Nghiên cứu về vai trò của các cytokine ở
bệnh nhân hội chứng truyền máu song thai, Fox
và cộng sự năm 2014 đã đưa ra giả thuyết về sự
bất thường biểu hiện của các cytokine trong bệnh
nhân có hội chứng truyền máu song thai do việc
phẫu thuật bằng tia laser như hiện tượng giải
phóng cytokine cục bộ. Nghiên cứu được thực
hiện trong mẫu huyết tương và nước ối của thai
phụ có hội chứng truyền máu song thai và nhận
thấy trong nước ối của các thai phụ có hội chứng
truyền máu song thai, interleukin IL-6, IL-1β,
yếu tố hoại tử khối u (TNF-α), IL-10, IL-4, IL-8
và TIMP-1 có nồng độ cao hơn trong nước ối so
với trong huyết tương. Nghiên cứu cũng cho thấy
không có sự khác biệt đáng kể về nồng độ các
cytokine sau can thiệp điều trị bằng laser trong
huyết tương và nước ối của các bệnh nhân ngoại
trừ yếu tố tăng trưởng biểu bì trong nước ối giảm
sau điều trị so với trước điều trị (Fox et al., 2014).
Nghiên cứu của chúng tôi ở mẫu huyết tương cho
thấy sự tương đồng trong kết quả biểu hiện của
IL-8. Tuy nhiên sau điều trị bằng phẫu thuật,
nồng độ IL-6 ở những bệnh nhân trong nghiên
cứu của chúng tôi có sự tăng lên. Mức độ biểu
hiện của IL-6 tăng cao trong huyết tương của
bệnh nhân sau điều trị so với trước điều trị cho
thấy vai trò của IL-6 trong đáp ứng điều trị ở
những bệnh nhân có hội chứng truyền máu song
thai. IL-6 có thể trở thành marker cho tiên lượng
điều trị bằng phương pháp phẫu thuật cho những
bệnh nhân hội chứng truyền máu song thai.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 14 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sự biểu hiện một số Interleukin ở bệnh nhân có hội chứng truyền máu song thai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 417-423, 2020
417
NGHIÊN CỨU SỰ BIỂU HIỆN MỘT SỐ INTERLEUKIN Ở BỆNH NHÂN CÓ HỘI
CHỨNG TRUYỀN MÁU SONG THAI
Nguyễn Duy Ánh1, Nguyễn Thị Sim1,, Phan Huyền Thương1, Trần Thị Phương Thảo2, Hoàng
Văn Tổng2, Nguyễn Duy Bắc2, Lương Thị Lan Anh3, Thân Thị Thu Cảnh3
1Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
2Viện nghiên cứu Y Dược học Quân sự, Học viện Quân y
3Trường Đại học Y Hà Nội
Người chịu trách nhiệm liên lạc. E-mail: bacsisim@gmail.com
Ngày nhận bài: 02.7.2020
Ngày nhận đăng: 20.9.2020
TÓM TẮT
Hội chứng truyền máu song thai là một hội chứng nghiêm trọng xảy ra ở các ca song thai có 2
buồng ối nhưng chung một bánh rau với nguy cơ tử vong cho thai nhi cao và có nguy cơ dị tật bẩm
sinh nếu không được điều trị can thiệp trong bào thai kịp thời. IL-1β, IL-6 và IL-8 đã được cho rằng
có vai trò đối với sinh non ở thai đôi, một trong những hậu quả của hội chứng truyền máu song thai.
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp ELISA để định lượng nồng độ IL-1β, IL-6 và IL-8 trong huyết
tương của thai phụ mang thai đôi có (n = 52) và không có (n = 73) hội chứng truyền máu song thai
và tìm ra mối liên quan giữa mức độ biểu hiện các interleukin và hội chứng truyền máu song thai. Kết
quả cho thấy nồng độ của IL-1β và IL-8 trong huyết tương có biểu hiện thấp và không có sự khác biệt
giữa ba tháng thứ nhất và ba tháng thứ hai của thai kỳ, giữa nhóm bệnh nhân có và không có hội
chứng truyền máu hoặc giữa những bệnh nhân có hội chứng truyền máu song thai trước và sau điều
trị. IL-6 không có sự khác biệt giữa ba tháng thứ nhất và ba tháng thứ hai của thai kỳ hay giữa nhóm
bệnh nhân có và không có hội chứng truyền máu nhưng tăng cao ở những bệnh nhân hội chứng truyền
máu song thai sau phẫu thuật so với trước phẫu thuật. Như vậy, IL-6 có khả năng trở thành một marker
cho tiên lượng điều trị hội chứng truyền máu song thai bằng phẫu thuật.
Từ khóa: Hội chứng truyền máu song thai, IL-1β, IL-6, IL-8
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mang thai đôi có nhiều biến chứng chu sinh
hơn so với thai đơn như sinh non, thai chết lưu,
bất thường trong tăng trưởng của thai nhi và đặc
biệt là hội chứng truyền máu song thai (Sebire et
al., 2000; Martin et al., 2003; The American
College of Obstetricians and Gynecologists
Committee on Practice Bulletins-Obstetrics,
2004). Hội chứng truyền máu song thai là một
biến chứng nghiêm trọng xảy ra trong khoảng 5,5
- 17,5% các ca song thai chung một bánh rau
(monochorionic twin) (Quintero 2003) và xuất
hiện ở 0,07% ở tất cả các trường hợp mang thai
với khoảng 2800 ca tại Hoa Kỳ mỗi năm
(Mathews, MacDorman, 2011). Hội chứng
truyền máu song thai là một trong những biến
chứng chu sinh nguy hiểm nhất với tỷ lệ tử vong
thai nhi cao, lên tới 80% - 100% và có nguy cơ
dị tật bẩm sinh 15% - 50% ở những trẻ sống sót
mà không qua điều trị (Yamamoto et al., 2005).
Nguyên nhân dẫn tới hội chứng truyền máu song
thai chưa được hiểu đầy đủ, tuy nhiên có thể nhận
thấy sự thông nhau giữa các mạch máu
(Anastomoses) nhau thai là cơ sở khởi đầu của
hội chứng truyền máu song thai mặc dù truyền
máu giữa hai thai đôi thường là hiện tượng ổn
định và cân bằng ở các cặp song thai một bánh
Nguyễn Duy Ánh et al.
418
rau. Hiện tượng mất cân bằng truyền máu mạn
tính ở các mạch máu nhau thai có thể dẫn tới hội
chứng truyền máu song thai (Denbowet al.,
2000). Trên màng đệm có bốn loại truyền máu
giữa hai mạch máu (anastomosis) đã được mô tả
bao gồm: phần mạch máu nối nhau trên bề ngoài
của màng đệm (superficial anastomoses) có tính
hai chiều, có thể là động mạch - động mạch hoặc
tĩnh mạch - tĩnh mạch; trong khi truyền máu động
mạch - tĩnh mạch hoặc tĩnh mạch - động mạch có
tính đơn hướng và hướng đi sâu vào trong nhau
thai [8]. Hội chứng truyền máu song thai sảy ra
khi có ít nhất một bệnh lý liên quan đến sự truyền
máu giữa động mạch - tĩnh mạch ở nhau thai, qua
đó máu không được truyền đồng đều từ một thai
nhi sang thai nhi còn lại (Lewi et al., 2006). Sự
truyền máu không đồng đều giữa hai thai nhi dẫn
tới một thai nhận nhiều máu (thai nhận) và một
thai nhận quá ít máu (thai cho). Hậu quả dẫn tới
với thai nhận là khả năng bị suy tim vì hệ tuần
hoàn luôn phải hoạt động quá mức (Szwast,
Rychil, 2005). Bên cạnh đó, thai cho lại có thể bị
thiếu máu trầm trọng dẫn tới không đủ dinh
dưỡng và oxi, có nguy cơ dẫn tới tử vong. Mặt
khác, do thai cho nhận quá ít máu dẫn tới có
lượng chất lỏng tuần hoàn thấp bất thường trong
cơ thể (giảm kali máu) làm cho thận của trẻ có
thể ngừng sản xuất nước tiểu (Mahieu-Caputo et
al., 2001). Ngoài ra, hội chứng truyền máu song
thai còn dẫn tới những hậu quả như đẻ non và
nhiễm trùng ối.
Trong một báo cáo cho thấy sự trao đổi chất
của người mẹ mang thai đôi có hội chứng truyền
máu được điều trị thông qua phẫu thuật nội soi
bằng laser cho thấy sự khởi đầu của hội chứng
truyền máu song thai có liên quan đến rối loạn trao
đổi chất ở mẹ (De Lia et al.,2000). Sự thay đổi
trong mức độ biểu hiện interleukin-6 (IL-6) ở mẹ
đã được báo cáo có liên quan trực tiếp đến hội
chứng truyền máu song thai ở trẻ (Bowen et al.,
2002a). Nồng độ IL-6 tăng cao trong nước ối của
mẹ có liên quan chặt chẽ với sinh non và cần được
chú ý trong lâm sàng dự đoán sinh non và hướng
dẫn chăm sóc bệnh nhân (El-Bastawissi et al.,
2000). Nghiên cứu về IL-1, IL-6 và IL-8 trong
những thai phụ mang thai đôi cho thấy IL-8 có liên
quan đến nguy cơ sinh non tuy nhiên sự liên quan
này chưa chặt chẽ để có thể sử dụng IL-8 như một
marker tiên lượng sinh non ở những bệnh nhân
thai đôi (Wennerhoim et al., 1998). Nghiên cứu
của chúng tôi sử dụng phương pháp ELISA để
định lượng nồng độ IL-1β, IL-6 và IL-8 trong
huyết tương của những thai phụ mang thai đôi có
hội chứng truyền máu song thai hoặc không có hội
chứng truyền máu song thai nhằm mục đích đánh
giá nồng độ IL-1β, IL-6 và IL-8 để tìm ra mối liên
quan giữa mức độ biểu hiện các interleukin và hội
chứng truyền máu song thai.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng nghiên cứu
Tổng số 79 bệnh nhân song thai tại Bệnh viện
Phụ Sản Hà Nội được chia làm hai nhóm là bệnh
nhân song thai không hội chứng truyền máu (n =
49) và bệnh nhân song thai có hội chứng truyền
máu (n = 30). Trong số 49 bệnh nhân song thai
không hội chứng truyền máu, mẫu máu được lấy
tại hai thời điểm là ba tháng thứ nhất (n = 42) và
ba tháng thứ hai (n = 31). Trong số 30 bệnh nhân
có hội chứng song thai thì mẫu máu được lấy ở
hai thời điểm là ba tháng thứ nhất (n = 31) và ba
tháng thứ hai (n = 21). Trong số 30 bệnh nhân có
hội chứng song thai, 9 bệnh nhân được điều trị
bằng phẫu thuật và mẫu máu được lấy trước (n =
9) và sau điều trị (n = 9). Các bệnh nhân thuộc
các phân nhóm tham gia nghiên cứu đều đã được
chẩn đoán bằng các xét nghiệm lâm sàng và cận
lâm sàng. Các quy trình lấy mẫu và chăm sóc
bệnh nhân được thực hiện đúng pháp luật và quy
định của Bệnh viện Phụ sản Hà Nội.
Đo nồng độ IL-1β, IL-6, IL-8 bằng phương
pháp ELISA
Mẫu máu ngoại vi của những bệnh nhân
thuộc các nhóm nghiên cứu sau khi thu thập được
tách lấy huyết tương và bảo quản ở nhiệt độ -
80oC cho đến khi thực hiện thí nghiệm đo nồng
độ IL-1β, IL-6, IL-8 bằng phương pháp ELISA.
Nồng độ của IL-1β được định lượng bằng bộ sinh
phẩm Human IL-1β Instant ELISA Kit
(Invitrogen) với ngưỡng phát hiện là 7,8 pg/mL.
Nồng độ của IL-6 được định lượng bằng bộ sinh
phẩm Human IL-6 Instant ELISA Kit
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 417-423, 2020
419
(Invitrogen) với ngưỡng phát hiện là 3,1 pg/mL.
Nồng độ của IL-8 được định lượng bằng bộ sinh
phẩm Human IL-8/NAP-1 Instant ELISA Kit
(Invitrogen) với ngưỡng phát hiện là 15,6
pg/mL.Quy trình thực hiện thí nghiệm được tuân
thủ theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Phân tích thống kê
Số liệu được thu thập và nhập vào excel 2013
sau đó được phân tích bằng phần mềm SPSS
v.20. Kiểm định sự khác biệt giữa các biến định
lượng không phân bố chuẩn giữa lần lấy mẫu lặp
lại trên cùng bệnh nhân sử dụng phương pháp
kiểm định phi tham số Wilcoxon. Kiểm định sự
khác biệt giữa các biến định lượng không phân
bố chuẩn từ hai nhóm bệnh nhân khác nhau sử
dụng phương pháp kiểm định Mann-Whitney U
test. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong các
phân tích so sánh khi giá trị p < 0,05.
KẾT QUẢ
Mức độ biểu hiện IL-1β, IL-6 và IL-8 ở bệnh
nhân song thai không hội chứng truyền máu
giữa các lần lấy mẫu
Khi phân tích biểu hiện nồng độ của IL-1β,
IL-6 và IL-8 ở nhóm bệnh nhân song thai không
hội chứng truyền máu nhận thấy, mức độ biểu
hiện của IL-6 không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa ba tháng đầu và ba tháng thứ hai
(Hình 1) trong khi đó mức độ biểu hiện của IL-
1β và IL-8 ở cả hai nhóm đều dưới ngưỡng phát
hiện của kit xác định.
Hình 1. Mức độ biểu hiện của IL6 ở nhóm bệnh nhân song thai không hội chứng truyền máu giữa ba tháng thứ
nhất và ba tháng thứ hai.
Mức độ biểu hiện IL-1β, IL-6 và IL-8 ở bệnh
nhân có hội chứng truyền máu song thai giữa
các lần lấy mẫu
Kết quả đánh giá mức độ biểu hiện của IL-
1β, IL-6 và IL-8 ở nhóm bệnh nhân có hội chứng
truyền máu song thai giữa ba tháng đầu và ba
tháng thứ hai cho thấy mức độ biểu hiện của IL-
1βvà IL-8 gần như là dưới ngưỡng phát hiện của
kit xác định, một số mẫu có giá trị nồng độ IL-6
xác định được và thường là những mẫu lấy ở lần
1 (Hình 2). IL-6 có mức độ biểu hiện cao hơn
trong nhóm lấy mẫu lần 2, tuy nhiên sự khác
nhau này chưa có ý nghĩa thống kê (Hình 2).
Mức độ biểu hiện IL-1β, IL-6 và IL-8 ở bệnh
nhân song thai có và không hội chứng truyền
máu song thai
Kết quả phân tích mức độ biểu hiện của các
interleukin IL-1β, IL-6 và IL-8 ở hai nhóm bệnh
nhân cho thấy, IL-1β và IL-8 gần như có mức
biểu hiện dưới ngưỡng phát hiện của kit, một số
mẫu có mức độ biểu hiện xác định được nằm
trong nhóm có hội chứng truyền máu (Hình 3).
Mức độ biểu hiện của IL-6 cao hơn ở nhóm song
thai không hội chứng truyền máu nhưng sự khác
biệt này chưa có ý nghĩa thống kê.
Nguyễn Duy Ánh et al.
420
Hình 2. Mức độ biểu hiện của IL-1β, IL-6 và IL-8 ở nhóm bệnh nhân có hội chứng truyền máu song thai giữa ba
tháng thứ nhất và ba tháng thứ hai
Hình 3. Mức độ biểu hiện IL-1β, IL-6 và IL-8 giữa nhóm bệnh nhân song thai không hội chứng truyền máu và
nhóm có hội chứng truyền máu song thai
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 417-423, 2020
421
Hình 4. Mức độ biểu hiện IL-6 ở những bệnh nhân có hội chứng truyền máu song thai trước và sau phẫu thuật
Mức độ biểu hiện IL-1β, IL-6 và IL-8 ở bệnh
nhân có hội chứng truyền máu song thai trước
và sau phẫu thuật
Đối với những bệnh nhân có hội chứng
truyền máu song thai, tiếp tục đánh giá mức độ
biểu hiện của IL-1β, IL-6 và IL-8 ở nhóm bệnh
nhân trước phẫu thuật và sau phẫu thuật cho thấy
mức độ biểu hiện của IL-1β và IL-8 đều dưới
ngưỡng phát hiện của kit. Bên cạnh đó, mức độ
biểu hiện của IL-6 tăng cao ở những bệnh nhân
có hội chứng truyền máu song thai sau phẫu thuật
so với trước phẫu thuật (p = 0,04) (Hình 4).
BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi đã đánh giá mức
độ biểu hiện của các interleukin IL-1β, IL-6 và
IL-8 nhận thấy nồng độ IL-1β và IL-8 không
được biểu hiện và ở mức dưới ngưỡng phát hiện
của kit ở các mẫu huyết tương từ bệnh nhân song
thai không có hội chứng truyền máu và bệnh
nhân có hội chứng truyền máu song thai. Trong
đó, biểu hiện của IL-6 không có khác biệt giữa
ba tháng thứ nhất và ba tháng thứ hai ở hai nhóm
bệnh nhân song thai không hội chứng truyền máu
và có hội chứng truyền máu song thai hay giữa
hai nhóm bệnh nhân với nhau. Tuy nhiên, đối với
những bệnh nhân có hội chứng truyền máu song
thai đã được điều trị bằng phẫu thuật thì nồng độ
IL-6 tăng cao trong huyết tương sau phẫu thuật
so với trước phẫu thuật. Kết quả này cho thấy IL-
6 có thể được sử dụng để đánh giá kết quả điều
trị bằng phẫu thuật.
Các cytokine từ các tế bào Th1 có liên quan
đến các phản ứng viêm bao gồm giải phóng
interferon (IFN)-γ, yếu tố hoại tử u (TNF-α) và
interleukin (IL-2, IL-6, IL-12, IL-1β) (Berger,
2000). Cytokine được xác định biểu hiện trong
nhau thai, màng rụng và màng bào thai trong thai
kỳ bình thường, cytokine cũng được đánh giá có
vai trò quan trọng cân bằng nội môi và chức năng
của nhau thai người mẹ (Bowen et al., 2002a).
Các interleukin gây viêm như IL-6 và IL-1β đã
được sản xuất bởi các tế bào rụng và màng bào
thai có liên quan đến hiện tượng sinh non tự phát
cũng như liên quan đến các phản ứng nhiễm
trùng ở thai phụ (Bowen et al., 2002b). IL-6 là
một cytokine được biết đến với sự liên quan trực
tiếp đến hội chứng truyền máu song thai (et al.,
2011). Việc đánh giá mức độ biểu hiện của các
interleukin ở những bệnh nhân hội chứng truyền
máu song thai nhằm mục đích tìm hiểu sâu hơn
về vai trò chức năng của interleukin ở những
bệnh nhân hội chứng truyền máu song thai.
Nghiên cứu về vai trò của các cytokine ở
bệnh nhân hội chứng truyền máu song thai, Fox
và cộng sự năm 2014 đã đưa ra giả thuyết về sự
bất thường biểu hiện của các cytokine trong bệnh
nhân có hội chứng truyền máu song thai do việc
phẫu thuật bằng tia laser như hiện tượng giải
phóng cytokine cục bộ. Nghiên cứu được thực
hiện trong mẫu huyết tương và nước ối của thai
phụ có hội chứng truyền máu song thai và nhận
Nguyễn Duy Ánh et al.
422
thấy trong nước ối của các thai phụ có hội chứng
truyền máu song thai, interleukin IL-6, IL-1β,
yếu tố hoại tử khối u (TNF-α), IL-10, IL-4, IL-8
và TIMP-1 có nồng độ cao hơn trong nước ối so
với trong huyết tương. Nghiên cứu cũng cho thấy
không có sự khác biệt đáng kể về nồng độ các
cytokine sau can thiệp điều trị bằng laser trong
huyết tương và nước ối của các bệnh nhân ngoại
trừ yếu tố tăng trưởng biểu bì trong nước ối giảm
sau điều trị so với trước điều trị (Fox et al., 2014).
Nghiên cứu của chúng tôi ở mẫu huyết tương cho
thấy sự tương đồng trong kết quả biểu hiện của
IL-8. Tuy nhiên sau điều trị bằng phẫu thuật,
nồng độ IL-6 ở những bệnh nhân trong nghiên
cứu của chúng tôi có sự tăng lên. Mức độ biểu
hiện của IL-6 tăng cao trong huyết tương của
bệnh nhân sau điều trị so với trước điều trị cho
thấy vai trò của IL-6 trong đáp ứng điều trị ở
những bệnh nhân có hội chứng truyền máu song
thai. IL-6 có thể trở thành marker cho tiên lượng
điều trị bằng phương pháp phẫu thuật cho những
bệnh nhân hội chứng truyền máu song thai.
KẾT LUẬN
Có sự tăng cao mức biểu hiện IL-6 ở những
bệnh nhân hội chứng truyền máu song thai sau
phẫu thuật so với những bệnh nhân trước phẫu
thuật. Sự thay đổi biểu hiện IL-6 ở bệnh nhân hội
chứng truyền máu song thai trước và sau phẫu
thuật cho thấy vai trò của IL-6 trong đánh giá đáp
ứng điều trị phẫu thuật ở bệnh nhân. Đây có thể
là marker cho tiên lượng đáp ứng điều trị ở những
bệnh nhân có hội chứng truyền máu song thai.
Lời cảm ơn: Chúng tôi xin chân thành cảm ơn
các bệnh nhân đã đồng ý tham gia vào nghiên
cứu này. Nghiên cứu này được tài trợ bởi đề tài
mã số KC.10.09/16-20.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
BergerA (2000) Th1 and Th2 responses: what are
they? BMJ 321(7258): 424.
Bowen JM, Chamley L, Mitchell MD, Keelan JA
(2002a) Cytokines of the placenta and extra-placental
membranes: biosynthesis, secretion and roles in
establishment of pregnancy in women. Placenta
23(4): 239-256.
Bowen JM, Chamley L, Keelan JA, Mitchell MD
(2002b) Cytokines of the placenta and extra-placental
membranes: roles and regulation during human
pregnancy and parturition. Placenta 23(4): 257-273.
Cobo T, Palacio M, Eixarch E, Crispi F, Mercadé I,
Martínez-Crespo JM, Gratacós E (2011) Clinical and
biochemical predictors of very preterm birth in twin-
to-twin transfusion syndrome treated by fetoscopy,
Am J Obstet Gynecol 204(1): e1-58.e585.
De Lia JE, Kuhlmann RS, Emery MG (2000)
Maternal metabolic abnormalities in twin-to-twin
transfusion syndrome at mid-pregnancy. Twin Res
3(2): 113-117.
Denbow ML, Cox P, Taylor M, Hammal DM, Fisk
NM (2000) Placental angioarchitecture in
monochorionic twin pregnancies: relationship to fetal
growth, fetofetal transfusion syndrome, and
pregnancy outcome. Am J Obstet Gynecol 182(2):
417-426.
El-Bastawissi AY, Williams MA, Riley DE, Hitti J,
Krieger JN (2000) Amniotic fluid interleukin-6 and
preterm delivery: a review. Obstet Gynecol 95(6 Pt
2): 1056-1064.
Fox CE, Lash GE, Pretlove SJ, Chan BC, Holder R,
Kilby MD, (2014) Maternal plasma and amniotic
fluid cytokines in monochorionic, diamniotic twin
pregnancies complicated by twin-to-twin transfusion
syndrome. Fetal Diagn Ther 35(4): 280-288.
Mahieu-CaputoD, Muller F, Joly D, Gubler MC,
Lebidois J, Fermont L, Dumez Y, Dommergues M
(2001) Pathogenesis of twin-twin transfusion
syndrome: the renin-angiotensin system hypothesis.
Fetal Diagn Ther 16(4): 241-244.
Martin JA, Hamilton BE, Sutton PD, Ventura SJ,
Menacker F, Munson ML (2005) Births: final data for
2003. Natl Vital Stat Rep 54(2): 1-116.
Mathews TJ, MacDorman MF (2011) Infant mortality
statistics from the 2007 period linked birth/infant
death data set. Natl Vital Stat Rep 59(6): 1-30.
Lewi L, Jani J, Cannie M, Robyr R, Ville Y, Hecher
K, Gratacos E, Vandecruys H, Vandecaveye V,
Dymarkowski S, Deprest J (2006) Intertwin
anastomoses in monochorionic placentas after
fetoscopic laser coagulation for twin-to-twin
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 417-423, 2020
423
transfusion syndrome: is there more than meets the
eye? Am J Obstet Gynecol 194(3): 790-795.
Quintero RA (2003) Twin-twin transfusion
syndrome.Clin Perinatol 30(3): 591-600.
Sebire NJ, Souka A, Skentou H, Geerts L, Nicolaides
KH (2000) Early prediction of severe twin-to-twin
transfusion syndrome. Hum Reprod 15(9): 2008-
2010.
Szwast A, Rychik J (2005) Current concepts in fetal
cardiovascular disease. Clin Perinatol 32(4): 857-
875, viii.
The American College of Obstetricians and
Gynecologists Committee on Practice Bulletins-
Obstetrics, Society for Maternal-Fetal Medicine;
ACOG Joint Editorial Committee (2004) ACOG
Practice Bulletin #56: Multiple gestation:
complicated twin, triplet, and high-order multifetal
pregnancy. Obstet Gynecol 104(4): 869-883.
YamamotoM, El Mur L, Robyr R, Leleu F, Takahashi
Y, Ville Y (2005) Incidence and impact of peri-
operative complications in 175 fetoscopy-guided
laser coagulations of chorionic plate anastomoses in
fetofetal transfusion syndrome before 26 weeks of
gestation. Am J Obstet Gynecol 193: 1110–1116.
Wennerholm UB, Holm B, Mattsby-Baltzer I, Nielsen
T, Platz-Christensen JJ, Sundell G, Hagberg H (1998)
Interleukin-1alpha, interleukin-6 and interleukin-8 in
cervico/vaginal secretion for screening of preterm
birth in twin gestation. Acta Obstet Gynecol Scand
77(5): 508-514.
STUDY ON THE EXPRESSION OF INTERLEUKINS IN PATIENTS WITH TWIN-
TWIN TRANSFUSION SYNDROME
Nguyen Duy Anh1, Nguyen Thi Sim1, Phan Huyen Thuong1, Tran Thi Phuong Thao2, Hoang
Van Tong2, Nguyen Duy Bac2, Luong Thi Lan Anh3, Than Thi Thu Canh3
1Hanoi Obstetrics and Gynecology Hospital
2Institute of Biomedicine and Pharmacy, Vietnam Military Medical University
3Hanoi Medical University
SUMMARY
Twin-twin transfusion syndrome (TTTS) is an unusual and serious condition that occurs in twin
pregnancies when identical twins share a placenta but develop discordant amniotic fluid volumes.
The TTTS has a high risk of fetal death and birth defects if left untreated. IL-1β, IL-6 and IL-8 have
been shown to play an important role in preterm birth in twin pregnancies, which is one of the
consequences of TTTS. This study quantified plasma levels of IL-1β, IL-6 and IL-8 in twin pregnant
women with (n = 52) and without TTTS (n = 73) by ELISA and analyzed the association of interleukin
expression levels with TTTS. The results showed that plasma concentrations of IL-1β and IL-8 were
low and not significantly different between the first trimester and the second trimester of pregnancy,
between the patients with and without TTTS or between patients with TTTS before and after
treatment. IL-6 levels showed no significant difference between first trimester and second trimester
of pregnancy or between patients with and without TTTS. Importantly, IL-6 levels were significantly
elevated in TTTS patients after surgical treatment compared to those before surgical treatment. In
conclusion, IL-6 may be considered as a potential marker for the prognosis of surgical treatment of
TTTS.
Keywords: Twin-twin transfusion syndrome, IL-1β, IL-6, IL-8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_su_bieu_hien_mot_so_interleukin_o_benh_nhan_co_ho.pdf