).
Increased prevalence of constipation in pre-
school children is attributable to under-
consumption of plant foods: a community based
study. Journal of Paediatrics and Child Health, 44,
170-175.
13. Peeters B, Benninga MA, Hennekam
RC. (2011). Childhood constipation; an
overview of genetic studies and associated
syndromes. Best practice and research. Clinical
gastroenterology, 25(1), 73-88.
14. Riad Rahhal, Aliye UC. (2008). Pediatric
Gastrointestinal Disease. BC Decker Inc Hamilton,
24, 676-681.
15. Wu TC, Chen LK, Pan WH, et al. (2011).
Constipation in Taiwan elementary school
students: a nationwide survey. Journal of the
Chinese Medical Association, 74(2), 57-61.
16. Roma E, Adamidis D, Nikolara R, et
al. (1999). Diet and chronic constipation in
children: the role of fiber. Journal of Pediatric
Gastroenterology and Nutrition, 28, 169-174
35
PHẦN NGHIÊN CỨU
ABSTRACT
EVALUATION OF RISK FACTORS FOR FUNCTIONAL CONSTIPATION IN CHILDREN
AT THE NATIONAL HOSPITAL OF PEDIATRICS
Aim: To evaluate risk factors for functional constipation in children from ages 1 - 5 years. Patients
and Methods: a case - control study on 280 children, aged 1 - 5 years, visited to gastroenterology
clinics at the National hospital of pediatrics. Factors associated with functional constipation in
children were derived from univariate and logistic regression analysis. Results: 140 children who had
functional constipation (defined by ROME III criteria) were age and gender matched with 140 children
with normal intestinal habits. In the logistic regression analysis, risk factors associated with functional
constipation in children were age ≥ 36 months (OR: 2,5, p = 0.032), fiber intake per day ≤ 80% standard
recommendation (OR: 5,8, p < 0.001), fluid intake per day ≤ 80% standard recommendation (OR: 6.4, p
< 0.001), irregular toilet habits (OR: 24.3, p < 0.001), family history of constipation (OR: 4.2, p = 0,005).
Conclusions: Dietary changes and daily toilet training are needed to prevent functional constipation
in children.
Key words: functional constipation, risk factors, children, dietary, defecation habits.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_mot_so_yeu_to_nguy_co_gay_tao_bon_chuc_nang_o_tre.pdf