Nghiên cứu tác nhân gây bệnh chết rạp cây con ba kích (morinda officinalis how) tại Việt Nam

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ - Nguyên nhân gây bệnh chết rạp cây con ba kích tại Thanh Hóa và Bắc Giang là do nấm Rhizoctonia solani gây ra. Bệnh biểu hiện triệu chứng điển hình trên cây ba kích trong vườn ươm với một phần thân sát gốc bị khô và teo lại, một số cây bị chết rạp. Nấm R. solani phát triển tốt nhất ở nhiệt độ 25 - 30 oC và pH 7 trên môi trường PDA. - Thuốc trừ nấm Amistar top 325 SC (hoạt chất azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l) và Vanicide 5SL (hoạt chất validamycin A: 5%) đều có khả năng hạn chế sự phát triển của sợi nấm R. solani trên môi trường PDA. Trong đó thuốc Amistar top 325 SC có khả năng hạn chế mạnh nhất. - Cần có những nghiên cứu sâu hơn về nấm R. solani gây bệnh chết rạp cây con ba kích trong sản xuất làm cơ sở khuyến cáo các biện pháp phòng trừ thích hợp.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tác nhân gây bệnh chết rạp cây con ba kích (morinda officinalis how) tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 6/2019 32 NGHIÊN CỨU TÁC NHÂN GÂY BỆNH CHẾT RẠP CÂY CON BA KÍCH (Morinda officinalis How.) TẠI VIỆT NAM Study on The Pathogen Causing Damping - off on Indian Mullberry (Morinda officinalis How.) in Viet Nam Chu Thị Mỹ 1 , Đặng Thị Hà 1 , Đào Thị Kim Nhung 2 , Lê Thị Thu 1 , Hoàng Diệu Linh 1 & Phan Thúy Hiền 1 Ngày nhận bài: 14.11.2019 Ngày chấp nhận: 25.11.2019 Abstract Indian Mullberry (Morinda officinalis How.), locally known as “ba kich” belonging to the Rubiaceae family, commonly grown in Viet Nam for medicinal purposes. However, ba kich seedlings in the nurseries are sufferred from the attack of damping-off disease. The objective of the present study was to characterize the causal pathogen of the damping-off disease of ba kich. Surveys were conducted in different ba kich nurseries in Thanh Hoa and Bac Giang provinces from March to July 2018; and a number of 3 to 4 month old seedlings showing symptoms of damping-off disease were collected for further identification. In the surveyed nurseries, the incidence of damping-off disease was above 50%. Disinfected collar segments, about 5 mm in length, were plated on quarter strength PDA (mPDA) and the isolated fungus was cultured on PDA and incubated at 25°C. Rhizoctonia solani was consistently isolated from the infected tissues. The colony growth was 90 mm after 3 days on PDA, sclerotia were produced after incubation from 5 to 7 days. The optimal conditions for the development of R. solani were 25 o C to 30 o C and pH 7. The efficacy of azoxystrobin + difenoconazole (Amistar top 325 SC) and validamycin A (Vanicide 5 SL) in reducing R. solani mycelial growth was tested in vitro. The results indicated that azoxystrobin + difenoconazole (Amistar top 325 SC) is highly effective in inhibiting the mycelial growth of R. solani. This is the first report of R. solani causing damping-off disease of ba kich in Viet Nam. Keywords: Morinda officinalis, damping off, seedling disease. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ * Cây ba kích (Morinda officinalis How.), là loại cây dược liệu thuộc họ cà phê (Rubiacea), được trồng nhiều ở Trung Quốc, Lào, Ấn Độ và Triều Tiên. Ở Việt Nam, ba kích mọc hoang dại nhiều ở các tỉnh miền núi như Quảng Ninh, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Nam, v.v. Trong đông y, ba kích được sử dụng làm dược liệu chữa các bệnh như: phong thấp, giảm huyết áp (Đỗ Huy Bích và cs., 2004). Trên thế giới, chưa có nhiều nghiên cứu về sâu, bệnh hại cây ba kích. Cây ba kích trồng tại Quảng Đông, Trung Quốc bị bệnh héo do nấm Fusarium oxysporum f. sp. Morindae gây ra với nguồn bệnh chủ yếu từ đất bị nhiễm bệnh (Shi và 1. Trung tâm nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội - Viện Dược liệu Corresponding author: phanthuyhien@yahoo.com 2. Học viện Nông nghiệp Việt Nam Chi, 1988). Bên cạnh đó, một số bệnh hại trên lá được công bố trên một số cây thuộc chi Morinda spp. như bệnh đốm lá do nấm Corynospora sp. trên cây Morinda citrifolia L. (thuộc họ cà phê Rubiaceae) trồng tại vùng Agharkar, Ấn Độ. Triệu chứng bệnh đốm lá do nấm này gây ra bắt đầu xuất hiện trên đồng ruộng từ tháng 7 đến tháng 10 (Firdousi và Khan, 2015). Bệnh thán thư do nấm Colletotrichum spp. gây ra trên cây con 1 tháng tuổi của một số loài thuộc chi Morinda ở 2 đảo Andaman và Nicobar Islands, Ấn Độ (Krishna và cs., 2012). Tại Việt Nam, mới công bố bệnh héo vàng do nấm F. oxysporum trên ba kích ở một số vùng của Quảng Ninh và Thanh Hóa. Bệnh xuất hiện từ giai đoạn cây con đến khi cây hình thành củ, nhưng bệnh thường gây hại mạnh nhất ở giai đoạn cây ba kích được 3 – 4 năm, tỷ lệ bệnh trên đồng ruộng có thể lên đến 60% (Đặng Thị Hà và cs., 2017). Gần đây, ở một số vùng thuộc Thanh Hóa và Bắc Giang, cây ba kích con biểu hiện triệu chứng Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 6/2019 33 chết rạp, đã ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng cây giống; nhưng vẫn chưa xác định được nguyên nhân; do đó, chưa có biện pháp phòng trừ bệnh hiệu quả. Bài báo này là công bố đầu tiên về nguyên nhân gây bệnh chết rạp trên cây con ba kích ở Việt Nam. 2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Vật liệu, thời gian và địa điểm nghiên cứu Cây ba kích con biểu hiện triệu chứng chết rạp được thu thập tại các vùng trồng ba kích tại huyện Quảng Thành, tỉnh Thanh Hóa và huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang trong năm 2018. Các vật liệu khác sử dụng trong nghiên cứu bao gồm: nguyên liệu sử dụng trong môi trường phân lập, làm thuần và nuôi cấy tác nhân gây bệnh [khoai tây - đường - agar (PDA), môi trường PDA một phần tư độ mạnh có bổ sung kháng sinh (mPDA), thạch - nước cất (WA) và nguyên liệu sử dụng cho môi trường nhân sinh khối nấm (Burgess và cs., 2008). Các trang thiết bị và dụng cụ: Tủ sấy dụng cụ, buồng cấy, nồi hấp, tủ định ôn, dụng cụ nuôi cấy nấm. Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 3 đến tháng 12 năm 2018 tại Trung Tâm Nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội. 2.2 Phƣơng pháp nghiên cứu 2.2.1. Điều tra, phân lập và giám định tác nhân gây bệnh Phương pháp điều tra thu thập mẫu được tiến hành theo “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây trồng” (QCVN 01-38, 2010). Mẫu bệnh cây con ba kích có triệu chứng chết rạp hoặc héo sau khi thu thập từ đồng ruộng về được loại bỏ thân lá và rửa sạch dưới vòi nước. Cắt bộ phận gốc thân, rễ bị bệnh thành những miếng nhỏ sao cho miếng cắt bao gồm cả mô bệnh và mô khỏe. Khử trùng miếng cắt bằng ethanol 70% trong 5 giây, sau đó rửa sạch bằng nước cất vô trùng, dùng dao cấy đã khử trùng cắt vết bệnh thành các miếng nhỏ 5 × 5 mm và cấy lên môi trường mPDA. Khi nấm đã phát triển với kích thước đường kính tản nấm 1 - 2 cm, cấy truyền sang môi trường WA. Nấm được làm thuần bằng cách cấy đỉnh sinh trưởng của sợi nấm từ môi trường WA sang môi trường PDA và được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm ở điều kiện 25 o C với 12 h chiếu sáng xen kẽ 12 h tối (Burgess và cs., 2008). Sau 7 ngày nuôi cấy, nấm được giám định dựa vào đặc điểm hình thái. Các mẫu nấm được giám định dựa vào khóa phân loại của Sneh và cs. (1991). 2.2.2. Lây bệnh nhân tạo Phương pháp lây bệnh qua đất được tiến hành theo Burgess và cs. (2008). Cây ba kích sử dụng cho thí nghiệm là cây 7 tháng tuổi, khỏe mạnh, không có biểu hiện triệu chứng bệnh, được trồng trong các chậu thí nghiệm chứa giá thể đất đã khử trùng. Thí nghiệm lây bệnh được bố trí với 3 lần nhắc lại, 20 cây/lần nhắc lại. Nguồn nấm lây bệnh được nhân sinh khối trên giá thể hạt kê - trấu. Nấm được nuôi trong bình tam giác 15 ngày, sau đó đem ra trộn với đất xung quanh gốc cây cần lây bệnh, mỗi gốc cây sử dụng 50g sinh khối nấm. Theo dõi hàng ngày sự xuất hiện, quá trình hình thành và phát triển triệu chứng trên cây lây bệnh. Mẫu bệnh có triệu chứng điển hình từ thí nghiệm lây bệnh được tái phân lập theo quy tắc Koch. Thời điểm lây bệnh nhân tạo: tháng 7 năm 2018. Chỉ tiêu theo dõi: Thời gian từ khi lây bệnh đến khi xuất hiện triệu chứng, thời gian từ khi lây bệnh đến khi cây chết, tỷ lệ cây nhiễm bệnh, khả năng phục hồi. 2.2.3 Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ và pH đến sự phát triển của nấm gây bệnh chết rạp trên môi trường nhân tạo Chọn mẫu nấm đã được làm thuần, cắt tản nấm thành những miếng cấy tròn có đường kính 5 mm, cấy trên môi trường PDA, mỗi công thức lặp lại 5 lần, mỗi lần 1 đĩa Petri. Đối với thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, các mẫu nấm thuần được nuôi cấy trong tủ định ôn ở các điều kiện nhiệt độ 20, 25, 30 và 35 o C. Thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của pH đến sự phát triển của nấm được tiến hành với các ngưỡng pH 4, 5, 6, 7 ở điều kiện nhiệt độ 30 o C. Chỉ tiêu theo dõi: Đương kính tản nấm sau khi cấy 24, 48 và 72 giờ. 2.2.4. Khả năng ức chế của một số loại thuốc bảo vệ thực vật đối với nấm gây bệnh chết rạp trên môi trường nhân tạo Thí nghiệm được tiến hành trên môi trường PDA với 2 loại thuốc trừ bệnh là Amistar top 325 SC (hoạt chất azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l) với nồng độ 0,25 ml thuốc/1 lít nước và Vanicide 5 SL (hoạt chất Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 6/2019 34 validamycin A: 5 %) với nồng độ 1,6 ml thuốc/1 lít nước. Cách thức tiến hành theo phương pháp kiểm tra sự khuếch tán của thuốc bảo vệ thực vật trên đĩa Petri (Ahmed và cs., 2012). Cắt tản nấm thành những miếng tròn nhỏ đường kính 5mm, cấy vào giữa đĩa Petri đường kính 90 mm có chứa môi trường PDA, sau đó sử dụng giấy lọc đã được hấp khử trùng đã được nhúng vào dung dịch thuốc pha và đặt vào 4 góc trên đĩa petri đã cấy nấm. Các đĩa này được đặt ở nhiệt độ 30ºC. Chỉ tiêu theo dõi: bán kính quầng thuốc sau khi cấy nấm 24, 48 và 72 giờ (mm). 2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu Các số liệu được xử lý thống kê bằng phần mềm Irristat 5.0 và Excel 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1 K t quả phân lập và xác định tác nhân gây bệnh ch t rạp cây con ba kích Mười mẫu cây ba kích biểu hiện triệu chứng chết rạp, một phần thân sát gốc bị khô và teo lại được thu thập từ vườn ươm tại Quảng Thành, Thanh Hóa và Lục Nam, Bắc Giang (Hình 1). Tác nhân gây bệnh được phân lập, làm thuần trên môi trường WA và PDA. Hình 1. Triệu chứng bệnh ch t rạp cây con ba kích Hình 2. Sợi nấm và hạch nấm của nấm R. solani trên môi trƣờng PDA đƣợc phân lập từ cây con ba kích tại Bắc Giang và Thanh Hóa (a). Sợi nấm R. solani phân nhánh vuông góc; (b) Tản nấm và hạch nấm R. solani được phân lập từ mẫu ba ích trồng tại Bắc Giang. (c) Tản nấm và hạch nấm R. solani được phân lập từ mẫu ba ích trồng tại Thanh Hóa Căn cứ vào đặc điểm hình thái nấm của sợi nấm, tác nhân gây bệnh chết rạp cây con ba kích là nấm Rhizoctonia solani. Ban đầu, tản nấm có màu trắng đục, vàng nâu hoặc nâu vàng nhạt, về sau chuyển sang màu nâu sẫm. Tản nấm phát triển với tốc độ rất nhanh trên môi trường PDA, a b c Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 6/2019 35 tản nấm mịn, áp sát bề mặt môi trường hoặc xốp. Sợi nấm đa bào, màu nâu hoặc nâu vàng, phân nhánh nhiều, vị trí phân nhánh của sợi nấm hơi thắt lại, sát đó có vách ngăn, phân nhánh gần như vuông góc (Hình 2a). Sau nuôi cấy 5 đến 7 ngày, nấm bắt đầu hình thành hạch nấm, hạch non có màu trắng, hạch già có màu nâu, hơi thô, không định hình (Hình 2b, 2c). Nấm R. solani làm biến đổi màu môi trường nuôi cấy từ trắng đục sang màu nâu đến nâu sẫm. 3.2 K t quả lây bệnh nhân tạo nấm R. solani trên cây ba kích Để xác định khả năng gây bệnh của nấm R. solani đối với cây ba kích con, thí nghiệm lây nhiễm nhân tạo được thực hiện trong nhà lưới của Trung Tâm Nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội (Bảng 1, Hình 3). Bảng 1. Thí nghiệm lây bệnh nhân tạo nấm R. solani trên cây con ba kích (Trung tâm Nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội, tháng 3 năm 2018) Lần nhắc lại Thời gian tiềm dục (ngày) TLB (%) sau lây bệnh Triệu chứng 3 ngày 7 ngày 14 ngày 1 2-4 40,0 60,0 100 Gốc thân bị thối, teo lại có màu nâu, lá bị héo, khi nhổ cây lên thấy rễ bị thối thâm nâu, cây gãy gục rồi chết. 2 2-6 35,5 64,5 100 3 3-6 30,0 70,0 100 Hình 3. Cây ba kích đối chứng (bên trái) và cây đƣợc lây nhiễm bởi nấm R. solani (bên phải) sau 6 ngày (Trung tâm Nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội, tháng 3 năm 2018) Khi lây nhiễm nấm R. solani trên cây ba kích, tỷ lệ nhiễm bệnh rất cao và có thời gian tiềm dục trên cây ký chủ ngắn (2 - 6 ngày). Tỷ lệ bệnh ở các lần nhắc lại sau 7 ngày lây nhiễm dao động từ 60 đến 70%. Vết bệnh ban đầu xuất hiện ở phần cổ rễ hay phần gốc thân sát mặt đất, sau đó lan ra làm phần gốc thân bị thối, lá cây héo rũ, rồi cả cây gãy gục và chết (Hình 3). Sau 14 ngày lây nhiễm, toàn bộ cây lây bệnh đều bị nhiễm bệnh hoàn toàn trong khi cây đối chứng không lây nhiễm vẫn sinh trưởng bình thường. Cây biểu hiện triệu chứng được tái phân lập tác nhân gây bệnh được xác định nấm R. solani đúng với nấm đã được sử dụng trước khi lây nhiễm. Như vậy, nấm R. solani là tác nhân chính gây bệnh chết rạp cây con trên cây ba kích tại Thanh Hóa và Bắc Giang. 3.3 Ảnh hƣởng của nhiệt độ và pH đ n sinh trƣởng và phát triển của nấm R. solani trên môi trƣờng nhân tạo 3.3.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển của nấm R. solani trên môi trường nhân tạo Ở các điều kiện nhiệt độ thí nghiệm khác nhau, đường kính tản nấm phát triển khác nhau có ý nghĩa ở độ tin cậy 95% (Bảng 2). Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 6/2019 36 Bảng 2. Sự phát triển của nấm R. solani trên cây ba kích ở các mức nhiệt độ khác nhau (Trung tâm Nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội, tháng 5 năm 2018) Nhiệt độ ( o C) Đƣờng kính tản nấm (mm) sau cấy Ghi chú 24 giờ 48 giờ 72 giờ 96 giờ 120 giờ 20 10,6 d 18,1 d 36 b 57,5 90 Chưa hình thành hạch sau 15 ngày theo dõi 25 19, 1 c 50,5 c 90 a 90 90 Đã hình thành hạch nấm sau 15 ngày theo dõi 30 22,1 b 61,3 b 90 a 90 90 35 25 a 64,3 a 90 a 90 90 LSD0,05 1,6 2,34 1,6 - - CV(%) 4,4 2,6 1,1 - - Ghi chú: Các công thức trong cùng một cột có chữ cái giống nhau thì hác nhau hông có ý nghĩa với độ tin cậy 95% Sau 24 giờ nuôi cấy, đường kính tản nấm ở nhiệt độ 20 o C là 10,6 mm, ở nhiệt độ 25 o C là 19,1mm, ở nhiệt độ 30 o C là 22,1 mm và ở nhiệt độ 35 o C tản nấm phát triển nhanh nhất đạt 25 mm. Sau 72 giờ, ở điều kiện nhiệt độ 25 - 35 o C, nấm đã mọc kín đĩa trong khi tản nấm ở nhiệt độ 20 o C mới chỉ đạt 36 mm. Ở nhiệt độ 20 o C, nấm phát triển chậm nhất, sau 120 giờ mới phát triển kín đĩa. Như vậy, 25 - 30 o C là khoảng nhiệt độ tốt nhất cho sự phát triển của tản nấm và hình thành hạch nấm R. solani. Ở nhiệt độ 20 o C, khả năng hình thành hạch nấm chậm hơn so với các điều kiện nhiệt độ khác. 3.3.2. Ảnh hưởng của pH đến sự phát triển của nấm R. solani trên môi trường nhân tạo Đã đánh giá ảnh hưởng của các mức pH 4, 5, 6, 7 đến sự phát triển của nấm R. solani trên môi trường PDA (Bảng 3). Bảng 3. Sự phát triển của nấm R. solani ở các mức pH khác nhau (Trung tâm Nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội, tháng 6 năm 2018) pH Đường kính tản nấm (mm) cấy sau 24 giờ 48 giờ 72 giờ 96 giờ 4 10,3 c 37,8 d 78,8 b 90 5 10 d 42,4 c 78,8 b 90 6 12,8 b 61,2 b 90 a 90 7 13,4 a 61,6 a 90 a 90 LSD0,05 0,34 4,7 1,2 CV% 1,6 5 0,7 Ghi chú: Các công thức trong cùng một cột có chữ cái giống nhau thì hác nhau hông có ý nghĩa với độ tin cậy 95% Sau nuôi cấy 24 giờ, đường kính tản nấm R. solani trên môi trường có pH 4 là 10,3 mm, pH 5 là 10 mm, pH 6 là 12,8 mm và pH 7 là 13,4 mm. Sau 72 giờ nuôi cấy, nấm trên môi trường pH 6 và 7 đã phát triển kín đĩa Petri trong khi đó tản nấm ở môi trường pH 4 và 5 có kích thước đều là 78,8 mm và mọc kín đĩa sau 96 giờ. Như vậy, nấm R. solani có khả năng phát triển ở tất cả các mức pH từ 4 - 7; trong đó, tại mức pH 6 và 7, nấm phát triển tốt nhất, pH 4 - 5 kích thước tản nấm phát triển ở mức trung bình (Hình 4). Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 6/2019 37 A B C D Hình 4a. Tản nấm R.solani ở pH 4 (A), pH 5 (B), pH 6 (C), pH 7 (D) sau 24 giờ nuôi cấy A B C D Hình 4b. Tản nấm R.solani trên môi trƣờng PDA ở pH 4 (A), pH 5 (B), pH 6 (C), pH 7 (D) sau 48 giờ nuôi cấy A B C D Hình 4c. Tản nấm R.solani trên môi trƣờng PDA ở pH 4 (A), pH 5 (B), pH 6 (C), pH 7 (D) sau 72 giờ nuôi cấy Hình 4. Tản nấm Tản nấm R.solani trên môi trƣờng PDA ở pH 4, pH 5, pH 6, pH 7, sau 24, 48 và 72 giờ nuôi cấy 3.4 Khả năng ức ch của một số loại thuốc bảo vệ thực vật đối với nấm R. solani của trên môi trƣờng nhân tạo Hiệu quả của thuốc trừ nấm Amistar top 325 SC và Vanicide 5 SL đã được đánh giá dựa trên sự khuếch tán của thuốc trong môi trường nuôi cấy nấm R. solani (Bảng 4). Sau 24 giờ nuôi cấy, tốc độ phát triển của các tản nấm ở các môi trường được xử lý thuốc có sự khác biệt so với đối chứng. Đường kính tản nấm trung bình trên môi trường xử lý thuốc Amistar top là 12 mm và tản nấm trên môi trường xử lý thuốc Vanicide là 12,2 mm có tác dụng ức chế nấm R.solani như nhau và có hiệu quả hơn so với công thức đối chứng (không xử lý) với đường kính tán nấm 13,1 mm. Sau 72 giờ, khi kích thước tản nấm ở công thức đối chứng là 90 mm (kín đĩa), công thức xử lý Amistar top là 30,2 mm và công thức xử lý Vanicide là 56 mm. Trong hai loại thuốc sử dụng ở thí nghiệm, thuốc Amistar Top 325 SC (hoạt chất azoxystrobin + difenoconazole) có Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 6/2019 38 khả năng ức chế mạnh hơn đến sự phát triển của sợi nấm R. solani so với thuốc Vanicide 5SL (hoạt chất valydamycin A 5%) trên môi trường PDA (Hình 5). Bảng 4. Khả năng ức ch của một số loại thuốc hóa học đ n sự phát triển của nấm R. Solani trên môi trường nhân tạo (Trung tâm Nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội, tháng 8 năm 2018) Thuốc hóa học Đường kính tản nấm trung bình (mm) sau Đặc điểm tản nấm 24 giờ 48 giờ 72 giờ Đối chứng (không xử lý) 13,1 a 52,6 a 90,0 a Tản nấm phát triển nhanh, lan rộng ra kín đĩa, mọc tràn lên trên giấy thấm Amistar top 325SC 12,0 b 21,0 c 30,2 c Tản nấm phát triển chậm, ít bông xốp, mọc cách xa giấy thấm Vanicide 5SL 12,2 b 31,4 b 56,0 b Tản nấm phát triển trung bình, tản nấm ít bông xốp, nấm mọc tránh giấy thấm. LSD0,05 0,34 0,64 0,62 - CV% 1,4 0,9 0,5 - Ghi chú: Các công thức trong cùng một cột có chữ cái giống nhau thì hác nhau hông có ý nghĩa với độ tin cậy 95% Hình 5. Sự phát triển của tản nấm R. solani trên môi trƣờng PDA có/không xử lý thuốc trừ nấm 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ - Nguyên nhân gây bệnh chết rạp cây con ba kích tại Thanh Hóa và Bắc Giang là do nấm Rhizoctonia solani gây ra. Bệnh biểu hiện triệu chứng điển hình trên cây ba kích trong vườn ươm với một phần thân sát gốc bị khô và teo lại, một số cây bị chết rạp. Nấm R. solani phát triển tốt nhất ở nhiệt độ 25 - 30 o C và pH 7 trên môi trường PDA. - Thuốc trừ nấm Amistar top 325 SC (hoạt chất azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l) và Vanicide 5SL (hoạt chất validamycin A: 5%) đều có khả năng hạn chế sự phát triển của sợi nấm R. solani trên môi trường PDA. Trong đó thuốc Amistar top 325 SC có khả năng hạn chế mạnh nhất. - Cần có những nghiên cứu sâu hơn về nấm R. solani gây bệnh chết rạp cây con ba kích trong sản xuất làm cơ sở khuyến cáo các biện pháp phòng trừ thích hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO (1) Ti ng Việt 1. Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2010. QCVN 01-38: 2010/BNNPTNT. Quy chuẩn ỹ thuật quốc gia về phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây trồng 2. Đặng Thị Hà, Chu Thị Mỹ, Phan Thúy Hiền, Nguyễn Thị Bình và Trần Hữu Khánh Tân, 2017. Nghiên cứu tác nhân gây bệnh héo vàng trên cây ba kích (Morinda officinalis How. Tạp chí bảo vệ thực vật, 2: 9-13. 3. Đỗ Huy Bích, Đặng Quang Chung, Bùi Xuân Chương, Nguyễn Thuận Dong, Đỗ Trung Đàm, Phạm Văn Hiển, Vũ Ngọc Lộ, Phạm Duy Mai, Phạm Kim Mãn, Đoàn Thị Nhu, Nguyễn Tập, Trần Toàn, Viện dược liệu, 2004. Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà Nội, Tập II. Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 6/2019 39 (2) Ti ng Anh 4. Ahmed D.B, Chaieb I., Salah K.B., Boukamcha H., Jannet H.B., Mighri Z. and Daami-Remadi M.,2012. Antibacterial and antifungal activities of Cestrum parqui saponins: possible interaction with membrane sterols, International Research Journal of Plant Science, 3 (1): 001-007. 5. Banett H.L and Hunter B.B., 1998. Illustrated genera of imperfect fungi. The American Phytopathological Society, St.Paul, Minnesota. 218. 6. Burgess L.W., Knight T.E., Tesoriero L. and Phan H. T., 2008. Diagnostic manual for plant diseases in Vietnam. ACIAR Monograph, 129: 210. 7. Firdousi, S. A. and Khan, T. A.,2015. Two new fungal diseases of trees of manudevi forest of Jalgaon, district. Flora and Fauna (Jhansi), 21( 2): 158-160. 8. Koch, R.,1876. Untersuchungen über Bakterien: V. Die Ätiologie der Milzbrand-Krankheit, begründet auf die Entwicklungsgeschichte des Bacillus anthracis" [Investigations into bacteria: V. The etiology of anthrax, based on the ontogenesis of Bacillus anthracis] (PDF). Cohns Beitrage zur Biologie der Pflanzen (in German), 2 (2): 277–310. 9. Krishna Kumar; Singh, D. R.; Natarajan Amaresan; Kuttum Madhuri, 2012. Isolation and pathogenicity of Colletotrichum spp. causing anthracnose of Indian mulberry (Morinda citrifolia) in tropical islands of Andaman and Nicobar, India, Phytoparasitica, 40 (5): 485-491. 10. Shi Xuerong, Chi Peikun, 1988. Identification of the pathogen causing wild disease of the medicinal herb Indian mulberry (Morinda officinalis How.), Acta Phytopathologica Sinica. 04. 11. Sneh B, Burpee L. Ogoshi A.,1991. Identification of Rhizoctonia species. St Paul, Mn, USA: APS press. Phản biện: TS. Trịnh Xuân Hoạt KẾT QUẢ XÁC ĐỊNH BỆNH ĐỐM CHẾT HOẠI HÌNH NHẪN GÂY HẠI THUỐC LÁ Results of Diagnotic Necrotic Ring Spot Disease on Tobacco plant Nguyễn Văn Chín 1 và Hà Vi t Cƣờng 2 Ngày nhận bài: 06.9.2019 Ngày chấp nhận 26.9.2019 Abstract In 2019, Tobacco instutute collected 15 disease samples with crooked tip to the side and necrotic ringspot on leaves in growing tobacco Bac Giang; necrotic spot symptom in Bac Kan and Cao Bang; leaf curl and crooked tip to the side in Tay Ninh to diagnose in Research centre for Tropical plant pathology – Vietnam national university of Agriculture. Results of diagnosis showed that all disease samples in Bac Giang were caused by Tomato necrotic ringspot virus (TNRV). Virus belong to Tospovirus genus and is spread by insect – thrips. TNRV is a virus species that is detected the first times on tobacco plant in Vietnam. Other disease samples of Bac Kan, Cao Bang and Tay Ninh provinces didn‟t infected with Tospovirus. Keywords: Tobacco, virus, Tospovirus, Tomato necrotic ringspot virus, TNRV. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ * Trong 3 năm gần đây, cây thuốc lá có triệu chứng đốm chết hoại hình nhẫn có chiều hướng 1. Viện Thuốc lá 2. Học Viện Nông nghiệp Việt Nam tăng dần ở các tỉnh phía Bắc, đặc biệt gây hại nặng tại Chi nhánh Viện Thuốc lá Bắc Giang trong vụ xuân 2019. Như năm 2017, chúng xuất hiện rải rác trên đồng ruộng với mức độ gây hại không đáng kể; Đến năm 2018, bệnh xuất hiện phổ biến với tỷ lệ bệnh 12,5%; Và năm 2019, chúng gây hại rất nặng với tỷ lệ bệnh dao động

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_tac_nhan_gay_benh_chet_rap_cay_con_ba_kich_morind.pdf