Nghiên cứu số lượng bạch cầu trong dự báo tổn thương động mạch vành

Số lượng bạch cầu và tổn thương động mạch vành Trong nghiên cứu này, số lượng bạch cầu ở nhóm có hẹp động mạch vành cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm không hẹp động mạch vành (8,78 ± 2,01 x 103/µL so với 7,36 ± 1,34 x 103/µL, p=0,001). Trong nghiên cứu của Cavu soglu và cs [2], số lượng bạch cầu tương ứng của hai nhóm bệnh và nhóm chứng là là 7,7 ± 2,4 so với 7,1 ± 2,1 (x 103/µL), p= 0,018. Avanzas và cs [1] cũng nhận thấy số lượng bạch cầu trung tính trong nhóm hẹp động mạch vành cao hơn hẳn nhóm chứng (4,39 × 103 /µL ± 1,28 so với 3,82 × 103/µL ± 0,77, p = 0.004). Bên cạnh đó, số lượng bạch cầu ≥8100/µL có giá trị tiên đoán tổn thương động mạch vành ở những bệnh nhân chụp mạch vành với độ nhạy và độ đặc hiệu là 69,4%, tăng nguy cơ tổn thương vành lên 5,17 lần. Avanzas và cs [1], chứng minh số lượng bạch cầu trung tính >4300/µL có tỉ số nguy cơ 4,05 (95%CI 1,9 - 10,4; p= 0,038). Ngoài ra, số lượng bạch cầu còn là yếu tố tiên lượng độc lập với mức độ tổn thương nhiều động mạch vành (p= 0,003) và có liên quan đến phân độ nặng tổn thương động mạch vành theo chỉ số Gensini (p= 0,002) tương ứng ở các nhóm 0; 1-10 và >10 điểm là 7.21 ± 1.15; 8.13 ± 1.60 và 8.99 ± 2.26 (x 103/µL), p= 0,002. Jia và cs [6], cho thấy số lượng bạch cầu có giá trị tiên đoán tổn thương động mạch vành theo chỉ số Gensini nhóm 0-4; 4,1-34 và >34 tương ứng là 6.02±1.61; 6.89±2.31 và 8.22±3.54, p< 0,0001. Cavusoglu và cs [2] cũng chứng minh rằng số lượng bạch cầu có liên quan độc lập và có thể tiên đoán tổn thương động mạch vành.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 14 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu số lượng bạch cầu trong dự báo tổn thương động mạch vành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NgHIÊN CứU LÂM SÀNg38 Nghiên cứu số lượng bạch cầu trong dự báo tổn thương động mạch vành Trần Viết An*, Nguyễn Cửu Lợi** *: Trường Đại học Y Dược Cần Thơ. **: Trung tâm Tim mạch – Bệnh viện Trung Ương Huế. Toùm TaéT Đặt vấn đề: Phản ứng viêm là một trong những yếu tố gây bất ổn của mảng vữa động mạch vành. Các thay đổi của bạch cầu trong máu có phản ánh được mức độ tổn thương xơ vữa động mạch vành. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang theo sổ bộ, đối chiếu số lượng bạch cầu trong máu ngoại vi với mức độ tổn thương hẹp động mạch vành (số lượng mạch vành bị tổn thương và điểm số Gensini) trên phim chụp mạch vành, so sánh với nhóm chứng. Kết quả: 72 trường hợp được đưa vào nghiên cứu, trong đó có 36 bệnh nhân có tối thiểu một tổn thương hẹp > 50% của động mạch vành và 36 người chứng. Tuổi trung bình ở nhóm bệnh cao hơn nhóm chứng (68,06 ± 10,34 so với 60,44 ± 13,56 với p <0,01) nhưng các thành phần lipid máu không khác biệt nhau có ý nghĩa thống kê (cholesterol toàn phần: 5,85 ± 0,97 so với 5,36 ± 1,02 với p=0,044; triglyceride: 3,64 ± 2,17 so với 2,87 ± 1,19 với p=0,072; HDL-C: 1,12 ± 0,25 so với 1,13 ± 0,23 với p=0,885; LDL-C: 3,03 ± 1,14 so với 3,07 ± 1,02 với p=0,887). Bạch cầu trong nhóm có tổn thương cao hơn nhóm không có tổn thương động mạch vành một cách có ý nghĩa thống kê (8,78 ± 2,01 so với 7,36 ± 1,34 với p=0,001). Có sự liên quan giữa số lượng bạch cầu và số mạch vành bị tổn thương (p=0,003) cũng như chỉ số Gensini (p=0,002). Số lượng BC > 8100.103 có OR=5,17 với CI = 0,95 và p=0,0013. Kết luận: Số lượng BC trong máu ngoại vi có liên quan với mức độ tổn thương hẹp động mạch vành (số lượng mạch vành bị tổn thương và điểm số Gensini) trên phim chụp mạch vành chọn lọc. ñaët vaán ñeà Xơ vữa động mạch là nguyên nhân chính của bệnh mạch vành. Sinh bệnh học tình trạng mất ổn định mảng vữa là phản ứng viêm tại chỗ, bao gồm rối loạn nội mô, di chuyển bạch cầu, thoái biến các chất ngoại bào và hoạt hóa tiểu cầu [3,5]. Viêm đã được công nhận đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của bệnh lý xơ vữa động mạch [10]. Nhiều chất chỉ điểm viêm hệ thống có thể phản ánh mức độ khác nhau của tình trạng viêm động mạch vành [3]. Nhiều nghiên cứu dịch tễ học và lâm sàng đã chứng minh số lượng bạch cầu là một yếu tố tiên đoán các biến cố tim mạch trong tương lai và có liên quan đến tổn thương động mạch vành [1,6]. Đặc biệt, số lượng bạch cầu có thể dự TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 53 - 2010 39 báo độ trầm trọng của tổn thương động mạch vành [2]. Chụp mạch vành là một thủ thuật xâm nhập được xem như tiêu chuẩn vàng để đánh giá mức độ hẹp động mạch vành. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu tìm hiểu sự liên quan giữa số lượng bạch cầu trong máu ngoại biên với mức độ tổn thương động mạch vành. ñoái töôïng vaø phöông phaùp nghieân cöùu: đối tượng: Những bệnh nhân đau thắt ngực có chỉ định chụp động mạch vành tại phòng Thông tim-Can Thiệp, Trung tâm Tim mạch - Bệnh viện Trung Ương Huế trong thời gian 01/4/2009 - 25/5/2009. Tiêu chí loại trừ: Nhồi máu cơ tim cấp, nhiễm trùng cấp và mạn tính, đang điều trị thuốc suy giảm miễn dịch, đã biết hay nghi ngờ một bệnh ung thư, suy tim sung huyết, suy thận, chấn thương hoặc tai biến mạch máu não dưới 3 tháng. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả - cắt ngang so sánh với nhóm chứng. 1. Phương pháp xét nghiệm: Số lượng bạch cầu: Đếm bạch cầu được thực hiện trên máy cell-DYN 1400 (Hoa Kỳ). Rối loạn lipid máu: Chẩn đoán và đánh giá dựa vào Khuyến cáo Hội Tim mạch Việt Nam 2008 [8]. Định lượng các thành phần lipid huyết tương bằng phương pháp so màu enzyme theo kỹ thuật Chop - Pap và xử dụng test kit của hãng Boehringer Mannheim Nhật Bản. 2. Chụp động mạch vành: Chỉ định chụp động mạch vành theo khuyến cáo 2008 của Hội Tim mạch học Việt Nam [7] bằng máy chụp mạch DSA hiệu Phillip Intergris (Hà Lan, 2006) với kỹ thuật Judgkin [9]. Độ hẹp động mạch vành được đánh giá bằng phần mềm QCA, được xem là hẹp có ý nghĩa khi độ hẹp ≥ 50%. Phân độ trầm trọng của tổn thương động mạch vành theo chỉ số Gensini [4]. Hình 1: Điểm tương ứng với độ hẹp. Hình 2: Hệ số của từng đoạn động mạch vành. NgHIÊN CứU LÂM SÀNg40 Điểm hẹp ở mỗi đoạn sẽ được nhân với hệ số của đoạn đó rồi cộng lại với nhau để có điểm số chung cho tổn thương toàn bộ các ĐMV. 3. Phương pháp xử lý số liệu: Phần mềm SPSS 16 và MedCalc 10. Keát quaû: Qua nghiên cứu 72 trường hợp chụp mạch vành có 36 trường hợp có hẹp động mạch vành ≥ 50% và 36 trường hợp nhóm chứng. Bệnh nhân nam giới là 35 trường hợp chiếm 48,6%, tỉ lệ Nam/Nữ = 0,95; tuổi trung bình 64,25 ± 12,57, trong đó độ tuổi ≥60 chiếm 63,9%. Số lượng bạch cầu trung bình 8,07 ± 1,84 (x 103/ µL). Điểm trung bình chỉ số Gensini là 14,85 ± 21,71. Bảng 1. Những đặc điểm chung Đặc điểm Chứng Hẹp ĐMV p Tuổi 60,44 ± 13,56 68,06 ± 10,34 0,009 Cholesterol (mmol/L) 5,36 ± 1,02 5,85 ± 0,97 0,044 Triglycerid (mmol/L) 2,87 ± 1,19 3,64 ± 2,17 0,072 HDL-C (mmol/L) 1,13 ± 0,23 1,12 ± 0,25 0,885 LDL-C (mmol/L) 3,07 ± 1,02 3,03 ± 1,14 0,887 Bạch cầu (x 103/µL) 7,36 ± 1,34 8,78 ± 2,01 0,001 Chỉ số Gensini 5,19 ± 16,17 24,51 ± 22,42 <0,001 Bảng 2. Liên quan giữa số lượng bạch cầu và số động mạch vành bị hẹp >50% Đặc điểm Số lượng động mạch vành hẹp p 0 1 2 3 Bạch cầu (x 103/µL) 7,36 ± 1,34 8,94 ± 1,68 7,67 ± 1,37 9,24 ± 2,98 0,003 Bảng 3. Liên quan giữa số lượng bạch cầu và phân độ trầm trọng của tổn thương động mạch vành theo chỉ số Gensini Đặc điểm Phân độ trầm trọng theo chỉ số Gensini p 0 1 - 10 >10 Bạch cầu (x 103/µL) 7.21 ± 1.15 8.13 ± 1.60 8.99 ± 2.26 0,002 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 53 - 2010 41 Số lượng bạch cầu có giá trị tiên đoán tổn thương động mạch vành. Với điểm cắt số lượng bạch cầu ≥ 8100/µL thì diện tích dưới đường cong (AUC) là 0,718; 95% CI: 0,599 – 0,817; p= 0,0003. Độ nhạy là 69,4% và độ đặc hiệu 69,4%. Bach cau 0 20 40 60 80 100 100 80 60 40 20 0 100-Specificity S en si ti vi ty Bảng 4. Tỉ suất chênh (OR) của một số yếu tố dự báo nguy cơ. Đặc điểm OR (95% CI) Giá trị p Tuổi (≥60) Bạch cầu (≥8100/µL) Cholesterol (>5,2mmol/L) 3,50 (1,26 – 9,72) 5,17 (1,89 – 14,08) 3,47 (1,29 – 9,33) 0,01 0,0013 0,013 Baøn luaän 1. đặc điểm chung Độ tuổi trung bình 64,25 ± 12,57 tuổi. Độ tuổi ≥60 chiếm 63,9%, là đối tượng có nguy cơ mắc bệnh động mạch vành tăng cao gấp 3,5 lần so với đối tượng tuổi trẻ (p=0,006). Nồng độ cholesterol toàn phần ở nhóm bệnh nhân có hẹp động mạch vành cao hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng (5,85 ± 0,97mmol/L so với 5,36 ± 1,02mmol/L, p< 0,05). Tăng cholesterol máu (>5,2mmol/L) có nguy cơ hẹp động mạch vành gấp 3,47 lần. Cavusoglu và cs [2] đã chứng minh có sự liên quan giữa tổn thương động mạch vành và tăng cho- lesterol máu (p= 0,025). 2. Số lượng bạch cầu và tổn thương động mạch vành Trong nghiên cứu này, số lượng bạch cầu ở nhóm có hẹp động mạch vành cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm không hẹp động mạch vành (8,78 ± 2,01 x 103/µL so với 7,36 ± 1,34 x 103/µL, p=0,001). Trong nghiên cứu của Cavu- NgHIÊN CứU LÂM SÀNg42 soglu và cs [2], số lượng bạch cầu tương ứng của hai nhóm bệnh và nhóm chứng là là 7,7 ± 2,4 so với 7,1 ± 2,1 (x 103/µL), p= 0,018. Avanzas và cs [1] cũng nhận thấy số lượng bạch cầu trung tính trong nhóm hẹp động mạch vành cao hơn hẳn nhóm chứng (4,39 × 103 /µL ± 1,28 so với 3,82 × 103/µL ± 0,77, p = 0.004). Bên cạnh đó, số lượng bạch cầu ≥8100/µL có giá trị tiên đoán tổn thương động mạch vành ở những bệnh nhân chụp mạch vành với độ nhạy và độ đặc hiệu là 69,4%, tăng nguy cơ tổn thương vành lên 5,17 lần. Avanzas và cs [1], chứng minh số lượng bạch cầu trung tính >4300/µL có tỉ số nguy cơ 4,05 (95%CI 1,9 - 10,4; p= 0,038). Ngoài ra, số lượng bạch cầu còn là yếu tố tiên lượng độc lập với mức độ tổn thương nhiều động mạch vành (p= 0,003) và có liên quan đến phân độ nặng tổn thương động mạch vành theo chỉ số Gensini (p= 0,002) tương ứng ở các nhóm 0; 1-10 và >10 điểm là 7.21 ± 1.15; 8.13 ± 1.60 và 8.99 ± 2.26 (x 103/µL), p= 0,002. Jia và cs [6], cho thấy số lượng bạch cầu có giá trị tiên đoán tổn thương động mạch vành theo chỉ số Gensini nhóm 0-4; 4,1-34 và >34 tương ứng là 6.02±1.61; 6.89±2.31 và 8.22±3.54, p< 0,0001. Cavusoglu và cs [2] cũng chứng minh rằng số lượng bạch cầu có liên quan độc lập và có thể tiên đoán tổn thương động mạch vành. Keát luaän Số lượng bạch cầu có liên quan với độ trầm trọng của tổn thương động mạch vành thể hiện bằng số động mạch bị tổn thương và chỉ số Gensini. Số lượng bạch cầu ≥ 8100.103/ µL có giá trị tiên đoán tổn thương động mạch vành với độ nhạy và độ đặc hiệu là 69,4% và OR= 5,17. Tuổi cao (>60 tuổi) có nguy cơ mắc bệnh động mạch vành tăng gấp 3,5 lần. Tăng cholesterol máu có liên quan đến tổn thương động mạch vành 3,47 lần. aBstracts: White blood cells counting in predicting the severity of coronary artery disease Background: Inflammatory reaction is one of factors of the unstability of coronary artery athero- mas. Do changes in white blood cells (WBC) reflect the severity of coronary artery disease. Meth- od and materials: This was a registry study, relating WBC count with the severity of corornary artery disease (number of stenotic arteries and Gensini score) on selected coronary angiography and comparing with controls. Results: 72 cases were studied including 36 patients with at least one coronary artery lesion of >50% stenosis and 36 controls. Mean age was higher in study group than control (68.06 ± 10.34 vs 60.44 ± 13.56, p <0,01) but the lipid elements were not significantly different between two groups (TC: 5.85 ± 0.97 vs 5.36 ± 1.02, p=0.044; TG: 3.64 ± 2.17 vs 2.87 ± 1.19, p=0.072; HDL-C: 1.12 ± 0.25 vs 1.13 ± 0.23, p=0.885; LDL-C: 3.03 ± 1.14 vs 3.07 ± 1.02, p=0.887). WBC count in study group was statistically higher than in controls (8.78*103 ± 2,01103 vs 7.36103 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 53 - 2010 43 ± 1.34103, p=0.001). There was an association of WBC count with numbers of stenotic coronary artery (p=0.003) as well as Gensini score (p=0.002). OR of WBC count > 8.1*103 was 5.17 at CI=95% and p=0.0013. Conclusions: WBC count was associated with the severity of coronary artery dis- ease as reflected by number of stenotic arteries and Gensini score. taøi lieäu tham Khaûo Avanzas P, Arroyo-Espliguero R et al 1. (2004). Multiple complex stenoses, high neutrophil count and C-reactive protein levels in patients with chronic stable an- gina. Atherosclerosis, 175, pp. 151–157. Cavusoglu E, Chopra V, Gupta A et al 2. (2006). Usefulness of the White blood cell count as a predictor of angiographic find- ings in an unselected population referred for coronary angiography. Am J Cardiol, 98, pp. 1189 –1193. Drakopoulou M, Toutouzas K , Stefanadi 3. E et al (2009). Association of inflamma- tory markers with angiographic sever- ity and extent of coronary artery disease. Atherosclerosis, 206, pp. 335-339. Gensini G.G. (1984). Coronary arteriog-4. raphy. In: Braunwald’s Heart disease. Saun- ders, 2nd edition, pp. 304-343. Hingorani AD, Shah T, Casas JP et al 5. (2009). C-reactive protein and coronary heart disease: predictive test or therapeu- tic target?. Clin Chem, 55, pp. 239-255. Jia EJ, Yang ZJ, Yuan B et al (2005). Re-6. lationship between leukocyte count and angiographical characteristics of coro- nary atherosclerosis. Acta Pharmacologica Sinica, 26 (9), pp. 1057–1062. Phạm Gia Khải và cs. Khuyến cáo 2008 7. của Hội Tim mạch học Việt Nam về xử trí bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính (Đau thắt ngực ổn định) (2008). Trong: Khuyến cáo 2008 về các bệnh lý tim mạch và chuyển hóa. NXB Y học, tr 329-350. Đặng Vạn Phước và cs. Khuyến cáo 2008 8. của Hội Tim mạch học Việt Nam về chẩn đoán và điều trị rối loạn lipid máu (2008). Trong: Khuyến cáo 2008 về các bệnh lý tim mạch và chuyển hóa. NXB Y học, tr 476-502. Jeffrey J.Popma (2008). Coronary arte-9. riography and intravascular imaging. In: Braunwald’s Heart disease. Saunders, 8nd edition, pp. 465-499. Ross R (1999). Atherosclerosis: an 10. inflammatory disease. N Engl J Med, 340, pp. 115–26.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_so_luong_bach_cau_trong_du_bao_ton_thuong_dong_ma.pdf
Tài liệu liên quan