Bảng 5 chỉ trình bày những yếu tố liên quan có
ý nghĩa thống kê đến sở thích con trai của các cặp
vợ chồng nghiên cứu (p< 0,05). Trong số những yếu
tố liên quan được tìm thấy, khu vực cư trú có ảnh
hưởng mạnh nhất, những cặp vợ chồng ở miền núi
thích sinh con trai nhiều hơn 2,9 lần những cặp
vợ chồng ở vùng trung du. Mối liên quan giữa sở
thích sinh con trai với nơi cư trú được tìm thấy ở
nhiều nghiên cứu trước đây ở Việt Nam [6], [7],
[8], [12]. Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết đối
tượng tham gia nghiên cứu là người Kinh (81%),
ngay cả ở các xã vùng cao. Tư tưởng đề cao nam
giới vẫn còn đang nặng nề ở cộng đồng này, thêm
vào đó điều kiện kinh tế khó khăn ở miền núi làm
cho mong ước sinh con trai của họ mạnh hơn các
cặp vợ chồng người Kinh ở vùng trung du. Thực tế
kết quả thống kê cho thấy ba xã vùng núi của huyện
chưa có tình trạng MCBGTKS như ở các xã còn lại
của huyện (Bảng 1). Điều này gợi ý vai trò quan
trọng của các phương tiện chẩn đoán giới tính khi
sinh trong việc tạo ra sự MCBGTKS ở địa phương
nghiên cứu nói riêng và các địa phương khác nói
chung. Tình trạng kinh tế cũng ảnh hưởng đến sở
thích có con trai, những hộ gia đình nghèo thích
sinh con trai gấp 2,6 lần những hộ không nghèo.
Thực tế thị trường lao động đã chứng minh rằng,
phụ nữ thường ít có cơ hội công việc hơn nam giới,
vì thế các hộ gia đình nghèo thường thích sinh con
trai với mong muốn có thêm người kiếm thu nhập,
thêm vào đó các bậc cha mẹ nghèo thường cần có
con trai để nuôi dưỡng khi về già do kinh tế gia
đình hiện tại không có gì đảm bảo cho tương lai.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Hùng và cộng
sự cũng cho kết quả tương tự [5]. Tư tưởng “trọng
nam khinh nữ”trong xã hội Việt Nam xuất phát từ
quan điểm: người con trai được xem là biểu hiện
của quyền lực, của sự thành đạt, những gia đình
có con trai thường cảm thấy tự tin hơn trước cộng
đồng và dòng họ nhiều đàn ông thường được cho
là mạnh và có ưu thế hơn. Chính vì quan điểm này
những người đàn ông không có con trai thường bị
kỳ thị và châm chọc [1]. Nghiên cứu cho thấy những
cặp vợ chồng bị áp lực cộng đồng có sở thích con
trai gấp 2,1 lần những cặp vợ chồng không chịu áp
lực cộng đồng. Thay đổi quan điểm bất bình đẳng
giới ở cộng đồng là giải pháp cấp thiết để làm giảm
tình trạng MCBGTKS ở địa phương nghiên cứu.
Những yếu tố khác như nghề nghiệp, tuổi của các
cặp vợ chồng, số con trai hiện có, tôn giáo, thứ bậc
của chồng trong gia đình, hiểu biết về nguyên nhân
và hậu quả của MCBGTKS và khả năng tiếp cận đến
các dịch vụ chẩn đoán giới tính thai nhi không tìm
thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê với sở thích
con trai của các cặp vợ chồng nghiên cứu.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 30 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tỉ số giới tính khi sinh và một số yếu tố liên quan đến sở thích sinh con trai của các cặp vợ chồng tại huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
50
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
NGHIÊN CỨU TỈ SỐ GIỚI TÍNH KHI SINH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN ĐẾN SỞ THÍCH SINH CON TRAI CỦA CÁC CẶP
VỢ CHỒNG TẠI HUYỆN HIỆP ĐỨC, TỈNH QUẢNG NAM
Nguyễn Hoàng Lan1, Phan Đình Nhân2
(1) Khoa Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Dược Huế
(2) Trung tâm Y tế huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam
Tóm tắt
Mục tiêu: Xác định tỉ số giới tính khi sinh và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến sở thích sinh con trai
của các cặp vợ chồng tại địa bàn nghiên cứu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả
cắt ngang, số liệu được thu thập qua phỏng vấn trực tiếp 620 bà mẹ sinh con từ ngày 1/1/2014 đến ngày
31/1/2014 dựa vào bộ câu hỏi có cấu trúc và số liệu thứ cấp từ hệ thống sổ sách ghi nhận số trẻ sinh ra và
sống tại huyện Hiệp Đức trong thời gian nghiên cứu. Mô hình hồi qui đa biến logistic được áp dụng để nhận
ra các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến sở thích con trai của các cặp vợ chồng. Kết quả: Tỉ số giới tính
khi sinh ở toàn huyện là 113,3/100. Các yếu tố liên quan đến sở thích con trai của các cặp vợ chồng là nơi
cư trú (OR=2,91; 95% KTC:1,13-7,52); kinh tế hộ gia đình (OR=2,64; 95% KTC: 1,23-5,66) và áp lực cộng đồng
(OR=2,18; 95% KTC: 1,15-4,12). Kết luận: Có tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở huyện Hiệp Đức năm
2014. Cần tăng cường tuyên truyền, vận động rộng rãi ở cộng đồng nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và
lồng ghép nội dung này với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
Từ khoá: tỉ số giới tính khi sinh, mất cân bằng giới tính khi sinh, Quảng Nam
Abstract
SEX RATIO AT BIRTH AND FACTORS AFFECTING SON
PREFERENCE OF COUPLES IN HIEP DUC DISTRICT,
QUANG NAM PROVINCE, 2014
Nguyen Hoang Lan1, Phan Dinh Nhan2
(1) Faculty of Public Health, Hue University of Medicine & Pharmacy
(2) Health Center of Hiep Duc district, Quang Nam province
Objective: To define sex ratio at birth and to identify factors affecting son preference of couples at
study area. Material and Method: This was a cross sectional study. Primary data was collected by directly
interviewing 620 mothers who have baby from January 1, 2014 to December 31, 2014 on the basis of a
structured questionnaire. Secondary data was received from documents recording number of babies who
were born and still live in the study setting during the study time. Multiple logistic regression model was used
to identify factors influencing son preference of the couples. Results: The sex ratio at birth in Hiep Duc district
was 113.3/100. Factors affecting son preference of the couple were residence place (OR=2.91; 95% CI: 1.13-
7.52); economic situation of household (OR=2.64; 95% CI: 1.23-5.66) and community pressure (OR=2.18;
95% CI: 1.15-4.12). Conclusion: There is the imbalance of sex ratio at birth in Hiep Duc district in 2014. It
should be strengthened the propaganda and advocacy in the community to raise the awareness on gender
equality and integrate this content into the local socio-economic development plan.
Key words: sex ratio at birth, the imbalance of sex ration at birth, Quang Nam.
-----
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Hoàng Lan, email: hoanglanytcc@gmail.com
Ngày nhận bài: 3/7/2016; Ngày đồng ý đăng: 15/10/2016; Ngày xuất bản: 25/10/2016
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dân số Việt Nam đang gia tăng và kèm theo một
số biến động, trong đó vấn đề mất cân bằng giới
tính khi sinh đang là vấn đề quan tâm của toàn xã
hội. Theo đánh giá, tỷ số giới tính khi sinh ở nước
ta đang tăng nhanh. Năm 2006 tỷ số giới tính khi
sinh của Việt Nam là 109,8; tỷ số này tăng 1,15% từ
năm 2006 đến 2008 và 0,6% từ 2009 đến 2012. Tỷ
51
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
số giới tính khi sinh năm 2013 là 112,6 [3], [4]. Mất
cân bằng giới tính khi sinh là một chỉ số cho thấy sự
bất bình đẳng giới vì điều này phản ảnh tình trạng
phân biệt đối xử với phụ nữ và trẻ em gái ngay từ
trước khi họ được sinh ra [2]. Hiệp Đức là một huyện
miền núi thuộc tỉnh Quảng Nam, tuy nhiên địa hình
của huyện vừa trung du, vừa miền núi, huyện gồm
11 xã và 1 thị trấn, trong đó có ba xã vùng cao chiếm
phần lớn diện tích của toàn huyện. Tình trạng mất
cân bằng giới tính khi sinh đang diễn ra hầu hết ở
các địa phương trong toàn huyệnTheo số liệu báo
cáo của Trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình tỷ
số giới tính khi sinh năm 2013 ở địa phương này là
123 bé trai/100 bé gái [13].
Để góp phần đưa ra những giải pháp phù hợp
giải quyết vấn đề nêu trên tại địa phương, chúng
tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tỉ số giới
tính khi sinh và một số yếu tố liên quan đến sở thích
sinh con trai của các cặp vợ chồng tại huyện Hiệp
Đức, tỉnh Quảng Nam năm 2014”, với các mục tiêu:
1. Xác định tỷ số giới tính khi sinh tại huyện Hiệp
Đức, tỉnh Quảng Nam năm 2014.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến sở thích
sinh con trai của các cặp vợ chồng tại địa bàn nghiên
cứu.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các cặp vợ chồng có con được sinh ra và sống
từ ngày 01/01/2014 đến 31/12/2014 tại 12 xã, thị
trấn của huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam. Nghiên
cứu không bao gồm các bà mẹ đơn thân và các bà
mẹ không có khả năng cung cấp thông tin.
- Sổ sách, hồ sơ ghi nhận thông tin trẻ được sinh
ra tại địa bàn nghiên cứu từ ngày 01/01/2014 đến
31/12/2014
2.2. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.3. Cỡ mẫu
Mẫu toàn thể, tổng cộng có 620 cặp vợ chồng
đáp ứng tiêu chuẩn nghiên cứu đồng ý tham gia
phỏng vấn. Các bà mẹ của các trẻ được phỏng vấn
trực tiếp. Thông tin người chồng được cung cấp qua
phỏng vấn người vợ.
2.4. Nguồn thông tin
Thông tin được thu thập dựa vào bộ câu hỏi
được thiết kế. Nội dung bộ câu hỏi bao gồm thông
tin nhân khẩu, kinh tế, xã hội của vợ và chồng, số
con hiện có, giới tính các con, sở thích sinh con trai,
số con trai mong muốn có được, lý do muốn sinh
con trai, hiểu biết về mất cân bằng giới tính khi sinh
(MCBGTKS) và hậu quả của nó.
Thông tin về số trẻ và giới tính trẻ sinh ra và sống
được thu thập từ báo cáo của các cơ sở y tế có cung
cấp dịch vụ sinh trong toàn huyện và thông tin từ bộ
phận tư pháp của huyện Hiệp Đức về những đứa trẻ
được khai sinh trong năm 2014.
2.5. Phân tích số liệu
- Tỷ số giới tính (TSGTKS) khi sinh được xác định
bằng số bé trai sinh sống so với số bé gái sinh sống
tại một địa phương trong năm xác định.
MCBGTKS khi TSGTKS > 106 (100 bé gái có trên
106 bé trai khi sinh)
- Hiểu biết của vợ, chồng về nguyên nhân và hậu
quả của MCBGTKS được đánh giá dựa vào hai câu
hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn, mỗi câu có 10 nội
dung dựa vào kết quả từ các khảo sát trước đây về
MCBGTKS. Những nguyên nhân MCBGTKS được đề
cập trong nội dung chọn lựa bao gồm quan điểm
của cộng đồng, qui mô gia đình, nguồn lao động,
người thừa kế và khả năng tiếp cận đến các công
nghệ hiện đại giúp lựa chọn giới tính khi sinh. Về
hậu quả của MCBGTKS, những nội dung được đưa
ra để lựa chọn gồm nam giới khó kết hôn, tính cạnh
tranh trong thị trường lao động, gia tăng tệ nạn xã
hội và vị thế thấp kém của người phụ nữ. Mỗi nội
dung đúng được 1 điểm, tổng điểm tối đa mỗi câu
là 10 điểm. Đối tượng biết được từ 7 nội dung trở
lên, tương đương 7 điểm ở mỗi câu được đánh giá
là có hiểu biết tốt về nguyên nhân và hậu quả của
MCBGTKS.
- Sở thích sinh con trai gồm một câu hỏi được
đánh giá bằng thang đo Likert có 5 mức: 1= rất
không thích, 2= không thích, 3= trung bình, 4=
thích, 5= rất thích. Sở thích sinh con trai được tính
riêng cho vợ, chồng và chung cho cả vợ và chồng.
Điểm trung bình chung sở thích của vợ và chồng
được sử dụng để tính sở thích con trai chung của cả
hai vợ chồng. Sở thích được chia làm hai mức dựa
vào điểm trung bình chung: ≤ 3 điểm: không thích;
> 3 điểm: thích
- Phân tích hồi qui đa biến Logistic được áp dụng
để tìm hiểu những yếu tố liên quan đến sở thích sinh
con trai của các cặp vợ chồng. Biến số phụ thuộc bao
gồm: sở thích sinh con trai của các cặp vợ chồng,
các biến số độc lập bao gồm: đặc điểm nhân khẩu
học- kinh tế -xã hội của vợ, chồng, hiểu biết của vợ
chồng về nguyên nhân và hậu quả của MCBGTKS và
sở thích sinh con trai.
- Mức α = 0,05 được chọn để xác định các kết
quả có ý nghĩa thống kê.
TSGTKS =
Số bé trai sinh sống
Số bé gái sinh sống
* 100
52
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
3. KẾT QUẢ & BÀN LUẬN
3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Đăc điểm nhân khẩu học- kinh tế- xã hội
của đối tượng nghiên cứu
Tỷ lệ người dân tộc kinh chiếm cao nhất 81%
trong số các cặp vợ chồng nghiên cứu mặc dù đây
là một huyện miền núi, tuy nhiên điều này phù hợp
với thực tế tại địa phương người đồng bào dân tộc
ít người chỉ chiếm 10,1% tổng dân số toàn huyện
và sống tập trung chủ yếu ở 3 xã vùng cao Phước
Gia, Phước Trà và Sông Trà [12]. Tuổi trung bình
của người vợ tham gia nghiên cứu là 27,1 ± 5,7 (tối
thiểu 15; tối đa 44); tuổi trung bình của người chồng
là 30,1± 5,9 (tối thiểu 17; tối đa 54). Học vấn phổ
biến của vợ và chồng ở trình độ trung học cơ sở với
39,5% và 42,6%; theo thứ tự, vẫn còn 3,9% các bà
vợ và 2,3% các ông chồng không biết chữ. Mặc dù
vậy kết quả này vẫn thấp hơn tỉ lệ mù chữ chung
của cả nước ở khu vực nông thôn 5,5% theo thống
kê năm 2014 [11]. Điều này cho thấy trình độ dân
trí ở địa phương nghiên cứu có bước cải thiện đáng
kể. 42,1% các cặp vợ chồng tham gia phỏng vấn sinh
con lần đầu, có 18,7% trong số họ sinh con lần thứ
ba trở lên. Số gia đình có một con trai chiếm tỷ lệ
cao nhất 50%; có hai con trai trở lên chiếm 20% và
chưa có con trai chiếm 30%. 54,3% các cặp vợ chồng
sống trong gia đình có 2 thế hệ, gia đình 3 và 4 thế
hệ chiếm 44,2% và 1,3%; theo thứ tự. Điều này phù
hợp với nghiên cứu của UNFPA (2012) tại Việt Nam
cho thấy 82,3% số người dân được hỏi chọn mô hình
gia đình hạt nhân. Đây là tí n hiệu cho thấy trong
tương lai gần việc quyết định sinh và giới tí nh con
của các cặp vợ chồng sẽ từng bước giảm dần ảnh
hưởng tác động từ ông bà, cha mẹ.
3.1.2. Hiểu biết về nguyên nhân và hậu quả của mất cân bằng giới tí nh khi sinh của đối tượng được
phỏng vấn
Hình 1. Tỉ lệ đối tượng được phỏng vấn biết
được nguyên nhân MCBGTKS
Hình 2. Tỷ lệ người được phỏng vấn biết được
hậu quả MCBGTKS
Hình 1 và 2 cho thấy 84,8% và 52,3% các bà
mẹ chưa hiểu biết tốt về nguyên nhân và hậu quả
gây MCBGTKS. Tỷ lệ bà mẹ có hiểu biết chưa tốt
cao hơn nghiên cứu của Lê Hoàng Ninh tại huyện
Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh (2013), nghiên cứu này
cho thấy bà mẹ không có kiến thức về MCBGTKS
chiếm 52,2%, có kiến thức 41,8% [8]. Điều này
cho thấy nhận thức của người dân về MCBGTKS
ở địa phương còn rất hạn chế. Chương trình Dân
số-KHHGĐ cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền
vận động để thay đổi nhận thức của những cặp
vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, giúp họ có ý thức
trách nhiệm về hành vi sinh sản của mình. Cán bộ
làm công tác dân số cần lưu ý về nội dung truyền
đạt thông ti n phải phù hợp với từng vùng, từng đối
tượng để họ ti ếp thu một cách đầy đủ, tránh tì nh
trạng “Hiểu nữa vời, nghe loáng thoáng”. Thêm vào
đó, cần nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, phong
tục tập quán để có thể nâng cao hiệu quả truyền
thông đến người dân.
3.2. Tỷ số giới tí nh khi sinh
Bảng 1. Tỉ số giới tí nh khi sinh của từng xã
Stt Đơn vị Tổng số trẻ Trẻ trai Trẻ gái
Tỷ lệ
Trai/TS
TSGTKS
1 Tân An 67 39 28 58,2 139/100
2 Quế Bình 55 30 25 54,5 120/100
3 Hiệp Thuận 34 21 13 61,7 161/100
53
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
4 Hiệp Hòa 34 21 13 61,7 161/100
5 Bình Lâm 100 55 45 55 122/100
6 Quế Thọ 76 36 40 47,4 90/100
7 Bình Sơn 43 23 20 53,5 115/100
8 Thăng Phước 38 22 16 57,9 137/100
9 Quế Lưu 44 20 24 45,5 83/100
10 Phước Gia 42 21 21 50 100/100
11 Phước Trà 58 29 29 50 100/100
12 Sông Trà 68 33 35 48,5 94/100
Tổng cộng 659 350 309 53,1 113,3/100
Bảng 1 trình bày tỷ số giới tính khi sinh toàn
huyện Hiệp Đức. Toàn huyện cho thấy có sự
MCBGTKS với 113,3 bé trai/bé gái. Có 7 xã có tỷ số
giới tính khi sinh cao trên 115 bé trai/100 bé gái,
những xã này dân cư chủ yếu là người Kinh. Trong
khi ba xã Phước Gia, Phước Trà và sông Trà, địa bàn
cư trú chủ yếu của người dân tộc thiểu số, không có
hiện tượng MCBGTKS. Điều này cho thấy tư tưởng
sinh con trai vẫn còn nặng nề ở cộng đồng người
Kinh ở đây.
3.3. Sở thích sinh con trai và các yếu tố liên quan
Bảng 2. Số con trai mong muốn có được của vợ/chồng
Số con trai
mong muốn
Số con trai mong muốn của vợ Số con trai mong muốn của chồng
Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ %
1 con 496 80 482 77,7
2 con 106 17,1 116 18,7
> 2 con 18 2,9 22 3,6
Tổng số 620 100 620 100
Bảng 2 cho biết hầu hết các cặp vợ chồng đều
mong muốn có 1 con trai trong tổng số con sinh ra,
trong đó mong muốn của vợ chiếm đến 80%, chồng
chỉ là 77,7%. Kết quả nghiên cứu thấp hơn kết quả
nghiên cứu của Hoàng Thị Phương Lan ở TP Huế
(2012) ở nghiên cứu này có 86,6% đối tượng muốn
sinh 1 con trai [6]. Điều này chứng tỏ văn hóa thiên
vị con trai vẫn còn tồn tại, vì thế ưa thích con trai
vẫn còn trong suy nghĩ của nhiều cặp vợ chồng ở
Việt Nam.
Bảng 3. Sở thích sinh con trai
Sở thích sinh con trai
Cả hai vợ chồng Vợ Chồng
n % n % n %
Không thích 64 10,3 80 12,9 66 10,6
Thích 556 89,7 540 87,1 554 89,4
Tổng số 620 100 620 100 620 100
Kết quả Bảng 3 cho thấy sự ưa thích con trai là
hiện tượng nổi bật trong nghiên cứu với các cung bậc
khác nhau của cả hai vợ chồng, thích sinh con trai của
vợ chiếm tỷ lệ 87,1% của chồng 89,4%, sở thích con
trai chung cả hai vợ chồng 89,7%. Những phát hiện
này tương tự như kết quả nghiên cứu năm 2011 do
Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam tiến hành
[14]. Thiên vị giới tính nam phổ biến cho các nước có
nền văn hoá chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Nho giáo,
trong đó có Việt Nam [1]. Nhiều nghiên cứu trước
đây trong nước đã cho thấy nhu cầu rất mạnh về sinh
con trai nhất là ở vùng nông thôn Việt Nam [1].
54
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Bảng 4. Lý do muốn sinh con trai
Lý do N %
Có người nối dõi 138 22,3
Đủ nếp, tẻ (con trai, con gái) 134 21,6
Có nguồn lao động 30 4,8
Có chỗ dựa khi cha mẹ về già 95 15,3
Những lần sinh trước đẻ con gái 51 8,2
Bảng 4 trình bày lý do các cặp vợ chồng muốn
sinh con trai. Nguyên nhân được nhiều bà mẹ trả
lời là để có người nối dõi chiếm tỷ lệ (22,3%). Kết
quả này tương tự với nhiều nghiên cứu trước đây
ở Việt Nam [5],[9],[10]. Việt Nam là một dân tộc
theo chế độ phụ hệ, vì thế “dòng dõi” hoặc “dòng
giống” gia đình phản ánh vai trò chủ đạo của đàn
ông. Người con trai đảm bảo sự tiếp nối dòng tộc
và có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên, trông nom bàn
thờ gia đình, là người được thừa kế tài sản gia đình
và dòng họ. Ở Việt Nam, mô hình sinh sống theo họ
nội là phổ biến, con gái lấy chồng phải ở nhà chồng,
hầu hết cha mẹ đều mong đợi khi về già nhờ vào
sự giúp đỡ và chăm sóc của con trai và con dâu.
Đây cũng chính là lý do phổ biến giải thích sở thích
sinh con trai của các cặp vợ chồng được phỏng vấn.
Khao khát “có nếp; có tẻ” tồn tại rất lâu ở Việt Nam,
hiện nay việc tuân thủ chính sách dân số kế hoạch
hoá gia đình khuyến khích các cặp vợ chồng chỉ có
tối đa hai con, mô hình gia đình có 1 con trai và
1 con gái trở thành một “gia đình kiểu mẫu” mà
các cặp vợ chồng luôn mong ước để đạt đến [14].
Để chính sách dân số thành công và giảm hệ luỵ
của MCBGTKS những quan niệm này cần phải được
thay đổi, đây chính là nhiệm vụ của công tác truyền
thông giáo dục cộng đồng.
3.3.3. Một số yếu tố liên quan đến sở thích sinh con trai
Bảng 5. Một số yếu tố liên quan đến sở thích sinh con trai
Yếu tố OR Giá trị p 95% khoảng tin cậy
Áp lực cộng đồng
Không 1
Có 2,18 0,017 1,15 - 4,12
Tình trạng kinh tế hộ gia đình
Bình thường 1
Nghèo 2,64 0,012 1,23 - 5,66
Khu vực cư trú
Trung du 1
Miền núi 2,91 0,027 1,13 - 7,52
Bảng 5 chỉ trình bày những yếu tố liên quan có
ý nghĩa thống kê đến sở thích con trai của các cặp
vợ chồng nghiên cứu (p< 0,05). Trong số những yếu
tố liên quan được tìm thấy, khu vực cư trú có ảnh
hưởng mạnh nhất, những cặp vợ chồng ở miền núi
thích sinh con trai nhiều hơn 2,9 lần những cặp
vợ chồng ở vùng trung du. Mối liên quan giữa sở
thích sinh con trai với nơi cư trú được tìm thấy ở
nhiều nghiên cứu trước đây ở Việt Nam [6], [7],
[8], [12]. Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết đối
tượng tham gia nghiên cứu là người Kinh (81%),
ngay cả ở các xã vùng cao. Tư tưởng đề cao nam
giới vẫn còn đang nặng nề ở cộng đồng này, thêm
vào đó điều kiện kinh tế khó khăn ở miền núi làm
cho mong ước sinh con trai của họ mạnh hơn các
cặp vợ chồng người Kinh ở vùng trung du. Thực tế
kết quả thống kê cho thấy ba xã vùng núi của huyện
chưa có tình trạng MCBGTKS như ở các xã còn lại
của huyện (Bảng 1). Điều này gợi ý vai trò quan
trọng của các phương tiện chẩn đoán giới tính khi
sinh trong việc tạo ra sự MCBGTKS ở địa phương
nghiên cứu nói riêng và các địa phương khác nói
chung. Tình trạng kinh tế cũng ảnh hưởng đến sở
thích có con trai, những hộ gia đình nghèo thích
sinh con trai gấp 2,6 lần những hộ không nghèo.
Thực tế thị trường lao động đã chứng minh rằng,
phụ nữ thường ít có cơ hội công việc hơn nam giới,
vì thế các hộ gia đình nghèo thường thích sinh con
trai với mong muốn có thêm người kiếm thu nhập,
thêm vào đó các bậc cha mẹ nghèo thường cần có
con trai để nuôi dưỡng khi về già do kinh tế gia
đình hiện tại không có gì đảm bảo cho tương lai.
55
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Hùng và cộng
sự cũng cho kết quả tương tự [5]. Tư tưởng “trọng
nam khinh nữ”trong xã hội Việt Nam xuất phát từ
quan điểm: người con trai được xem là biểu hiện
của quyền lực, của sự thành đạt, những gia đình
có con trai thường cảm thấy tự tin hơn trước cộng
đồng và dòng họ nhiều đàn ông thường được cho
là mạnh và có ưu thế hơn. Chính vì quan điểm này
những người đàn ông không có con trai thường bị
kỳ thị và châm chọc [1]. Nghiên cứu cho thấy những
cặp vợ chồng bị áp lực cộng đồng có sở thích con
trai gấp 2,1 lần những cặp vợ chồng không chịu áp
lực cộng đồng. Thay đổi quan điểm bất bình đẳng
giới ở cộng đồng là giải pháp cấp thiết để làm giảm
tình trạng MCBGTKS ở địa phương nghiên cứu.
Những yếu tố khác như nghề nghiệp, tuổi của các
cặp vợ chồng, số con trai hiện có, tôn giáo, thứ bậc
của chồng trong gia đình, hiểu biết về nguyên nhân
và hậu quả của MCBGTKS và khả năng tiếp cận đến
các dịch vụ chẩn đoán giới tính thai nhi không tìm
thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê với sở thích
con trai của các cặp vợ chồng nghiên cứu.
Hạn chế của nghiên cứu
Nghiên cứu có một số hạn chế cần phải thừa
nhận. Thứ nhất nghiên cứu có thể bỏ sót một số
trường hợp trẻ sinh ra không đến cơ sở y tế và không
khai sinh tại bộ phận tư pháp huyện trong thời gian
nghiên cứu. Để khắc phục hạn chế này, nhóm nghiên
cứu sử dụng đội ngũ cộng tác viên dân số là những
người thu thập thông tin, họ là những người nắm
rõ nhất những trường hợp sinh con tại địa bàn họ
quản lý. Thứ hai, nghiên cứu chỉ tập trung phỏng vấn
những phụ nữ, người vợ trong gia đình, tuy nhiên
kết quả nghiên cứu cho thấy câu trả lời của phụ nữ
qua điều tra đã phần nào phản ánh nhu cầu sinh con
của riêng họ và mong muốn của người chồng cũng
như chung cho cả gia đình rồi.
4. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy huyện Hiệp Đức,
tỉnh Quảng Nam trong năm 2014 đã có tình trạng
mất cân bằng giới tính khi sinh với tỷ số giới tính khi
sinh là 113,3 bé trai/100 bé gái. Những yếu tố liên
quan đến sở thích sinh con trai của các cặp vợ chồng
tại địa bàn nghiên cứu gồm nơi cư trú, kinh tế hộ
gia đình và áp lực cộng đồng. Để cải thiện tình trạng
MCBGTKS cần tăng cường tuyên truyền, vận động
rộng rãi ở cộng đồng nâng cao nhận thức về bình
đẳng giới, lồng ghép nội dung này với kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội ở địa phương.
-----
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Vân Anh (1993), Sở thích về sinh đẻ ở
một số vùng nông thôn Việt Nam. Tạp chí Xã hội học, số
2/1993.
2. Bộ Y tế (tổng cục dân số - kế hoạch hóa gia đình)
(2010), Tài liệu tuyên truyền về giới tính khi sinh NXB Y học
năm 2010, tr 7 - 29.
3. Bộ Y tế (tổng cục dân số - kế hoạch hóa gia đình)
(2012), Hội thảo Mất cân bằng giới tính khi sinh tại Hà Nội
tháng 11/2012 tr 2, 3, 95.
4. Bộ Y tế (tổng cục dân số - kế hoạch hóa gia đình)
(2012), Một số chính sách hiện hành liên quan đến MCBGTKS,
Hà Nội tháng 12/2012 tr 3 - 11.
5. Nguyễn Văn Hùng, Vũ Thị Thanh Thủy (2013), Thực
trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ số giới tính khi sinh
ở Hà Nội, Tạp chí Dân số và phát triển, số 12(153/2013) tr
9-15.
6. Hoàng Thị Phương Lan (2012), Nghiên cứu tỷ số
giới tính khi sinh và một số yếu tố liên quan đến sở thích
sinh con trai của phụ nữ có chồng tại thành phố Huế năm
2011. Luận văn chuyên khoa cấp I, Trường Đại học Y Huế.
7. Lê Cự Linh (2009), Tỷ số giới tính khi sinh trên thế
giới và ở Việt Nam, Tạp chí Y tế công cộng số 12/2009, tr
15 - 22.
8. Lê Hoàng Ninh, Văn Ngọc Trúc Quyên (2013),
Những yếu tố liên quan đến sinh con trai lần đầu của phụ
nữ huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh năm 2012, Bản
tin Vì một sức khỏe cộng đồng, số 2/2013.
9. Nguyễn Ái Thùy Phương (2011), Khảo sát tỷ số giới
tính của trẻ sơ sinh đẻ ra sống và tình hình sinh con thứ 3
trở lên tại huyện Phú Vang năm 2011, Tạp chí Y học thực
hành, số 805-2012, tr 472-476.
10. Hoàng Thị Tâm (2010), Khảo sát, điều tra xác định
giới tính khi sinh tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2007-2008, Tạp
chí Y học thực hành số 699+700, tr 329-335.
11. Tổng cục Dân số - kế hoạch hóa gia đình, Tạp chí
Dân số và phát triển số 11+12 (164/2014) tr 14, 15.
12. Trung tâm DS-KHHGĐ Hiệp Đức (2014) Kho Dữ liệu
điện tử dân số (2013), (2014) và sổ đẻ 12 trạm y tế xã, thị trấn.
13. UNFPA (2010), Tỷ số giới tính khi sinh ở Châu Á
và Việt Nam tr 22-29; 34 – 47, 51, 52,79, 80.
14. UNFPA (2011), Sự ưa thích con trai ở Việt Nam:
Ước muốn thâm căn, công nghệ tiên tiến, tr 23 – 33.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_ti_so_gioi_tinh_khi_sinh_va_mot_so_yeu_to_lien_qu.pdf