Sau bước đồng nuôi cấy, màng giấy lọc được
chuyển sang môi trường PDA có bổ sung kháng
sinh nourseothricin (50 μg/ml) để chọn lọc các
thể chuyển gen. Sau 5 ngày ở 37oC, một số khuẩn
lạc nấm đã xuất hiện trên màng giấy lọc (Hình
3A). Các khuẩn lạc này được cấy chuyển sang môi
trường mới và 5 thể chuyển gen (T1-T5) được chọn
cho tách chiết DNA tổng số. DNA tổng số được sử
dụng để xác nhận sự có mặt của gen chỉ thị GFP nhờ
PCR với cặp mồi đặc hiệu GFP-F/GFP-R. Kết quả
phân tích sản phẩm PCR trên gel agarose 0,8% cho
thấy hệ gen của cả 5 thể chuyển gen đều cho băng
DNA có kích thước 720 bp tương ứng với gen GFP
(Hình 3B). Kết quả quan sát dưới kính hiển vi huỳnh
quang cũng xác nhận sự biểu hiện thành công của
gen GFP trong hệ sợi và bào tử nấm chuyển gen với
tín hiệu huỳnh quang xanh rất rõ nét (Hình 3C).
Các kết quả thu được đã chứng minh rằng gen GFP
đã được tích hợp thành công vào hệ gen của nấm
M. thermophila DSM 1799 nhờ vi khuẩn A. tumefaciens
và marker chọn lọc là gen kháng nourseothricin.
Gần đầy, việc chuyển gen vào nấm M. thermophila
sử dụng vi khuẩn A. tumefaciens đã được thực hiện
thành công với marker là gen kháng hygromycin
(Xuet al., 2015).Tuy nhiên, gen kháng nourseothricin
chưa từng được sử dụng cho chuyển gen ở
M. thermophila. Đây là nghiên cứu đầu tiên chứng
minh gen kháng nourseothricin là một marker chọn
lọc tin cậy để sử dụng cho chuyển gen vào nấm ưa
nhiệt M. thermophila. Kết quả này mở ra triển vọng
trong nghiên cứu biểu hiện gen cũng như nghiên cứu
chức năng của gen ở loài nấm sợi quan trọng này.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sử dụng gen kháng nourseothricin làm marker chọn lọc dùng cho chuyển gen vào nấm ưa nhiệt myceliophthora thermophila nhờ vi khuẩn agrobacterium tumefaciens, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
131
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
Thuy, T.T.T., 2010. Incidence and effect of Meloidogyne
incognita (Nematoda: Meloidogyninae) on black
pepper plants in Vietnam. Thesis, Katholieke Universiteit
Leuven, België. Unpublish.
Trinh, P.Q., W.M. Wesemael, H.A. Tran, C.N. Nguyen,
M. Moens, 2012. Resistance screening of Coffea spp.
accessions for Pratylenchus coffeae and Radopholus
arabocoffeae in Vietnam. Euphytica, 185 (2): 233-241.
Testing of bio-product P1 to control nematodes causing disease
on black pepper in Dak Lak province
Chu Thanh Binh, Tran Van Tuan, Bui Thi Viet Ha
Abstract
Paecilomyces sp. P1 was isolated from pepper soil in Dak Lak province, which was a potential filamentous fungus for
killing nematodes. Bio-product P1 was tested for the ability to kill nematodes at the nursery with the efficiency of
22.2% - 52.48% after 30 days. The black pepper at 5 -7 old age had the yield higher than that of the control by 7.42%
when using bio-product P1 after 12 months on a 3 ha model.
Keywords: Black pepper, nematode, Paecilomyces sp., Bio-product P1
Ngày nhận bài: 17/4/2020
Ngày phản biện: 25/4/2020
Người phản biện: TS. Trương Hồng
Ngày duyệt đăng: 29/4/2020
1 Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại hoc Quốc gia Hà Nội
2 Phòng thí nghiệm Trọng điểm Công nghệ Enzym và Protein, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN
NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG GEN KHÁNG NOURSEOTHRICIN
LÀM MARKER CHỌN LỌC DÙNG CHO CHUYỂN GEN VÀO NẤM ƯA NHIỆT
Myceliophthora thermophila NHỜ VI KHUẨN Agrobacterium tumefaciens
Trần Văn Tuấn1,2
TÓM TẮT
Myceliophthora thermophila là một loài nấm ưa nhiệt có khả săng sinh tổng hợp nhiều loại enzyme bền nhiệt.
Một số enzyme do loài nấm này sinh ra như cellulase, xylanase và phytase có tiềm năng sử dụng để bổ sung vào
thức ăn chăn nuôi. Phát triển công cụ phục vụ cải biến di truyền nhằm tăng khả năng sinh tổng hợp enzyme ở
M. thermophila giữ một vai trò quan trọng. Trong nghiên cứu này, lần đầu tiên gen kháng nourseothricin được
sử dụng thành công làm marker chọn lọc để chuyển gen vào chủng nấm M. thermophila DSM 1799 nhờ vi khuẩn
Agrobacterium tumefaciens. Chủng M. thermophila DSM 1799 được đánh giá về mức độ mẫn cảm với kháng
sinh nourseothricin. Kết quả cho thấy chủng nấm này bị ức chế hoàn toàn ở nồng độ nourseothricin khá thấp
(50 μg/ml). Kết quả nghiên cứu cũng chứng minh gen huỳnh quang GFP được chuyển thành công vào hệ gen của
chủng M. thermophila DSM 1799 khi sử dụng marker chọn lọc là gen kháng nourseothricin. Sử dụng PCR với cặp
mồi đặc hiệu GFP-F/GFP-R đã xác nhận sự có mặt của gen GFP trong hệ gen của các thể chuyển gen thu được. Đặc
biệt khi quan sát dưới kính hiển vi huỳnh quang, các thể chuyển gen đã có khả năng sinh tổng hợp protein GFP để
phát màu huỳnh quang xanh trong hệ sợi và bào tử nấm.
Từ khóa: Chuyển gen thông qua Agrobacterium tumefaciens, Myceliophthora thermophila, marker chọn lọc kháng
nourseothricin, vector nhị thể
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Myceliophthora thermophila được coi như nhà
máy tế bào tiềm năng cho sản xuất các loại enzyme
bền nhiệt (Singh, 2016). Đặc điểm vượt trội của
loài nấm này là có khả năng sinh tổng hợp một số
enzyme có giá trị để bổ sung vào thức ăn chăn nuôi
như cellulase, xylanase giúp chuyển hóa cellulose
và xylan thành các phân tử đường đơn giản, hay
phytase phân giải phytate để giải phóng photpho
vô cơ giúp vật nuôi dễ hấp thụ (Gomes et al., 2019;
Maheshwari et al., 2000). Tuy nhiên, khả năng sinh
tổng hợp các enzyme này của chủng nấm tự nhiên
thường tương đối thấp. Để nâng cao năng lực cho
các chủng tự nhiên, các kỹ thuật về cải biến chỉnh
sửa hệ gen thường được áp dụng. Việc can thiệp
vào hệ gen nấm có thể giúp tăng hiệu suất sinh tổng
132
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
hợp các enzyme mong muốn. Việc cải biến di truyền
thông qua chuyển gen bằng tế bào trần đã được
thực hiện thành công ở nấm M. thermophila (Visser
et al., 2011). Tuy nhiên, quá trình chuẩn bị tế bào trần
cũng như quy trình chuyển gen khá phức tạp, chi
phí cao và không ổn định ở những lần lặp lại. Trong
khi đó, phương pháp chuyển gen thông qua vi khuẩn
Agrobacterium tumefaciens đã được chứng minh là
có hiệu quả cao đối với với nhiều nấm sợi khác nhau
(Michielse et al., 2005). Gen kháng nourseothricin
mã hóa cho nourseothricin acetyltransferase bất
hoạt kháng sinh nourseothricin theo cơ chế acetyl
hóa (Kochupurakkal and Iglehart, 2013). Gen kháng
nourseothricin thường được sử dụng làm marker
chọn lọc trong chuyển gen thông qua A. tumefaciens,
tuy nhiên gen này chưa được sử dụng cho chuyển
gen vào nấm M. thermophila. Trong nghiên cứu
này, lần đầu tiên gen kháng nourseothricin được
chứng minh là marker chọn lọc mới và hiệu quả cho
chuyển gen vào M. thermophila thông qua vi khuẩn
A. tumefaciens.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Chủng nấm M. thermophila DSM 1799 được
cung cấp bởi Bảo tàng Vi sinh vật và Tế bào - DSMZ,
Viện Leibniz, Đức.
Vector nhị thể pGreen3 (Vu et al., 2018) sử
dụng trong nghiên cứu này mang cấu trúc kháng
nourseothricin dưới sự điều hòa của promoter trpC
và cấu trúc biểu hiện gen mã hóa protein huỳnh
quang xanh GFP dưới sự điều hòa của promoter
gpdA từ nấm sợi Aspergillus nidulans. Vector này
được cung cấp bởi Phòng Genomic, Phòng thí
nghiệm Trọng điểm Công nghệ Enzym và Protein,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thu bào tử nấm
Chủng M. thermophila DSM 1799 được nuôi
trên môi trường PDA (potato dextrose agar) ở 37ºC
trong 5 ngày. Bổ sung nước cất vô trùng lên bề mặt
đĩa và dùng que gạt vô trùng gạt tách bào tử ra khỏi
hệ sợi nấm. Hỗn hợp dịch thu được từ đĩa nuôi cấy
được lọc qua màng Miracloth (Đức). Tiến hành ly
tâm dịch lọc ở tốc độ 4000 vòng/phút trong 10 phút
và đổ bỏ phần dịch nổi. Phần cặn ly tâm chứa bào tử
nấm được rửa 2 lần với nước cất vô trùng. Sau đó,
bào tử được pha trong nước cất vô trùng.
2.2.2. Đánh giá mức độ mẫn cảm của chủng DSM
1799 với nourseothricin
Nhỏ 10 µl dịch bào tử nấm (106 bào tử/ml) lên môi
trường PDA có bổ sung kháng sinh nourseothricin
ở các nồng độ 50, 100 và 150 µg/ml. Đĩa được ủ ở
37ºC trong 7 ngày. Nồng độ kháng sinh ức chế hoàn
toàn sự sinh trưởng của chủng DSM 1799 sẽ được sử
dụng cho thí nghiệm chuyển gen.
2.2.3. Chuyển gen vào và xác nhận thể chuyển gen
Việc chuyển gen vào chủng M. thermophila DSM
1799 được thực hiện dựa trên quy trình chuyển gen
vào nấm Penicillium digitatum của nhóm nghiên cứu
đã công bố (Vu et al., 2018). Vector nhị thể pGreen3
được biến nạp vào chủng vi khuẩn A. tumefaciens
AGL1 bằng xung điện. Vi khuẩn A. tumefaciens
AGL1 mang vector pGreen3 được sử dụng cho
chuyển gen vào chủng M. thermophila DSM 1799. Vi
khuẩn và bào tử nấm được đồng nuôi cấy trên môi
trường IM (1M-MES 40 ml/l; MM salts 2,5X 400
ml/l (3,625 g/l KH2PO4; 5,125 g/l K2HPO4; 0,375 g/l
NaCl; 1,25 g/l MgSO4.7H2O; 0,165 g/l CaCl2.2H2O;
0,0062 g/l FeSO4.7H2O; 1,25 g/l (NH4)2SO4); glucose
0,9 g/l; glycerol 5 ml/l; agar 20 g/l) chứa 200 µM AS, ở
25ºC trong 72 giờ. Sau thời gian đồng nuôi cấy, màng
giấy lọc cellulose được chuyển sang môi trường PDA
có bổ sung kháng sinh nourseothricin (50 µg/ml) để
chọn lọc các khuẩn lạc nấm chuyển gen và kháng
sinh cefotaxime (300 µg/ml) để loại bỏ vi khuẩn A.
tumefaciens AGL1. Đĩa chuyển gen được ủ 5 ngày, ở
nhiệt độ 37ºC. Các khuẩn lạc nấm xuất hiện trên môi
trường chọn lọc được thuần khiết trên môi trường
PDA có chứa nourseothricin. Các thể chuyển gen thu
được sau đó được nuôi cấy để tách chiết DNA tổng
số phục vụ cho việc xác nhận quá trình chuyển gen
đã thành công bằng PCR với cặp mồi đặc hiệu cho
gen GFP là GFP-F (ATGGTGAGCAAGGGCGAG)/
GFP-R (TCACTTGTACAGCTCG TCCATGC)
(Nguyen et al., 2016). Đồng thời hệ sợi các thể
chuyển gen được quan sát dưới kính hiển vi huỳnh
quang Axioplan (Carl Zeiss, Đức) để phát hiện sự
biểu hiện của protein GFP.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 3/2019 đến
tháng 3/2020 tại Bộ môn Vi sinh vật học, Khoa Sinh
học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
133
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Mức độ mẫn cảm với nourseothricin của
chủng M. thermophila DSM 1799
Nourseothricin là kháng sinh được sử dụng
thành công trong nghiên cứu chuyển gen ở một số
loài nấm sợi (Alshahni et al., 2010; Vu et al., 2018).
Tuy nhiên, kháng sinh này chưa được sử dụng cho
chuyển gen ở nấm M. thermophila. Để lựa chọn được
nồng độ kháng sinh nourseothricin phù hợp cho
chọn lọc các thể chuyển gen, chủng M. thermophila
DSM 1799 được nuôi cấy trên môi trường PDA có
bổ sung nourseothricin với các nồng độ khác nhau.
Kết quả thu được cho thấy, sinh trưởng của chủng
M. thermophila DSM 1799 bị ức chế hoàn toàn ở
nồng độ 50 µg/ml (Hình 1). Như vậy, kháng sinh
nourseothricin với nồng độ 50 µg/ml được lựa chọn
cho nghiên cứu chuyển gen vào M. thermophila
DSM 1799.
Hình 1. Mức độ mẫn cảm của M. thermophila DSM 1799 với nourseothricin
Ghi chú: (A) Chủng DSM 1799 trên môi trường PDA; (B) Sinh trưởng của chủng DSM 1799 trên môi trường PDA
bổ sung nourseothricin.
3.2. Chuyển gen vào M. thermophila DSM 1799
thông qua vi khuẩn A. tumefaciens
Để thực hiện chuyển gen vào M. thermophila
DSM 1799 thông qua vi khuẩn A. tumefaciens, vector
nhị thể pGreen3 được biến nạp vào chủng vi khuẩn
A. tumefaciens AGL1 bằng xung điện. Quy trình
chuyển gen vào M. thermophila DSM 1799 được mô
tả như trong Hình 2.
Hình 2. Quy trình chuyển gen vào M. thermophila DSM 1799 nhờ A. tumefaciens
134
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
Sau bước đồng nuôi cấy, màng giấy lọc được
chuyển sang môi trường PDA có bổ sung kháng
sinh nourseothricin (50 μg/ml) để chọn lọc các
thể chuyển gen. Sau 5 ngày ở 37oC, một số khuẩn
lạc nấm đã xuất hiện trên màng giấy lọc (Hình
3A). Các khuẩn lạc này được cấy chuyển sang môi
trường mới và 5 thể chuyển gen (T1-T5) được chọn
cho tách chiết DNA tổng số. DNA tổng số được sử
dụng để xác nhận sự có mặt của gen chỉ thị GFP nhờ
PCR với cặp mồi đặc hiệu GFP-F/GFP-R. Kết quả
phân tích sản phẩm PCR trên gel agarose 0,8% cho
thấy hệ gen của cả 5 thể chuyển gen đều cho băng
DNA có kích thước 720 bp tương ứng với gen GFP
(Hình 3B). Kết quả quan sát dưới kính hiển vi huỳnh
quang cũng xác nhận sự biểu hiện thành công của
gen GFP trong hệ sợi và bào tử nấm chuyển gen với
tín hiệu huỳnh quang xanh rất rõ nét (Hình 3C).
Các kết quả thu được đã chứng minh rằng gen GFP
đã được tích hợp thành công vào hệ gen của nấm
M. thermophila DSM 1799 nhờ vi khuẩn A. tumefaciens
và marker chọn lọc là gen kháng nourseothricin.
Gần đầy, việc chuyển gen vào nấm M. thermophila
sử dụng vi khuẩn A. tumefaciens đã được thực hiện
thành công với marker là gen kháng hygromycin
(Xu et al., 2015). Tuy nhiên, gen kháng nourseothricin
chưa từng được sử dụng cho chuyển gen ở
M. thermophila. Đây là nghiên cứu đầu tiên chứng
minh gen kháng nourseothricin là một marker chọn
lọc tin cậy để sử dụng cho chuyển gen vào nấm ưa
nhiệt M. thermophila. Kết quả này mở ra triển vọng
trong nghiên cứu biểu hiện gen cũng như nghiên cứu
chức năng của gen ở loài nấm sợi quan trọng này.
Hình 3. Chuyển gen huỳnh quang GFP vào nấm M. thermophila
Ghi chú: (A) Các thể chuyển gen trên môi trường chọn lọc; (B) Xác nhận chuyển gen với cặp mồi GFP-F/GFP-R; (C)
Biểu hiện của gen huỳnh quang xanh GFP.
IV. KẾT LUẬN
Chủng nấm M. thermophila DSM 1799 bị ức
chế hoàn toàn bởi kháng sinh nourseothricin ở
nồng độ 50 μg/ml. Gen kháng nourseothricin
được sử dụng thành công làm marker chọn lọc cho
chuyển gen vào nấm M. thermophila nhờ vi khuẩn
A. tumefaciens. Sự biểu hiện của gen GFP dưới sự
điều hòa của promoter gpdA từ A. nidulans cho
tín hiệu huỳnh quang xanh khá tốt ở chủng nấm
chuyển gen thu được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Alshahni M. M., Makimura K., Yamada T.,
Takatori K. and Sawada T., 2010. Nourseothricin
acetyltransferase: a new dominant selectable marker
for the dermatophyte Trichophyton mentagrophytes.
Medical Mycology, 48 (4): 665-668.
Gomes A. C. D. S., Falkoski D., Battaglia E., Peng M.,
de Almeida M. N., Linares, N. C., Meijnen J. P.,
Visser J. and de Vries, R. P., 2019. Myceliophthora
thermophila Xyr1 is predominantly involved in xylan
degradation and xylose catabolism. Biotechnology for
Biofuels, 12 (1): 220-237.
A
C
B
135
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
Kochupurakkal B. S. and Iglehart J. D., 2013.
Nourseothricin N-acetyl transferase: a positive
selection marker for mammalian cells. PloS one,
8 (7):1-4.
Maheshwari R., Bharadwaj G. and Bhat M. K.,
2000. Thermophilic fungi: their physiology and
enzymes. Microbiology and Molecular Biology
Reviews, 64 (3): 461-488.
Michielse C. B., Hooykaas P. J., van den Hondel C.
A. and Ram A. F., 2005. Agrobacterium-mediated
transformation as a tool for functional genomics in
fungi. Current Genetics, 48 (1): 1-17.
Nguyen K. T., Ho Q. N., Pham T. H., Phan T.-N. and
Tran V. T., 2016. The construction and use of versatile
binary vectors carrying pyrG auxotrophic marker
and fluorescent reporter genes for Agrobacterium-
mediated transformation of Aspergillus oryzae.
World Journal of Microbiology and Biotechnology, 32
(12): 204-212.
Singh B., 2016. Myceliophthora thermophila syn.
Sporotrichum thermophile: a thermophilic mould
of biotechnological potential. Critical Reviews in
Biotechnology, 36 (1): 59-69.
Visser H., Joosten V., Punt P. J., Gusakov A. V., Olson
P. T., Joosten R., Bartels J., Visser J., Sinitsyn A. P.,
Emalfarb M. A., Verdoes J. C. and Wery J., 2011.
Development of a mature fungal technology and
production platform for industrial enzymes based
on a Myceliophthora thermophila isolate, previously
known as Chrysosporium lucknowense C1. Industrial
Biotechnology, 7 (3): 214-223.
Vu T. X., Ngo T. T., Mai L. T. D., Bui T. T., Le D. H., Bui
H. T. V., Nguyen H. Q., Ngo B. X. and Tran V. T.,
2018. A highly efficient Agrobacterium tumefaciens-
mediated transformation system for the postharvest
pathogen Penicillium digitatum using DsRed and
GFP to visualize citrus host colonization. Journal of
Microbiological Methods, 144: 134-144.
Xu J., Li J., Lin L., Liu Q., Sun W., Huang B. and
Tian C., 2015. Development of genetic tools for
Myceliophthora thermophila. BMC Biotechnology,
15 (1): 35-44.
Nourseothricin resistance gene as a new selection marker
for Agrobacterium tumefaciens-mediated transformation
of the thermophilic fungus Myceliophthora thermophila
Tran Van Tuan
Abstract
Myceliophthora thermophila is a thermophilic fungus capable of biosynthesis of thermally stable enzymes. Some
enzymes produced by this fungus such as cellulase, xylanase and phytase have the potential to be used as animal
feed supplements. Developing tools for genetic manipulation in order to increase the ability of enzyme biosynthesis
plays an important role in M. thermophila. In this study, for the first time, the nourseothricin resistance gene was
successfully employed as a selection marker for gene transfer into M. thermophila DSM 1799 via Agrobacterium
tumefaciens. The M. thermophila DSM 1799 strain was examined for its sensitivity towards nourseothricin. Results
showed that this strain was completely inhibited at a quite low concentration of nourseothricin (50 μg/ml). The
results also demonstrated that the GFP gene was successfully transferred to the genome of M. thermophila DSM 1799
using the nourseothricin resistance marker. The PCR-based analysis with the specific primer pair GFP-F/GFP-R has
confirmed the presence of the GFP gene in the genome of all tested transgenic strains. Especially, when observed
under a fluorescence microscope, these transgenic strains were able to produce the GFP protein, which emits the
green fluorescent signal in fungal mycelium and spores.
Keywords: Agrobacterium tumefaciens-mediated transformation, Myceliophthora thermophila, nourseothricin
resistance marker, binary vector
Ngày nhận bài: 15/4/2020
Ngày phản biện: 24/4/2020
Người phản biện: PGS. TS. Nguyễn Xuân Cảnh
Ngày duyệt đăng: 29/4/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_su_dung_gen_khang_nourseothricin_lam_marker_chon.pdf