Ảnh hưởng của một số điều kiện sinh thái đến
sự phát sinh và gây hại của bệnh dán cao
Kết quả điều tra ảnh hưởng của độ cao nương
chè với điều kiện khí hậu đến bệnh dán cao hại chè
tại Thị trấn Nông trường Cờ Đỏ trên giống chè Kim
Tuyên trong năm 2017 cho thấy, bệnh dán cao gây
hại liên tục từ tháng 1 đến tháng 11, bệnh phát triển
mạnh vào khoảng tháng 9, 10 và 11; trong đó, tháng
11 bệnh gây hại nặng nhất ở cả 3 vùng đỉnh đồi,
sườn đồi và chân đồi với tỷ lệ bệnh lần lượt là 6,0; 8,2
và 6,6%. Sự gây hại của bệnh dán cao phụ thuộc vào
độ cao nương chè. Ở đinh đồi, bệnh dán cao gây hại
thấp nhất với tỷ lệ bệnh từ 3,4 - 6,0%; trong khi đó,
ở chân đồi tỷ lệ bệnh từ 4,8 - 6,6%; bệnh dán cao gây
hại mạnh nhất ở sườn đồi với tỷ lệ bệnh từ 6,2 - 8,2%.
Tháng 1 - 2 là thời gian chè được đốn tỉa và phun
thuốc, các loại bộ phận bị nhiễm bệnh dán cao như
cành, lá được loại bỏ, đồng thời nhiệt độ và lượng
mưa thấp không thích hợp cho nấm phát triển. Do
vậy, tỷ lệ bệnh thấp nhất trong các kỳ điều tra. Khi
nhiệt độ và lượng mưa tăng lên, tạo điều kiện thích
hợp cho bệnh phát sinh và gây hại nặng hơn.
KẾT LUẬN
- Bệnh dán cao hại chè tại Mộc Châu-Sơn La
do nấm Septobasidium pseudopedicellatum gây ra.
Nấm gây hại trên cành và lá cây. Nấm có thời gian ủ
bệnh trên lá 18,5 ngày, trên cành là 15,6 ngày. Nấm
phát triển tốt nhất trên môi trường PDA ở mức
pH 5,5 - 6,5, ngưỡng nhiệt độ 25oC.
- Bệnh dán cao phát sinh và gây hại ở đỉnh đồi,
sườn đồi và chân đồi. Bệnh gây hại mạnh nhất ở
sườn đồi, gây hại thấp nhất ở đỉnh đồi.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu nấm septobasidium pseudopedicellatum gây bệnh dán cao hại chè tại Mộc Châu, Sơn La, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
109
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(100)/2019
NGHIÊN CỨU NẤM Septobasidium pseudopedicellatum
GÂY BỆNH DÁN CAO HẠI CHÈ TẠI MỘC CHÂU, SƠN LA
Mai Văn Quân1, Lê Quang Mẫn1, Nguyễn Thị Hường2,
Nguyễn Tiến Hùng2, Bùi Thị Thu2, Trần Đặng Việt3, Nguyễn Thị Thu Hà3
TÓM TẮT
Trong nghiên cứu này, mẫu nấm gây bệnh dán cao chè được thu thập và phân lập từ giống chè Kim Tuyên bị
bệnh tại nương chè thuộc Công ty Chè Cờ Đỏ - Mộc Châu - Sơn La. Phản ứng PCR sử dụng cặp primer ITS4/ITS5
đã khuếch đại ADN với kích thước khoảng 530bp. Kết quả phân tích trình tự gen và cây phả hệ đã khẳng định nấm
Septobasidium pseudopedicellatum là tác nhân gây bệnh dán cao chè tại Mộc Châu - Sơn La. Nấm S. pseudopedicellatum
có thời gian ủ bệnh trên lá là 18,5 ngày, trên cành là 15,6 ngày. Nấm phát triển tốt nhất trên môi trường PDA ở mức
pH 5,5 - 6,5 và ngưỡng nhiệt độ 25oC. Bệnh dán cao thường xuất hiện và gây hại ở đỉnh đồi, sườn đồi và chân đồi;
tuy nhiên, bệnh nặng nhất ở sườn đồi và nhẹ nhất ở đỉnh đồi.
Từ khóa: Cây chè (Camellia sinensis), Septobasidium pseudopedicellatum, bệnh dán cao hại chè
1 Viện Bảo vệ thực vật; 2 Trung tâm Kỹ thuật nông nghiệp Mộc Châu - Sơn La
3 Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chè (Camellia sinensis) là loại cây công nghiệp
cung cấp nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế
biến và xuất khẩu chè của Việt Nam. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, bệnh dán cao hại chè là
một trong những đối tượng dịch hại nguy hiểm, có
mức độ lây lan nhanh, gây thiệt hại lớn đến năng
suất và có thể làm chết cây. Tại Sơn La, bệnh dán cao
hại chè đã được ghi nhận từ năm 2009 trên trên các
giống chè hạt trồng tại huyện Thuận Châu và Mộc
Châu. Đây là một trong năm loại bệnh quan trọng
về mức độ gây hại đối với cây chè, diện tích nương
chè bị bệnh nhẹ có tỷ lệ bệnh dao động từ 5 - 10%,
nhiều vùng bị bệnh nặng, tỷ lệ bệnh lên đến 50% cây
bị bệnh (Nguyễn Văn Toàn và Phạm Văn Lầm, 2014).
Tính đến thời điểm hiện nay, chưa có nghiên cứu
chuyên sâu nào về bệnh dán cao hại chè được tiến
hành tại Việt Nam. Do vậy, việc xác định chính xác
nguyên nhân gây bệnh dán cao chè tại Việt Nam là
cần thiết, làm cơ sở để tiếp tục thực hiện nghiên cứu,
xây dựng hệ thống các biện pháp quản lý bệnh tổng
hợp hiệu quả, bền vững, hạn chế sự lây lan của bệnh,
ổn định sản xuất và chế biến chè bền vững tại Việt
Nam. Bài báo này trình bày kết quả chẩn đoán, giám
định tác nhân gây bệnh dán cao hại chè tại Sơn La
và một số đặc điểm sinh học, sinh thái của tác nhân
gây bệnh.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Mẫu bệnh dán cao hại chè được thu thập trong
năm 2017 - 2018 tại các nương chè của Thị trấn
Nông trường Mộc Châu - tỉnh Sơn La.
Môi trường phân lập bao gồm môi trường Water
Agar (WA), bột đậu (BĐ), PDA, cà rốt (CR) và
Czapek. Các loại hóa chất phục vụ chiết suất DNA,
phản ứng PCR và giải trình tự gen.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Xác định nguyên nhân gây bệnh dán cao hại
chè ở các tỉnh trồng chè chính tại vùng miền núi
phía Bắc
Điều tra, thu thập và phân lập bệnh dán cao hại
chè tại Nông trường chè Mộc Châu, Mộc Châu - Sơn
La theo phương pháp điều tra phát hiện bệnh cây
của Viện Bảo vệ thực vật (1997) và QCVN 01-38:
2010/BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và PTNT.
Thí nghiệm lây nhiễm nhân tạo theo chu trình
Koch và được thực hiện trong nhà lưới của Viện
Bảo vệ thực vật năm 2017. Nguồn nấm được phân
lập, làm thuần bằng môi trường PDA và nuôi cấy ở
điều kiện 25oC trong 3 ngày. Mảnh môi trường PDA
có chứa nấm được cắt từ đĩa môi trường nuôi cấy và
đặt lên phần cành non của cây chè con sạch bệnh.
Cây sau khi lây bệnh được bọc bằng túi nilon vô
trùng và lưu giữ trong điều kiện ẩm độ >80%. Cây
đối chứng được lây nhiễm bằng môi trường PDA
không chứa nấm. Tiến hành chăm sóc và theo dõi
thí nghiệm hàng ngày, ghi nhận sự xuất hiện triệu
chứng. Triệu chứng xuất hiện được so sánh với triệu
chứng của bệnh dán cao hại chè thu thập ngoài tự
nhiên, và tác nhân gây bệnh được tái phân lập từ cây
biểu hiện triệu chứng và so sánh với loài nấm trước
khi lây bệnh.
- DNA tổng số của nấm được chiết suất bằng
phương pháp CTAB (Cetyl Trimethyl Ammonium
110
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(100)/2019
Bromide) theo mô tả của Doyle & Doyle
(1990). Phản ứng PCR với cặp primer ITS4
(5’-CCTCCGCTTATTGATATGC-3’) và ITS5
(5’- GAAAGTAAAAGTCGTAACAAGG-3’)
khuếch đại vùng ITS (Internally Transcribed Spacer)
(White et al., 1990). Sản phẩm PCR được điện di
bằng 1% agarose gel (TAE + 0,5 mg/mL ethidium
bromide + 1% agarose) và được chụp ảnh bằng hệ
thống Geldoc-ItTM Imaging System (USA). Sản phẩm
PCR được tinh sạch từ agarose gel sử dụng QIAquick
PCR Purifcation Kit (Qiagen, Đức) và được giải
trình tự gen trực tiếp cả hai chiều sử dụng primer
ITS4 và ITS5, bằng máy ABI3100 tại Hàn Quốc sử
dụng BigDye Terminator 3.1 Kit (Applied Biotech).
Trình tự gen các mẫu được so sánh với Ngân hàng
Gen bằng phần mềm trực tuyến
nlm.nih.gov/Blast.cgi. Cây phả hệ xây dựng theo
phương pháp Neighbor-joining với khoảng cách di
truyền giữa các chuỗi được xác định dựa trên mô
hình thay thế Kimura hai tham số, giá trị thống kê
bootstrap (%) với 1.000 lần lặp lại trong phần mềm
MEGA 6.0 (Tamura et al., 2013).
2.2.2. Nghiên cứu đặc điểm sinh học và ảnh hưởng
của một số điều kiện sinh thái đến sự phát sinh, gây
hại của bệnh dán cao hại chè tại Mộc Châu - Sơn La
- Để xác định một số đặc điểm sinh học của nấm
gây bệnh, nguồn nấm được làm thuần bằng phương
pháp nuôi cấy đỉnh sinh trưởng sợi nấm trên môi
trường PDA trước khi tiến hành 3 thí nghiệm sau
đây: (1) Để xác định loại môi trường dinh dưỡng
phù hợp, nấm S. pseudopedicellatum được nuôi cấy
trên các loại môi trường PDA, cà rốt, bột đậu và
Czapek ở điều kiện nhiệt độ 25oC; (2) Đánh giá khả
năng phát triển của nấm ở 5 mức nhiệt độ 10, 15,
20, 25 và 30oC trên môi trường PDA và mức pH 6,0;
(3) Đánh giá khả năng phát triển của nấm ở 7 mức
pH khác nhau 4,0; 4,5; 5,0; 5,5; 6,0; 6,5 và 7,0 trên
môi trường PDA và nhiệt độ 25oC. Mỗi công thức
thí nghiệm được nhắc lại 5 lần (mỗi lần nhắc là 1 đĩa
petri). Kích thước tản nấm trên môi trường được đo
sau 3, 5, 7 ngày nuôi cấy.
Tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của độ cao địa
hình trồng chè (đỉnh đồi, sườn đồi, chân đồi) và điều
kiện khí hậu thời tiết tới diễn biến bệnh dán cao tại
Thị trấn Nông trường - huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn
La trên giống chè Kim Tuyên theo phương pháp điều
tra theo phương pháp 5 điểm chéo góc theo QCVN
01-38: 2010/BNNPTNT. Tỷ lệ bệnh (%) được theo
dõi định kỳ 1 tháng/lần.
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý thống kê bằng phần mềm Excel
2007, Statistix 9.0.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành tại phòng thí nghiệm
của Viện Bảo vệ thực vật từ năm 2016 - 2018.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Triệu chứng và nguyên nhân gây bệnh dán cao
hại chè tại huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn La
Bệnh dán cao hại chè là đối tượng dịch hại phổ
biến tại vùng trồng chè tập trung tại Thị trấn Mộc
Châu - huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn La. Triệu chứng
điển hình của bệnh dán cao hại chè thường xuất hiện
trên cành, thân và lá của giống chè Kim Tuyên. Trên
cành thường xuất hiện một lớp mốc trắng, nấm bám
trên mặt cành, thân nhưng dễ dàng tách ra khỏi cây.
Ban đầu sợi nấm có màu trắng, về sau chuyển thành
màu nâu (Hình 1A). Nấm cũng có thể phát triển trên
lá, tạo ra lớp sợi nấm giống như mạng nhện màu
trắng, bao kín bề mặt lá (Hình 1B). Triệu chứng tạo
thành một lớp cao trên thân, cành và lá (Đặng Vũ
Thị Thanh, 2008).
Hình 1. Triệu chứng điển hình bệnh dán cao chè tại Mộc châu- Sơn La.
(A) Triệu chứng bệnh dán cao trên cành và cuống lá; (B) Triệu chứng bệnh trên lá giống chè Kim Tuyên
111
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(100)/2019
Nấm gây bệnh dán cao hại chè được phân lập và
làm thuần trên môi trường WA bằng phương pháp
tách đỉnh sinh trưởng của sợi nấm (Lester et al.,
2009) trước khi được cấy truyền sang môi trường
PDA, và ủ ở điều kiện nhiệt độ 25oC trong thời gian
3 ngày. Mảnh môi trường PDA có chứa nấm được
sử dụng để lây nhiễm nhân tạo trên lá và cành của
giống chè Kim Tuyên. Cây chè sau khi lây bệnh
nhân tạo được ủ trong túi nilon để giữ ẩm. Cây đối
chứng được lây nhiễm bằng môi trường PDA không
chứa nấm.
Sau 15,6 ngày lây nhiễm, triệu chứng bệnh đã
biểu hiện trên cành non với tỷ lệ nhiễm bệnh là
73,3%. Trong khi đó, sau 18,5 ngày lây nhiễm, triệu
chứng bệnh đã được ghi nhận trên lá với tỷ lệ nhiễm
bệnh là 66,7% (Bảng 1, Hình 2). Nấm đã được tái
phân lập từ triệu chứng biểu hiện và trùng với loài
nấm đã sử dụng trước lây bệnh.
Bảng 1. Kết quả lây bệnh nhân tạo bằng
nấm S. pseudopedicellatum trên lá và cành non
giống chè Kim Tuyên (Viện Bảo vệ thực vật, 2017)
Công thức
thí nghiệm
Số cây
(lá) thí
nghiệm
Số cây
(lá) biểu
hiện
triệu
chứng
Tỷ lệ
bệnh
(%)
Thời
gian ủ
bệnh
(ngày)
Lây bệnh trên lá 15 10 66,7 18,5
Lây bệnh trên
cành non 15 11 73,3 15,6
Đối chứng 10 0 0 -
Hình 2. Kết quả lây bệnh nhân tạo bằng nấm S. pseudopedicellatum trên lá (hình bên trái) và trên cành non
(hình bên phải) của giống chè Kim Tuyên trong điều kiện nhà lưới Viện Bảo vệ thực vật, năm 2017
DNA tổng số được chiết suất từ hệ sợi nấm gây
bệnh dán cao bằng phương pháp CTAB và sử dụng
cho phản ứng PCR bằng cặp primer ITS4/ITS5. Đã
khuếch đại được sản phẩm PCR của tác nhân gây
bệnh dán cao chè với kích thước khoảng 530 bp
(Hình 3).
Hình 3. Kết quả điện di sản phẩm PCR của nấm gây bệnh dán cao chè. M: 100bp DNA marker,
1-4: DNA được chiết suất từ 4 mẫu nấm phân lập trên giống chè Kim Tuyên bị nhiễm bệnh
trồng tại Mộc Châu - Sơn La (Viện Bảo vệ thực vật, 2017).
112
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(100)/2019
Sản phẩm PCR được tinh sạch và giải mã trực
tiếp bằng primer ITS4 và ITS5. Tất cả các sản phẩm
đều có chất lượng tốt và trình tự của các mẫu đồng
nhất. Tìm kiếm các chuỗi tương đồng bằng phần
mềm BLAST cho thấy các mẫu nấm gây bệnh dán
cao chè Sơn La phân lập đều là các gen mã hóa vùng
ITS của nấm S. pseudopedicellatum. Cây phả hệ được
xây dựng dựa trên 17 trình tự đoạn gen của 14 loài
nấm khác nhau trên Ngân hàng gen. Hai mẫu nấm
đại diện gây bệnh dán cao hại chè tại Mộc Châu-Sơn
La được ký hiệu DCC.SL01 và DCC.SL02 đã cùng
với một đại diện của loài nấm S. pseudopedicellatum
có mã số Ngân hàng gen DQ241460.1 tạo thành
một nhánh riêng biệt so với các loài nấm khác
(Hình 4). Kết quả đã khẳng định tác nhân gây
bệnh dán cao chè tại Mộc Châu-Sơn La là do nấm
S. pseudopedicellatum gây ra.
Hình 4. Mẫu nấm gây bệnh dán cao chè thu thập tại Mộc Châu - SơnLa (DCC.SL01 và DCC.SL02).
Cây phả hệ được xây dựng bằng phương pháp Neighbor-Joining (N-J) với khoảng cách di truyền
được xác định dựa trên mô hình thay thế Kimura 2 tham số. Giá trị bootstrap (%) với 1.000 lần lặp lại
được chỉ rõ ở gốc các nhánh (chỉ thể hiện các giá trị > 50%).
3.3. Đặc điểm sinh học và ảnh hưởng của một số
điều kiện sinh thái đến sự phát sinh gây hại của
bệnh dán cao hại chè tại Mộc Châu - Sơn la
3.3.1. Đặc điểm sinh học của nấm S. pseudopedicellatum
gây bệnh dán cao hại chè tại Mộc Châu - Sơn La
Nấm S. pseudopedicellatum được nuôi cấy trên
5 môi trường khác nhau trong tủ định ôn ở điều kiện
nhiệt độ 25oC. Môi trường khác nhau đã ảnh hưởng
đến sự sinh trưởng và phát triển của nấm. Trong
5 loại môi trường, nấm phát triển mạnh nhất trên
môi trường PDA. Sau 5 ngày thí nghiệm, nấm đã
phát triển phủ kín bề mặt đĩa môi trường PDA và
đường kính tản nấm đạt 8,5 ± 0,00 cm lớn nhất
trong tất cả 5 loại môi trường thí nghiệm. Tiếp đến
là môi trường CA, sau 5 ngày nuôi cấy, đường kính
tản nấm là 8,1 ± 0,02 cm. Trong khi đó, đường kính
tản nấm thấp nhất trên môi trường WA chỉ đạt
4,2 ± 0,05 cm và sau 6 ngày nuôi cấy, nấm mới phát
triển phủ kín bề mặt đĩa môi trường. Sau 7 ngày
nuôi cấy, đường kính tản nấm đạt 7,1 ± 0,06 và
5,9 ± 0,11 cm trên môi trường Czapek và WA, tương
ứng (Bảng 2).
Nấm S. pseudopedicellatum được nuôi cấy trên
môi trường PDA ở 7 mức pH khác nhau tại điều kiện
nhiệt độ 25oC. Ở các mức pH khác nhau, khả năng
phát triển của nấm là khác nhau. Trên môi trường
PDA, tại mức pH 6 và 6,5 sau 4 ngày nuôi cấy, kích
thước tản nấm đạt 8,5 ± 0,00 cm và nấm phủ kín bề
mặt đĩa petri (Bảng 3). Trong khi đó ở mức pH 4,5
- 5,0 và pH 7,0, sau 5 ngày phát triển kích thước tản
nấm đạt 8,5 ± 0,00 cm và nấm phủ kín bề mặt đĩa petri.
Ở mức pH 4,0, tản nấm chỉ đạt kích thước 6,4 ± 0,17
cm sau 7 ngày nuôi cấy. Khoảng pH 5,5 - 6,5 là phù
hợp cho sự phát triển của nấm S. pseudopedicellatum.
113
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(100)/2019
Bảng 2. Sự phát triển của nấm S. pseudopedicellatum trên các loại môi trường khác nhau
(Viện Bảo vệ thực vật, 2016)
Môi trường
Kích thước tản nấm (cm) sau ... ngày
3 4 5 6 7
WA 2,2 ± 0,03e 3,3 ± 0,06e 4,2 ± 0,05e 5,1 ± 0,07d 5,9 ± 0,11c
BĐ 3,2 ± 0,00c 5,2 ± 0,02c 7,2 ± 0,05c 8,0 ± 0,02b 8,5 ± 0,00a
Czapek 2,9 ± 0,04d 4,0 ± 0,02d 5,1 ± 0,06d 6,2 ± 0,06c 7,1 ± 0,06b
CA 4,3 ±0,03b 6,3 ± 0,03b 8,1b ± 0,02b 8,5 ± 0,00a -
PDA 5,3 ± 0,03a 8,0 ± 0,02a 8,5 ± 0,00a - -
CV (%) 2,80 1,45 1,54 1,60 1,77
LSD0,05 0,14 0,10 0,14 0,15 0,19
Ghi chú: -: Sợi nấm đã phát triển phủ kín bề mặt đĩa Petri có đường kính 9 cm.
Bảng 3. Sự phát triển của nấm S. pseudopedicellatum
ở các mức pH khác nhau
(Viện Bảo vệ thực vật, 2016)
Mức pH
Kích thước tản nấm (cm)
sau ngày nuôi cấy
3 4 5
4,0 3,0e ± 0,02 4,0f ± 0,04 4,9b ± 0,03
4,5 4,3d ± 0,05 6,4e ± 0,03 8,5a ± 0,00
5,0 4,9c ± 0,05 7,6d ± 0,04 8,5a ± 0,00
5,5 5,4b ± 0,04 8,4b ± 0,02 -
6,0 5,7a ± 0,08 8,5a ± 0,00 -
6,5 5,7a ± 0,11 8,5a ± 0,00 -
7,0 5,3b ± 0,04 8,1c ± 0,02 8,5a ± 0,00
CV (%) 2,87 0,88 0,41
LSD0,05 0,18 0,85 0,04
Nấm S. pseudopedicellatum được nuôi cấy trên
môi trường PDA ở các điều kiện nhiệt độ 15, 20, 25
và 30oC. Thí nghiệm được tiến hành tại phòng thí
nghiệm Bộ môn Chẩn đoán giám định dịch hại và
thiên địch - Viện Bảo vệ thực vật. Ở mức nhiệt độ
15oC, nguồn nấm phát triển yếu, sau 6 ngày nuôi
cấy, kích thước tản nấm chỉ đạt 5,7 cm. Khi nhiệt độ
tăng lên, sự phát triển của tản nấm cũng tăng lên, và
nấm phát triển mạnh nhất ở mức nhiệt độ 25oC. Sau
5 ngày nuôi cấy, tản nấm có kích thước lớn nhất đạt
8,5 ± 0,00 cm. Khi nhiệt độ tăng lên 30oC, sự phát
triển của nấm có xu hướng giảm, sau 6 ngày kích
thước tản nấm chỉ đạt 6,4 cm (Bảng 4).
Bảng 4. Sự phát triển của nấm S. pseudopedicellatum
ở các điều kiện nhiệt độ khác nhau
(Viện Bảo vệ thực vật, 2016)
Mức
nhiệt
độ (oC)
Đường kính tản nấm (cm)
sau ngày
3 4 5 6
15 2,4c ± 0,03 3,2c ± 0,04 4,3d ± 0,06 5,7c ± 0,08
20 3,2b ± 0,1 4,6b ± 0,03 5,8b ± 0,03 7,2a ± 0,03
25 5,3a ± 0,03 8,0a ± 0,02 8,5a ± 0,00 -
30 3,2b ± 0,07 4,4c ± 0,07 5,3c ± 0,03 6,4b ± 0,03
CV (%) 4,31 2,15 1,33 0,63
LSD0,05 0,21 0,15 0,11 0,06
3.3.2. Ảnh hưởng của một số điều kiện sinh thái đến
sự phát sinh và gây hại của bệnh dán cao
Kết quả điều tra ảnh hưởng của độ cao nương
chè với điều kiện khí hậu đến bệnh dán cao hại chè
tại Thị trấn Nông trường Cờ Đỏ trên giống chè Kim
Tuyên trong năm 2017 cho thấy, bệnh dán cao gây
hại liên tục từ tháng 1 đến tháng 11, bệnh phát triển
mạnh vào khoảng tháng 9, 10 và 11; trong đó, tháng
11 bệnh gây hại nặng nhất ở cả 3 vùng đỉnh đồi,
sườn đồi và chân đồi với tỷ lệ bệnh lần lượt là 6,0; 8,2
và 6,6%. Sự gây hại của bệnh dán cao phụ thuộc vào
độ cao nương chè. Ở đinh đồi, bệnh dán cao gây hại
thấp nhất với tỷ lệ bệnh từ 3,4 - 6,0%; trong khi đó,
ở chân đồi tỷ lệ bệnh từ 4,8 - 6,6%; bệnh dán cao gây
hại mạnh nhất ở sườn đồi với tỷ lệ bệnh từ 6,2 - 8,2%.
Tháng 1 - 2 là thời gian chè được đốn tỉa và phun
thuốc, các loại bộ phận bị nhiễm bệnh dán cao như
cành, lá được loại bỏ, đồng thời nhiệt độ và lượng
mưa thấp không thích hợp cho nấm phát triển. Do
vậy, tỷ lệ bệnh thấp nhất trong các kỳ điều tra. Khi
nhiệt độ và lượng mưa tăng lên, tạo điều kiện thích
hợp cho bệnh phát sinh và gây hại nặng hơn.
114
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(100)/2019
Hình 5. Diễn biến tỷ lệ bệnh (%) trên giống chè kim tuyên tại Mộc Châu - Sơn La năm 2017
IV. KẾT LUẬN
- Bệnh dán cao hại chè tại Mộc Châu-Sơn La
do nấm Septobasidium pseudopedicellatum gây ra.
Nấm gây hại trên cành và lá cây. Nấm có thời gian ủ
bệnh trên lá 18,5 ngày, trên cành là 15,6 ngày. Nấm
phát triển tốt nhất trên môi trường PDA ở mức
pH 5,5 - 6,5, ngưỡng nhiệt độ 25oC.
- Bệnh dán cao phát sinh và gây hại ở đỉnh đồi,
sườn đồi và chân đồi. Bệnh gây hại mạnh nhất ở
sườn đồi, gây hại thấp nhất ở đỉnh đồi.
LỜI CẢM ƠN
Nội dung của bài báo là kết quả phối hợp nghiên
cứu giữa Viện Bảo vệ thực vật và Viện Khoa học Kỹ
thuật Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc thuộc
đề tài cấp Bộ Nông nghiệp và PTNT “Nghiên cứu
bệnh dán cao, bệnh thối rễ hại chè và biện pháp
quản lý tổng hợp ở các tỉnh miền núi phía Bắc” do
ThS. Trần Đăng Việt - Viện Khoa học Kỹ thuật Nông
Lâm nghiệp miền núi phía Bắc làm chủ nhiệm đề tài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
QCVN 01-38: 2010/BNNPTNT. Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về phương pháp điều tra phát hiện dịch hại
cây trồng.
Đặng Vũ Thị Thanh, 2008. Các loài nấm gây bệnh hại
cây trồng ở Việt Nam. NXB Nông Nghiệp. Hà Nội.
Nguyễn Văn Toàn và Phạm Văn Lầm, 2014. Cơ sở khoa
học sản xuất chè an toàn, chất lượng. NXB Nông
nghiệp. Hà Nội. tr 131-190.
Viện Bảo vệ thực vât, 1997. Phương pháp nghiên cứu
bảo vệ thực vật tập 1. NXB Nông nghiệp. Hà Nội.
tr 46-57.
Doyle J.J., Doyle J.L. ,1990. Isolation of plant DNA from
fresh tissue. Focus 12: 13 - 15.
Lester W. Burgess, Timothy E. Knight, Len Tescoriero,
Phan Thúy Hiền, 2009. Cẩm nang chẩn đoán bệnh
cây. ACIAR publication.
Tamura, K., Stecher, G., Peterson, D., Filipski, A.,
Kumar, S., 2013. MEGA6: Molecular Evolutionary
Genetics Analysis version 6.0. Molecular Biology and
Evolution 30: 2725-2729.
White T.J., Bruns T.D., Lee S.B., Taylor J.W., 1990.
Amplification and direct sequencing of fungal
ribosomal RNA genes for phylogenetics. In: Innis
M.A., Gelfand D.H., Sininsky J.J., White T.J., editors.
PCR protocols: a guide to methods and applications.
San Diego, Academic Press Inc.
Study on Septobasidium pseudopedicellatum
causing velvet blight disease on tea in Moc Chau - Son La
Mai Van Quan, Le Quang Man, Nguyen Thi Huong,
Nguyen Tien Hung, Bui Thi Thu, Tran Dang Viet, Nguyen Thi Thu Ha
Abstract
In this study, the fungus samples were collected and isolated from infected tea variety Kim Tuyen at the tea farm of
Tea Company Co Do, Moc Chau district, Son La province. The primer pair ITS4/ITS5 was used to amplify DNA
with approximate sequence of 530 bp. DNA sequencing and phylogenetic tree analysis indicated that the fungus
S. pseudopedicellatum was the causal agent of velvet blight disease on tea in Moc Chau - Son La. The results from
inoculation experiments indicated that fungus produced typical symptom of velvet blight disease on young leaves
and young branches after 18.5 and 15.6 days, respectively. The most appropriate condition for S. pseudopedicellatum
growing was PDA medium, pH 5.5 - 6.5 and 25oC. The disease infected tea plants from bottom to top of the hill;
especially, it caused more seriously on tea grown in the hillside.
Keywords: Tea (Camellia sinensis), Septobasidium pseudopedicellatum, velvet blight
Ngày nhận bài: 28/12/2018
Ngày phản biện: 11/1/2019
Người phản biện: TS. Trịnh Xuân Hoạt
Ngày duyệt đăng: 14/2/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_nam_septobasidium_pseudopedicellatum_gay_benh_dan.pdf