Cần lưu ý rằng, theo một đức tin khác
(cải giáo) trước đây từng bị coi (hiện thời vẫn vậy) là xấu hơn là không
có đức tin. Bởi I. Kant đã từng cảnh báo chúng ta: “. Các vụ bạo loạn
tôn giáo thường gây chấn động thế giới và dìm nó trong biển máu, chưa
bao giờ là điều gì khác hơn ngoài những bất đồng tiếng nói do đức tin
của Giáo hội”16. Tư tưởng gia của các tổ chức tôn giáo khác nhau
thường giải thích các hiện tượng như vậy là sự đụng độ không tránh
khỏi giữa lực lượng thần thánh và bè lũ Satan, dựa vào đó để tôn vinh
thái độ cuồng tín và biện minh cho mọi thủ đoạn tàn độc. Trong thế giới
ngày nay, quy kết diễn ngôn của chủ nghĩa tôn giáo chính thống là
nguyên nhân gây ra các xung đột vũ trang là hiện tượng hoàn toàn
không có gì lạ. Mối liên hệ giữa hữu thần luận với tình hình xung đột
hiện nay ở Cận Đông, Algeria, Punjab, v.v là hiển nhiên. Thủ lĩnh
tinh thần của Iran, Ali Khamenei, mới đây đã kêu gọi người dân của
quốc gia này chuẩn bị chiến tranh. Theo thông tin của Interfax, vị Thủ
lĩnh tinh thần này tuyên bố: “Nếu chúng ta xem xét mình là chiến sĩ của
Sứ giả (Imam) thứ mười hai, chúng ta phải sẵn sàng cho cuộc chiến
dưới sự lãnh đạo của Đức Allah và với sự giúp đỡ của vô hình của
Ngài, chúng ta sẽ làm cho nền văn minh Islam giáo giành chiến thắng
trên vũ đài thế giới. Đó là sứ mạng của chúng ta”17
19 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 568 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tôn giáo - An ninh tinh thần: các xung đột trên cơ sở thế giới quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 – 2014 19
E. A. KOROTKOV*
AN NINH TINH THẦN:
CÁC XUNG ĐỘT TRÊN CƠ SỞ THẾ GIỚI QUAN
Tóm tắt: Giải pháp cho các xung đột đã chín muồi trong xã hội, trong
lĩnh vực tranh luận về thế giới quan đang gây nhiều bàn cãi, để đi đến
khả năng phải hình thành một phương châm tâm lý - xã hội trong
giao tiếp giữa chủ thể các đức tin khác nhau, giữa tin và không tin
theo tôn giáo để góp phần đưa đất nước Nga thoát khỏi cuộc khủng
hoảng tinh thần hiện nay là nội dung chính của bài viết này.
Từ khóa: an ninh tinh thần, thế giới quan, tôn giáo, chủ nghĩa vô
thần, xung đột, đa nguyên, trung lập, khoan dung.
1. Góp vào vấn đề định nghĩa từ “thế giới quan”
Khi xét tính đa nghĩa của từ “thế giới quan”, sau đây chúng ta sẽ thống
nhất về nội dung của nó, cái thường được gọi là bức tranh thế giới nói
chung và hiểu vị trí của con người trong bức tranh thế giới đó. Nội dung
này có thể trình bày không chỉ dưới hình thức một hệ thống triết học hay
thần học, mà còn bằng những cách ngôn, thậm chí bằng thi ca. Tương
ứng, chúng ta sẽ phân biệt thế giới quan với tính cách là một hệ thống lý
luận với thế giới quan văn học nghệ thuật. Tất cả văn cảnh sử dụng từ
“thế giới quan” khác, chẳng hạn như “thế giới quan chính trị”, “thế giới
quan đạo đức” hay “thế giới quan kinh tế”, “thế giới quan cộng sản” hay
“thế giới quan tư sản”, “thế giới quan trí thức”, “thế giới quan Nga”,
v.v thích hợp hơn nên dùng từ “nhãn quan”. Không phải nhãn quan
nào cũng có nguồn gốc thế giới quan, mà nếu có đi nữa thì không phải
bao giờ cũng có lợi cho nó. Chẳng hạn như nhãn quan chính trị, hàm
nghĩa thế giới quan thực của nó là niềm tin của một số người được chọn
của một dân tộc và/hoặc nhà lãnh đạo của nó, là định đề của quyền năng
thiêng liêng. Thay vì thể hiện “bức tranh thế giới nói chung”, người ta
còn hay dùng cụm từ “hình ảnh khái quát của vũ trụ”, “quan điểm chung
nhất về toàn bộ cái hiện tồn”, “hình ảnh chung nhất về thế giới”, “hệ
thống quan điểm về thế giới khách quan”, v.v Trên bình diện logic, có
*
GS. TS., Khoa Triết học, Đại học Quốc gia Belgorod, Liên bang Nga.
20 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014
20
thể nói về các cách ngôn đó hoàn toàn xác định, đó là một danh từ hoặc
cụm danh từ miêu tả. Về ngữ nghĩa của chúng lại không xác định như
vậy. Rõ ràng, từ vũ trụ trong văn cảnh thế giới quan không đồng nghĩa
với từ vũ trụ trong khoa vật lý thiên văn. Đúng hơn, vũ trụ ở đây chính là
muốn chỉ toàn bộ thế giới nói chung, hay như cách nói thời thượng hiện
nay, là vũ trụ trong tổng thể của nó (universum trong tính totalnity của
nó). Ở đây, giả định là universum bao quát toàn bộ những gì hiện tồn, kể
cả những cái con người chưa biết tới. Trong trường hợp như vậy, liệu có
nên đặt câu hỏi làm thế nào để xây dựng được một hình ảnh khái quát
hay một nhãn quan chung nhất về cái mà chúng ta chỉ biết một phần nhỏ,
thậm chí có cả một hệ thống quan điểm không? Có thể, dĩ nhiên, khi biết
có một ngôi sao nào đó giống như Mặt Trời của chúng ta, giả định nó
cũng có những hành tinh của mình. Nhưng một kết luận suy diễn như
vậy, dù là căn cứ trên những sự kiện từ một lĩnh vực đối tượng cụ thể đã
được khoa học xác định một cách chính xác đi nữa, thì đối với tất thảy
mọi thứ đang tồn tại lại không và không thể có những sự kiện được xác
định chính xác.
Người ta vẫn thường cho rằng, bên ngoài biên giới của thế giới còn có
một hiện thực cao siêu nào đó, chẳng hạn là Chúa Trời, nguồn gốc của
mọi thứ đang tồn tại, tức là gốc của bản thân thế giới. Đây là sự khởi đầu
của mọi khởi đầu tự nó, theo định nghĩa, không có gì chung với thế giới
mà nó sáng tạo ra, nếu không thì nó lại phải là một phần (có thể bằng)
của thế giới đó. Câu hỏi nảy sinh là, dựa vào đâu mà chúng ta có thể kết
luận rằng, Chúa Trời tồn tại, nếu thế giới mà chúng ta là một phần của
nó, và Chúa Trời là thực thể không thể đối sánh và không thể cùng đo
đạc? Nói đến tính chỉnh thể của thế giới còn hàm ý rằng có sự thống nhất
giữa các bộ phận (thành tố, yếu tố, cấp độ) của nó. Để làm rõ tính thống
nhất này, cần có một vốn hiểu biết nhất định về các bộ phận. Mà có kiến
thức nghĩa là biết một số thuộc tính của chỉnh thể. Nhưng vốn kiến thức
ấy về thế giới như một chỉnh thể lại chính là vấn đề nan giải nhất.
Tóm lại, lý tính con người không đủ năng lực tư duy về thế giới xét
trong toàn thể với tính cách là một thứ “vật tự nó” (thing-in-
itself/nowmen), thấu hiểu tính chất vô hạn thời sự (đi hết cả chiều sâu lẫn
bề rộng) của nó, mà không rơi vào mạng lưới mâu thuẫn trước mỗi câu
hỏi mà lý tính đặt ra. Tuy nhiên, thực tế đó chỉ chứng tỏ một điều, các
thuật ngữ “thế giới”, “vũ trụ”, “Chúa Trời”, v.v trong cuộc tranh luận
về thế giới quan không biểu đạt các khái niệm khoa học. Chúng có nội
E. A. Korotkov. An ninh tinh thần 21
21
hàm liên quan đến việc giải quyết những vấn đề không phải về phương
diện tri thức luận, mà là những vấn đề có tính chất hiện sinh (ý nghĩa
cuộc sống) và những vấn đề và trạng thái tâm cảm kèm theo, liên quan
đến các chỉ lệnh hành vi của các chủ thể thế giới quan.
Thế giới quan không đồng nhất với triết học và thần học, mặc dù có
thể nói về thế giới quan triết học/thần học, khi nói về thế giới quan của
một người có kinh nghiệm trong các thuật ngữ và hệ vấn đề triết học/thần
học. Nhưng thế giới quan cũng có thể có ở một người hoàn toàn không
biết gì về triết học và thần học. Hơn nữa, thế giới quan của cá nhân là
một chuyện, còn việc mô tả nó (sắp xếp, chính xác hóa, biểu đạt bằng văn
bản) lại là chuyện khác. Trong thế giới quan của cá nhân có nhiều điều,
do đánh giá cảm xúc của cá nhân đó, không thể mô tả được một cách
thấu đáo. Nó là cái hình thành từ kinh nghiệm sống của con người, nội
dung của nó (điều này không nhất thiết chỉ riêng có của cá nhân đó) được
quyết định không chỉ bởi sự tự ý thức, mà còn cả các phức cảm vô thức
(ước muốn, sợ hãi, hy vọng), bởi những đặc điểm trong tâm thức cá nhân.
Vì vậy, thế giới quan cá nhân là cái không thể chuyển giao cho người
khác, như một cuốn vở ghi mà trong đó nó đã cố gắng trình bày, hoặc giả
đem gieo cấy từ người này sang người khác như thể đó là một mảnh đất,
một quả tim hay một cây hoa. Thế giới quan đó được R. Rorty đặt cho
một cái tên rất đạt là “chân lý cứu rỗi”: “Chân lý cứu rỗi là cái thỏa mãn
nhu cầu của con người muốn gắn mọi thứ trên thế giới - mọi sự kiện, mọi
con người, mọi tư tưởng - vào một văn cảnh duy nhất nào đó, mà bằng
cách nào đó, thật tự nhiên, tiên định và duy nhất khả dĩ, và ý nghĩa duy
nhất chỉ là để xác định ý nghĩa của đời người, bởi chỉ trong bối cảnh đó,
sự tồn tại của con người sẽ hiển lộ trong ánh sáng chân lý. Tin vào chân
lý cứu rỗi là tin rằng có một hiện thực đích thực nào đó đằng sau hình
ảnh của các hiện tượng, rằng chỉ có một cách miêu tả chân thực về tất cả
những gì đang tồn tại và diễn ra, chỉ có một bí kíp chính và một lời giải
hoàn hảo”1.
2. Thế giới quan tôn giáo và không tôn giáo
Chúng ta sẽ phân biệt giữa thế giới quan tôn giáo và không tôn giáo.
Cơ sở của thế giới quan tôn giáo gồm:
- Bức tranh tạo thành thế giới và con người thành một khởi đề của mọi
khởi đề siêu nhiên (phi vật chất), Thiên Chúa là người làm luật, thấu hiểu
và cứu rỗi của mọi tồn thể.
22 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014
22
- Niềm tin linh hồn con người là bất tử, tình yêu đối với Đấng Tạo
Hóa và vâng lời Người là điều kiện của cuộc sống an lạc chốn Thiên
Đường.
- Phức cảm và các chỉ lệnh hành vi phát sinh trong ý thức của các tín
đồ dựa vào đức tin đó.
Cơ sở của thế giới quan không tôn giáo gồm:
- Bức tranh về giới tự nhiên vật chất vô tận, vô biên và vĩnh cửu, ở đó
con người và xã hội là sản phẩm hợp quy luật của sự tự phát triển (tiến
hóa) của nó.
- Niềm tin mỗi người chỉ được “ban” một đời thân xác và tâm hồn
(kiếp sống trần thế). Khi tâm trí còn sáng suốt, con người phải hết sức
trân trọng nó và tự biết cách thu xếp nó.
- Phức cảm và các chỉ lệnh hành vi nảy sinh trong ý thức con người có
liên quan đến niềm tin đó.
Những hằng tố nói trên của hai thế giới quan tôn giáo và không tôn
giáo, hay nếu dùng thuật ngữ I. Lacatos, “hạt nhân cứng” của nó, mà
trong đó phần tử nào cũng cần thiết, và tổng thể của nó, là điều kiện đủ
để xếp một thế giới quan vào một trong hai kiểu nói trên. Các kết cấu
chịu lực được bảo vệ và xác nhận bởi toàn bộ phần nội dung còn lại (biến
thể) của thế giới quan, tạo sinh ra các dạng thức khác nhau của nó. Thế
giới quan tôn giáo được chia thành các biến thể Do Thái giáo, Kitô giáo
và Islam giáo (sau đây cũng sẽ đề cập đến các tôn giáo Abraham trong
các hình thức cộng đồng đã định hình trong lịch sử của chúng). Tương tự,
các thế giới quan không theo tôn giáo nào vẫn có hạt nhân cứng, lại biến
đổi theo dòng lịch sử, sinh ra nhiều dạng thức khác nhau. Kiểu thế giới
quan này nhìn nhận tính khả biến chân lý về một phân khúc nào đó của
giới tự nhiên (vật chất), ranh giới đôi khi sâu và rộng hơn.
Nhân đây, chúng ta sẽ bàn về vấn đề chân lý của thế giới quan. Chân
lý của thế giới quan và chân lý của một lý thuyết khoa học là hai khái
niệm khác hẳn nhau. Nội dung của các lý thuyết khoa học, bản thể, định
luật, giả thuyết, cách giải thích sự kiện thực tế, các dự báo đều qua sự
kiểm chứng của logic và thực nghiệm, vì vậy, sớm muộn gì các chuyên
gia cũng sẽ đi tới ý kiến thống nhất tương đối công nhận tính chân lý của
chúng. Các thế giới quan cũng có thể đầy ắp thông tin từ các lĩnh vực
khác nhau của khoa học, nhưng nền móng của chúng được kiến tạo bởi
các kiến trúc siêu hình (chưa được kiểm chứng hoặc không kiểm chứng
E. A. Korotkov. An ninh tinh thần 23
23
được), mà đặc trưng là chủ nghĩa phổ quát và tuyệt đối, tức là muốn quy
toàn bộ tính đa dạng các hiện tượng về một cái duy nhất, tối giản không
thể quy nạp vào một cái gì khác và là cái căn bản vĩnh cửu (tức là cái
tuyệt đối, dù được gọi bằng cái tên nào: Thiên Chúa, lý tính phổ quát
(universal mind, ý chí thế giới, giới tự nhiên), coi đó là cội nguồn sinh ra
tồn tại của con người, và bằng cách đó chứng thực cho sự tồn tại của nó.
Bằng chứng gián tiếp chứng tỏ rằng không thể xây dựng nên một thế
giới quan mang chân lý được hết thảy mọi người và mọi thời đại chấp
nhận là vì bất kỳ lập trường thế giới quan nào đang cạnh tranh nhau cũng
không có ưu thế chứng giải liên cá nhân. “Cuộc đấu tranh giữa các thế
giới quan với nhau hiện vẫn là bất phân thắng bại trên mỗi điểm tranh cãi
cơ bản. Lịch sử có sự chọn lọc của nó, nhưng các kiểu thế giới quan lớn
vẫn bảo toàn được tất cả sức mạnh của mình, những điểm không thể
chứng được và không phá bỏ được”2. Vấn đề không phải là luận đề được
chứng minh là sai được chứng minh là sai, và phản đề - đúng (hoặc
ngược lại), mà ở chỗ các bên tranh luận không có chung một cách
(trường) chứng giải. Các luận điểm được lấy làm lý lẽ hiển nhiên đúng
đối với phía này lại không được phía kia chấp nhận, và mọi cuộc thảo
luận đều không có tính xây dựng (unconstructive). Ngoài ra, hiện vẫn tồn
tại nền tảng ngoài lý tính (phi duy lý) của lựa chọn thế giới quan. Việc cá
nhân tìm đến một thế giới quan tôn giáo của con người thông qua các
nhân tố vô thức trong tâm thức của nó đã được Sigmund Freud chẩn
đoán. Con người khi cảm biết một cách rõ rệt các thế lực nguy hiểm,
không kiểm soát nổi và không hiểu nổi bên trong và bên ngoài bản thân,
thường một cách vô thức, ngả theo thế giới quan tôn giáo với một Đức
Chúa - cha toàn trị, vạn năng, giống như kinh nghiệm thời thơ ấu của
mình, vâng lệnh và cố gắng không vi phạm những điều cấm kỵ đã được
răn dạy, chịu sự che chở của người cha thông thái và mạnh mẽ mà mình
yêu kính3. W. Dilthey từng cho rằng, thế giới quan “không phải là kết
quả chỉ riêng ý chí nhận thức” và coi các “trạng thái sống lớn” (bi quan
và lạc quan) là nền tảng, là “phần đất nền của các thế giới quan”4. R.
Karnap gắn thế giới quan, mà ông ví như là huyền thoại, với nhu cầu thể
hiện cảm giác đời sống, với thái độ ý chí - tình cảm của con người đối
với thế giới5. R. Tarnasa là người có quan điểm tương tự khi cho rằng, sự
lựa chọn thế giới quan, ngoài nỗ lực mang tính trí tuệ, còn có sự tham gia
của những nhân tố cởi mở hơn như “ý nguyện, tưởng tượng, niềm tin, hy
vọng và đam mê”6. Cảm giác phi lý, buồn khổ, lo âu, thậm chí buồn nôn
24 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014
24
cũng đóng vai trò nhất định trong sự ra đời của kiến trúc thế giới quan
của các triết gia hiện sinh như J. Paul Sartre, A. Camus, v.v
I. Kant trong tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy đã kết luận rằng,
mọi nỗ lực luận chứng duy lý chân lý siêu hình đều dẫn đến bế tắc (mâu
thuẫn) về logic và tối nghĩa về mặt lý luận. Cũng trong học thuyết về đạo
đức của mình, I. Kant công nhận rằng, con người cần phải tin vào sự tồn
tại của Thiên Chúa như là chỗ dựa tinh thần của cá nhân khi nỗ lực làm
tròn nghĩa vụ đạo đức, và không có gì có thể tước bỏ đức tin đó. Ông
phản ánh thực tế cơ bản này của văn hóa Châu Âu là tính tham vọng.
Chân lý và đức tin, khoa học và tôn giáo là hai vế bổ sung cho nhau như
là sự thống nhất của các mặt đối lập, tạo thành động lực thúc đẩy sự tự
phát triển của nền văn hóa Châu Âu. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi
nhiều nhà khoa học lỗi lạc như B. Pascal, I. Newton, M. V. Lomonosov,
C. Linnaeus, M. Faradey, L. Pasteur, M. Planck, v.v đều kết hợp trong
thế giới quan của mình quan niệm về Thiên Chúa như là Đấng Sáng Tạo
anh minh của vũ trụ với niềm tin vào những khả năng vô hạn của phương
pháp khoa học để có tri thức đúng đắn về giới tự nhiên.
Những cuộc thảo luận bất tận về những ưu hay khuyết, lợi hay hại của
có đức tin hay không có đức tin là tuyệt đối vô vọng (vô bổ). Thế giới
quan tôn giáo là một phương thuốc tốt để chống hội chứng “tự suy đồi”
(thuật ngữ của F. M. Dostoevski), là sự ích kỷ quá mức, hư vô và tùy tiện
của cá nhân con người. Thế giới quan không tôn giáo lôi kéo con người
tin rằng thế giới mà anh ta được sinh ra trong đó là món quà tặng vô giá,
duy nhất nhưng chỉ là cõi tạm. Thế giới quan ấy có thể ngăn chặn tiềm
năng tự hạ mình vô hạn của cá nhân và triệt tiêu dần tính tích cực xã hội
của cá nhân. Còn mọi ý đồ luận chứng cho tính chất bấp bênh và đặc biệt
là mặt tác hại của thế giới quan tôn giáo hoặc không tôn giáo, muốn buộc
chúng phải vắt óc do không hiểu thực chất và thiên chức của chúng.
“Những người cho rằng, vị tất họ có thể để tâm đến câu hỏi Thiên Chúa
có tồn tại hay không, không có quyền lên án những người nhiệt thành tin
rằng Thiên Chúa tồn tại, hoặc những người phủ nhận Thiên Chúa cũng
hăng không kém. Cả hai loại trên đều không có quyền phán xét những
người cho rằng tranh cãi như thế là vô nghĩa”7.
3. Hữu thần luận và vô thần luận
Chúng ta sẽ tách thế giới quan tôn giáo và thế giới quan không tôn
giáo ra khỏi khải thị hữu thần (nói tắt là hữu thần) và khải thị vô thần (nói
E. A. Korotkov. An ninh tinh thần 25
25
tắt là vô thần). Người theo tôn giáo tin rằng có Thiên Chúa, còn người
không theo tôn giáo thì không thấy chỗ đứng của Thiên Chúa trong thế
giới, và mỗi người đều cứ sống với tín niệm đó, không đòi hỏi đến quyền
đúng đắn và chính đáng hơn so với những người có thế giới quan khác
mình. Người hữu thần muốn chỉ mình anh ta có cái quyền đó, còn người
vô thần lại nghĩ ngược lại. Hơn thế, người hữu thần cho rằng, phải chữa
trị cho người không theo tôn giáo, tức là lôi kéo họ theo đức tin của
mình, còn người vô thần lại có xu hướng thuyết phục rằng, thế giới quan
của người theo tôn giáo là ảo tưởng. Nếu hướng dẫn không thành, họ
xem nghĩa vụ của mình là bằng cách nào đó phải chỉ cho “người bệnh”
thấy rằng, hình như người ấy đang tự hủy hoại cuộc đời hoặc linh hồn
của chính mình, hơn nữa, điều đó tiềm ẩn nguy cơ gây hại cho xã hội.
Với tính cách là một phức cảm (định đề, phương châm) tâm lý - xã
hội, việc thuyết giáo lôi kéo (proselytism) luôn có khuynh hướng xác lập
cơ sở định chế (tổ chức) của nó. Ví dụ, ở giai đoạn hình thành Kitô giáo
chỉ mới xuất hiện cộng đồng đức tin tôn giáo, quy tập người ta lại chỉ trên
cơ sở cùng thế giới quan và cầu nguyện (thờ phụng). Một cộng đồng đức
tin tôn giáo biến thành một tổ chức hữu thần chỉ xảy ra khi trong tổ chức
đó có một đội ngũ giáo sĩ chuyên nghiệp (tầng lớp tu sĩ), hình thành một
sự phân cấp (quyền lực) mối quan hệ trong giới tu sĩ theo sơ đồ “giáo sĩ -
giáo dân”, hình thành một hệ tư tưởng - hệ thống giáo lý và các kỹ năng
chặt chẽ để truyền giảng giáo lý đó cho giáo dân và người mới. Hoạt
động của các tổ chức tôn giáo luôn gắn chặt với cuộc đấu tranh cho sự
tinh khiết (chân tín) của giáo lý tôn giáo tương ứng, bảo vệ môi trường
khỏi ảnh hưởng về hệ tư tưởng và chính trị của họ. Ở Liên Xô trước đây,
thiết chế của chủ nghĩa vô thần là các cơ quan như Ủy ban Các vấn đề
Tôn giáo thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, các đơn vị phụ trách về tư
tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô. Hệ tư tưởng của các tổ chức vô thần
là triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử gộp chung với lý luận
chủ nghĩa cộng sản khoa học/chủ nghĩa vô thần. Việc đào tạo cán bộ vô
thần được thực hiện tại các khoa triết học trong cả nước, trong các cơ
quan tuyên giáo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Đường lối tuyên truyền chủ
nghĩa vô thần được các phương tiện truyền thông rộng cửa chào đón. Ở
Châu Âu hiện nay, có thể thấy có các tổ chức như Hội Vô thần Moskva -
ATOM (Nga), Hội Những người Vô thần Saint Peterburg (Nga), Hội Vô
thần Mỹ/American Atheists (Hoa Kỳ), Campus Freethought Alliance -
CFA (Hoa Kỳ), Hiệp hội Nhân văn Anh (Anh). Những thành viên cốt cán
26 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014
26
của chủ nghĩa vô thần hiện đại đã mở nhiều trang web trên các mạng toàn
cầu, tích cực xuất bản nhiều công trình mang nội dung chống tôn giáo.
Hệ tư tưởng là một phương tiện giành quyền lực, là phương thức duy
trì và củng cố quan hệ thống trị của một nhóm người đối với các thành
viên còn lại của xã hội. Đôi khi, một hệ tư tưởng nào đó trở thành độc
tôn xưng bá trong xã hội, hoành hành mà không ai kiểm soát được, ai có
ý kiến bất đồng với nó có thể bị mất tự do và thậm chí cả cuộc sống
riêng của mình. Vào thời Tòa án dị giáo Công giáo La Mã, nếu những
kẻ dị giáo khăng khăng không chấp nhận học thuyết của Giáo hội sẽ bị
cho rằng cám dỗ người khác và đe dọa việc cứu rỗi những người đó. Do
đó, phải loại trừ những kẻ dị giáo khỏi cộng đồng tín đồ Công giáo, đầu
tiên là bằng vạ tuyệt thông, sau đó là tống ngục hoặc đem thiêu sống.
Quyền lực tinh thần của Giáo hội Công giáo càng được đề cao, người ta
càng đối xử hà khắc với các đối thủ của mình. Tại Liên Xô, vì những lý
do hệ tư tưởng, trong những thập niên 20 - 30 của thế kỷ XX, hằng
ngàn linh mục của Giáo hội Chính Thống giáo (Chính thống giáo Đông
phương/Đông Chính giáo Nga) đã bị bắt giam, đày đọa và/hoặc giết hại.
Tòa án vô thần thời Xô viết sau đó cũng giám sát rất nghiêm ngặt hoạt
động của tổ chức tôn giáo và các tín đồ thực tế bị chặn mọi nẻo trên
đường công danh xã hội.
Thế giới quan và hệ tư tưởng là hai nội hàm khác nhau về nguyên tắc.
Thế giới quan là một phần của cá nhân, thành phần ẩn và hữu cơ của nó,
thiết định thái độ của nó với bản thân, môi trường xã hội và tự nhiên
xung quanh. Hệ tư tưởng bao giờ cũng là cái bên ngoài, các đảng phái
chính trị, giai cấp, tôn giáo ràng buộc, áp đặt cho cá nhân trong cuộc đấu
giành quyền lực, bảo tồn và nhân rộng nó. Tất cả cái đó thúc đẩy con
người ta tách các xác tín của mình khỏi nội dung một hệ tư tưởng nếu nó
trái (mâu thuẫn) với các giá trị và nguyên tắc luân lý - đạo đức nhân loại,
với cảm thức quốc thể (cộng tự thị dân tộc) và lựa chọn thế giới quan của
cá nhân. Với nghĩa đó, thuyết hữu thần và thuyết vô thần với tính cách
các hệ thống lý lẽ nhằm đoạt thắng, triệt bỏ, loại trừ, giờ đây không còn
phù hợp với mô hình tồn tại xã hội hòa hợp, bởi văn bản thế giới quan,
mà chân lý của nó cố trục xuất, gạt bỏ bất kỳ chân lý cứu rỗi nào khác, là
một hành vi bạo lực tinh thần. Vì thế, các tôn giáo phải nghiên cứu những
vấn đề của học thuyết giáo lý, các sự kiện thực hành nghi thức thờ phụng,
và không can thiệp vào công việc của Nhà nước. Tôi xin dẫn ra đây ý
kiến về vấn đề này của nhà tư tưởng Kitô giáo uy tín đương đại C. S.
E. A. Korotkov. An ninh tinh thần 27
27
Louis: “Giáo sĩ là những người trong Nhà thờ được bầu ra và được đào
tạo để đảm trách những việc trọng đối với chúng ta, vì chúng ta có thiên
chức đối với sự hằng sinh. Chúng ta yêu cầu họ làm những việc mà họ
chưa bao giờ được học. Làm chính trị và kinh tế, chúng ta, tín hữu bình
thường, chính là người phải có trách nhiệm làm thay họ”8. Nhân đây, tôi
xin mạnh dạn khuyên người theo thuyết vô thần đừng đấu đầu với tôn
giáo với tính cách là một thế giới quan và thực hành đức tin, mà nên
thuyết phục người theo tôn giáo: a) việc tôn giáo muốn đơn điệu hóa lĩnh
vực giáo dục tinh thần - đạo đức là không thích hợp; b) việc người đó
cam kết can dự chính trị là điều có hại; c) việc người đó có tham vọng
đóng vai trò là tiếng nói của nhân dân, sứ giả chân lý tối thượng về các
vấn đề giáo dục, khoa học và văn hóa là vô căn cứ.
4. Lựa chọn thế giới quan: vấn đề lẽ sống
Nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến lựa chọn thế giới quan của cá
nhân là việc đặt ra và tìm kiếm giải pháp của nó cho những vấn đề có ý
nghĩa sinh tồn (lẽ sống) của cá nhân. Câu hỏi về ý nghĩa (giá trị) của đời
sống trần thế là cơ sở căn bản, quan thiết của tư duy hiện sinh trong bất
kỳ thế giới quan nào. Xét trên bình diện cá nhân, vấn đề này thường thể
hiện dưới hình thức câu hỏi: Ta sống để làm gì? Câu hỏi này, như nhà tư
tưởng tôn giáo S. L. Frank đã nói rất đúng, luôn là điều đau đáu, dằn vặt
tâm trí mỗi con người. “Mỗi con người đều có lúc, thậm chí trong một
thời gian rất dài, vùi đầu vào những mối quan tâm thường nhật hoặc
những lo toan vật chất của sự mưu sinh, làm giàu, hưởng thụ và thành đạt
trần tục, hoặc những đam mê theo đuổi sự nghiệp siêu phàm nào đó như
sự nghiệp chính trị, đấu đá đảng phái..., nhưng cuộc đời không bao giờ để
ngay cả một con người dù ngu độn nhất, suốt đời chỉ biết ăn no ngủ say,
có thể hoàn toàn mặc kệ mọi sự đời như vậy”. Nhưng chúng ta không thể
giải quyết được một cách triệt để, dứt khoát câu hỏi này (như S. L. Frank
và nhiều nhà tư tưởng tôn giáo khác quan niệm) nếu không đặt nó trong
văn cảnh thế giới quan tôn giáo9. Trên thực tế, tìm kiếm ý nghĩa của cuộc
sống nghĩa là theo đuổi một mục đích cao cả nào đó (lý tưởng hay cái
tuyệt đối) cuộc sống siêu nghiệm của cá nhân. Chỉ có một chữ “nhưng”,
đó là người nhận trực tiếp giải pháp mà S. L. Frank đề xuất lại là con
người của xã hội truyền thống. Xã hội hiện đại dựa trên các lý tưởng hoạt
động sáng tạo, tính tích cực hoạt động sáng tạo của cá nhân tự chủ. Cá
nhân đó có ý thức phản xạ nhạy bén, biết hướng tới các tiêu chí của tư
duy cần kiểm chứng, biết giải thiêng giới tự nhiên xung quanh và vũ
28 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014
28
trụ10. Đó là những cái (mới, khác) không dung hòa được với văn hóa và
tâm thức của xã hội truyền thống.
Chúng ta cũng tìm thấy các phương án khác của giải pháp không tôn
giáo cho vấn đề lẽ sống nơi A. Schopenhauer và A. Camus. Theo A.
Schopenhauer, cuộc đời là biểu hiện của ý chí thế giới đen tối và không
mục đích. Đời một người là sự biểu hiện cá nhân của ý chí đó. Vì thế, chỉ
còn một vấn đề là chết thế nào cho xứng đáng, nghĩa là làm sao giải thoát
khỏi cuộc sống cá nhân và rõ ràng là vô nghĩa lý, không sa vào quá trình
đằng đẵng vĩnh cửu của cái khởi đề mù mịt và vô căn cứ của tạo hóa?
Thành thử, lẽ sống là ở chỗ tìm kiếm khả năng đi vào hư vô, hòa tan
trong cái Không tồn tại tuyệt đối11. Còn A. Camus cho rằng, thế giới vốn
câm lặng một cách khó hiểu và tự thân lịch sử không đòi hỏi, không truy
vấn, cũng chẳng biện minh cho những hành động của con người. Thật
ngu ngốc nếu chúng ta định tìm ở đó lời đáp cho câu hỏi về thiên chức
của chúng ta, về cái đích mà chúng ta sống để vươn tới. Kinh nghiệm của
tồn tại con người không tránh khỏi kết thúc bằng cái chết đã dẫn cá nhân
biết tư duy đến chỗ phát hiện ra cái phi lý là sự thật cuối cùng sự tồn tại
của mình trên Trái Đất12. Các giải pháp này và các giải pháp tương tự hẳn
là khó hấp dẫn đối với những người không am hiểu về siêu hình học,
những người mà gian truân, khổ ải và mất mát không thể bù đắp được đã
đẩy họ đến những suy tư mang tính hiện sinh.
Trong thế giới quan không tôn giáo, giải quyết vấn đề lẽ sống hoàn
toàn không nhất thiết phải theo tinh thần bi quan và hư vô chủ nghĩa. Ý
nghĩa của cuộc sống là ở phương cách sống, ở chỗ cá nhân giải đáp thực
tiễn những câu hỏi: hướng tới cái gì và làm thế nào (bằng cách nào) để
đạt mục tiêu đó xuất phát từ khả năng hiện thực chứ không trông chờ ý
Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là, cuộc đời của con người ta diễn ra khác
nhau, và không có công thức phổ quát nào để sắp đặt nó theo ý mình.
Tuy nhiên, mỗi người, nếu muốn và có ý chí, đều có thể tìm ra lẽ sống
của đời mình khi nó mang lại cho mọi người (bằng lao động sáng tạo)
những gì thế giới ban cho nó (niềm vui giao tiếp với gia đình, bạn bè,
thiên nhiên và nghệ thuật); cuối cùng, ở sự dũng cảm và phẩm giá của nó
khi gánh chịu những nhọc nhằn, cay cực trong cuộc đời và đòn đau của
số phận13. Đối với nhiều người, “modus vivendi” (lối sống) đó không
nhất thiết là cứ phải cúng cầu và hành hương khắp các chốn thiêng, mặc
dù cuộc sống của họ đầy nhân phẩm và cao thượng.
E. A. Korotkov. An ninh tinh thần 29
29
5. Thế giới quan và đạo đức
Bây giờ, ta đặt câu hỏi: liệu nhân loại có giữ được đạo đức (và giữ
mình trong một thời gian tương đối dài sau đó) mà lại phải phụ thuộc vào
hữu thần luận hay vô thần luận với tính cách là đối cực khi giải quyết sứ
mệnh của nó không? Quan điểm không tôn giáo là đạo đức phản ảnh thực
tiễn hiện thực các mối quan hệ con người, các giá trị đạo đức là do xã hội
đề ra và chỉ mang hình thức tôn giáo trong một hệ thống giáo huấn cụ thể
nào đó. Đạo đức tôn giáo áp đặt quy phạm cho các tín đồ, con người ta
mới (được coi) là có đạo đức khi nó tuân theo những quy phạm này, và
thêm nữa là trong bối cảnh nó gặp một tôn giáo nào đó. Ở đây, trong việc
lựa chọn hành động, cái được đặt lên hàng đầu không phải là các động cơ
đạo đức thuần túy, mà lại là các động cơ tâm lý: thực hiện hành vi đi kèm
với tâm lý sợ bị trừng phạt hoặc mong được khen thưởng. Yếu tố đó cũng
làm giảm phần nào giá trị đạo đức của hành vi cả tiêu cực lẫn tích cực.
“Đạo đức không chỉ có thể độc lập với tôn giáo hoặc các nhân tố tất định
khác của nó. Nhưng có như thế nó mới là đạo đức!”14. Phải chăng tính
độc lập này chính là ý mà C. S. Lewis muốn nói đến trong công trình đã
nhắc ở phần trên: “Đức Christ không đến để rao giảng một thứ đạo đức
nào đó hoàn toàn mới. Quy tắc vàng của Tân Ước - hãy cư xử với người
khác như ngươi muốn họ đối xử với mình - chỉ là sự thể hiện ngắn gọn
điều mà trong đáy lòng mình mỗi người coi là chân lý”. Các nguyên tắc
đạo đức mà tôn giáo đề cao gồm chung thủy và hiền dịu, nhẫn nhịn và
cần cù, hòa đồng và không đố kị. Không có lý gì để buộc tội cho Do Thái
giáo, Công giáo, Islam giáo khi họ định, nói như C. S. Lewis, “khăng
khăng một mực buộc chúng ta trở lại với những nguyên lý xưa cũ đơn
giản mà chúng ta thường bỏ qua không để ý”. Dù sao vẫn cần lưu ý rằng,
một số nguyên lý cũ đơn giản nền luân lý chung của nhân loại đã phần
nào bị biến dạng, một mặt do các tư tưởng gia của Giáo hội; mặt khác là
hệ tư tưởng của chủ nghĩa Bolsevik. Ví dụ, giáo lý Chính Thống giáo một
mực buộc phải tuân phục các vị đại diện chính quyền, nhồi sọ giáo dân
rằng điều răn thứ năm (vâng lời bề trên). “Cha mẹ” ở đây không nên hiểu
là chỉ cha và mẹ, mà là tất cả những ai đứng ở vị trí cha mẹ, nghĩa là gồm
cả cấp trên trong sinh hoạt dân sự và bề trên tinh thần (trước hết là Sa
hoàng, kế đó là các vị mục tử của Giáo hội, cuối cùng là tất cả chức sắc
trong các mối quan hệ khác nhau). Đôi khi đạo đức tôn giáo bao gồm cả
việc lên án và cách ly người không theo tôn giáo. Trong Islam giáo, xu
hướng này thể hiện trong ý tưởng thánh chiến (Jihad) - cuộc chiến thần
30 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014
30
thánh chống lại những kẻ vô đạo (các trào lưu Islam giáo ôn hòa thường
giải thích thánh chiến như đức tin cuồng nhiệt, không cho phép bạo lực
và giết chóc). Tương ứng, luận đề nổi tiếng của V. I. Lênin cho rằng, đạo
đức là bắt nguồn từ lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
thực tế đã cấp phép cho thứ đạo đức mặc sức lộng hành đối với đại diện
của các giai cấp khác.
Nói chung, việc cho rằng chỉ có thể có một thứ đạo đức đích thực dựa
trên cơ sở một thế giới quan là một nét đặc trưng của xã hội toàn trị. Tuy
nhiên, cả việc ảnh hưởng của các tôn giáo thế giới suy giảm, các xã hội
toàn trị sụp đổ, nói riêng cũng như xét trên toàn cục, đều không hề làm
giảm giá trị của đạo đức. Vậy thì, việc các giới triết học, văn hóa học và
thần học coi nguồn gốc của nó là gì - là sự thống nhất nhân tính của loài
người, là các quy luật thích nghi của quá trình tiến hóa tồn tại xã hội,
trong trực giác lý thuyết tuyệt đối, hay trong Lời Chúa đã răn liệu có
quan trọng nữa không?! Quan trọng ở đây là một vấn đề khác: chỉ có sự
tự nguyện và ý thức được (theo I. Kant, đó là cái dựa trên sự hiểu và tự
cam kết trách nhiệm) theo “tinh thần tính quy phạm phổ quát” (thuật ngữ
của E. Husserl) hay theo luật của nhân tính, mới giữ được cơ may sống
sót cho nền văn minh hành tinh này.
6. Thế giới quan và tính khoan dung
Ở Liên bang Nga, sự đối đầu giữa người kiên định đức tin và người
hăng hái phản bác nó không kết thúc bằng thất bại của các lực lượng
chính trị đã tuyên truyền tâm lý không tin, không chỉ vào sự khủng bố tư
tưởng mà còn cả bạo lực thể xác: khi chủ nghĩa vô thần nhà nước đi vào
lãng quên thì lại nảy nòi hiện tượng nhà thờ hiếu chiến. Hiện nay, bằng
hoạt động tuyên truyền của đội ngũ giáo sĩ với nhiều tuyệt chiêu, người
Nga đang bị nhồi sọ tư tưởng cho rằng, người dân tìm đến đức tin tôn
giáo là cần thiết để cứu nước Nga khỏi chủ nghĩa hư vô đạo đức và xu
hướng Phương Tây hóa, và ai không tin vào Đấng Sáng Thế thì sớm
muộn cũng là không yêu nước và vô đạo. Bản thân khái niệm “tinh thần”
mặc nhiên được đồng nhất với tôn giáo và việc giáo dục đạo đức cho
thanh niên thì Nhà nước nhìn chung là muốn chuyển sang vai các cơ sở
của Giáo hội. Trong khi đó, việc phát triển phương án thế giới quan Kitô
giáo kiểu nhà nước độc tài (giống như Islam giáo, Do Thái giáo) thành
một học thuyết tư tưởng nhà nước chắc gì góp phần phát triển dân chủ
hóa, phát triển tinh thần, hòa bình và phồn vinh của xã hội Nga. Thế
E. A. Korotkov. An ninh tinh thần 31
31
nhưng, hiện nay chúng ta thấy đang có những bài báo kêu gọi thay đổi
nền tảng Chính Thống giáo của chế độ nhà nước hiện hành. Chẳng hạn,
Linh mục D. Poznansky viết trên Tạp chí Chính trị: “Cần phải làm cho
toàn bộ hệ thống nhà nước phù hợp với mô hình văn minh Chính Thống
giáo, bởi chưng mọi ý định hòng phối kết các giá trị Kitô giáo với các
thiết chế thế tục tự do của nền dân chủ Phương Tây rốt cuộc đều sẽ thất
bại”15. Thử hỏi, chẳng hạn, liệu các tầng cấp của Islam giáo có nảy ra ý
muốn tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng ý tưởng
làm cho phù hợp chính thể nước Nga mà không phải chỉ với mô hình
Chính Thống giáo Nga mà cả với nền văn minh Islam giáo không? Tôi
không nghi ngờ rằng, kể cả một sáng kiến như vậy cũng sẽ được ủng hộ
rộng rãi. Vậy lúc đó sẽ thế nào? Cần lưu ý rằng, theo một đức tin khác
(cải giáo) trước đây từng bị coi (hiện thời vẫn vậy) là xấu hơn là không
có đức tin. Bởi I. Kant đã từng cảnh báo chúng ta: “... Các vụ bạo loạn
tôn giáo thường gây chấn động thế giới và dìm nó trong biển máu, chưa
bao giờ là điều gì khác hơn ngoài những bất đồng tiếng nói do đức tin
của Giáo hội”16. Tư tưởng gia của các tổ chức tôn giáo khác nhau
thường giải thích các hiện tượng như vậy là sự đụng độ không tránh
khỏi giữa lực lượng thần thánh và bè lũ Satan, dựa vào đó để tôn vinh
thái độ cuồng tín và biện minh cho mọi thủ đoạn tàn độc. Trong thế giới
ngày nay, quy kết diễn ngôn của chủ nghĩa tôn giáo chính thống là
nguyên nhân gây ra các xung đột vũ trang là hiện tượng hoàn toàn
không có gì lạ. Mối liên hệ giữa hữu thần luận với tình hình xung đột
hiện nay ở Cận Đông, Algeria, Punjab, v.v là hiển nhiên. Thủ lĩnh
tinh thần của Iran, Ali Khamenei, mới đây đã kêu gọi người dân của
quốc gia này chuẩn bị chiến tranh. Theo thông tin của Interfax, vị Thủ
lĩnh tinh thần này tuyên bố: “Nếu chúng ta xem xét mình là chiến sĩ của
Sứ giả (Imam) thứ mười hai, chúng ta phải sẵn sàng cho cuộc chiến
dưới sự lãnh đạo của Đức Allah và với sự giúp đỡ của vô hình của
Ngài, chúng ta sẽ làm cho nền văn minh Islam giáo giành chiến thắng
trên vũ đài thế giới. Đó là sứ mạng của chúng ta”17.
Chỉ có định chế tôn giáo với tính cách là nhân tố “suy nghĩ hiền
lương” và “lối sống thiện tâm” (các thuật ngữ của I. Kant), chứ không
phải là chứng lý chống lại các tham vọng chính trị, mới là cơ sở hiện thực
và như nhất để giải quyết các xung đột tôn giáo, một trong những mối đe
dọa nguy hiểm nhất cho toàn thể cộng đồng thế giới. “Kinh nghiệm nước
Nga cho thấy, các thế lực phá hoại quốc gia chúng ta luôn vượt ra môi
32 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014
32
trường vô thần không có các quy ước đạo đức”. Đây là câu dẫn tài liệu
nhan đề Đồng chất hóa thế giới quan quốc tộc của giới tinh hoa chính trị
Nga của S. E. Matvejchuk. Dẫn trích luận đề đáng ngờ về nội dung “ai
chối bỏ Chính Thống giáo Nga thì không còn là người Nga nữa”, tác giả
này cho rằng, nếu giới tinh hoa chính trị biết cách giải quyết tốt vấn đề
vai trò lập quốc của dân tộc Chính Thống giáo, thì các dân tộc khác (các
phân tộc/fractions) sẽ tập hợp lại chung quanh một nhà lãnh đạo nhằm
chung tay xây đắp ngôi nhà chung18. Thế nhưng, việc chia quốc tộc
(nation) ra thành người lập quốc và các phân tộc khác, xét theo sở thuộc
cộng đồng của họ, bản thân nó đã là (một luận điệu) vừa vô đạo đức và
trái lý, vừa nguy hiểm.
Thêm nữa, ngay cả các hình thức thế giới quan khác cũng được sử
dụng thành công không kém cho các mục đích vô nhân đạo (siêu hình
học của ý chí chiếm lĩnh quyền lực - trong ý thức hệ của Đế chế thứ ba
(Chỉ Đức phát xít (Biên tập), siêu hình học xã hội của cuộc đấu tranh giai
cấp - trong ý thức hệ của chủ nghĩa Bolsevik, v.v). Vì vậy, trong một
xã hội, khi mà các định đề thế giới quan không át được các diễn ngôn
chính trị, pháp lý và đạo đức, một tình huống như vậy hẳn là khả quan.
Điều quan trọng không kém là sự hình thành một phương châm tâm lý -
xã hội mới về nguyên tắc trong quan hệ giữa chủ thể thuộc các đức tin
khác nhau, giữa người có đức tin và người không có đức tin, đặng góp
phần đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng tinh thần. Phương châm
ấy gắn với truyền thống khoan dung trong lĩnh vực thế giới quan, cái mà
xã hội nước Nga còn ít biết tới. Mỗi người đều có quyền tự quyết sống
với tổ chức tinh thần là chân lý cứu rỗi mà mình thân thiết, hiểu rõ và
không ai được ép buộc anh ta phải chấp nhận một thứ thế giới quan nào
đó dù là đích thực nhất. Đó là thực chất của tư tưởng khoan dung về thế
giới quan như là thái độ tôn trọng những người có thế giới quan khác
mình. Đối cực của khoan dung thế giới quan là thái độ cố chấp, tức là có
thái độ hung hăng, gây sự với người có thế giới quan khác mình, cho rằng
chỉ có thế giới quan của mình mới đúng đắn và đáng chấp thuận. Phương
thức giao tiếp duy nhất giữa các chủ thể có thế giới quan khác nhau, theo
tôi, là khi những người tham gia giao tiếp có năng lực tuân thủ chế độ
trung lập về thế giới quan “lắng nghe nhau, đồng thời tránh cố chấp hơn
thua”, theo đó, chỉ có thể khi cả hai đều khả chấp - “có thể tôi đúng, cũng
có thể anh đúng, hoặc không ai trong chúng ta đúng, bằng cách nào đó
mà ta chưa biết, cả hai ta cùng đúng”19.
E. A. Korotkov. An ninh tinh thần 33
33
Hơn nữa, người ta thường quên rằng, lòng khoan dung chỉ có thể thể
hiện khi các chủ thể của nó có sự thống nhất quan điểm về các giá trị cốt
lõi cơ bản của một tồn tại xã hội hòa hợp. Mọi xã hội dân chủ, đồng thời
với việc phát huy tiềm năng tính khác biệt của các thành viên xã hội, tức
là số lượng ý kiến khác nhau đáng kể về các mặt xã hội, dân tộc và tâm lý
phải thực hiện song song việc sắp xếp các ưu tiên của mình, đặc biệt là
giải quyết vấn đề tìm ra một không gian bản sắc sinh hoạt chung (tương
đối nhỏ, nhưng có ranh giới rõ ràng) giống với không gian của toàn nhân
loại. Ngày nay, nhân loại, không phải trên lý thuyết mà là trong thực tiễn,
đã nhận thức được nỗi cay đắng của tâm lý bất khoan dung tôn giáo, của
chủ nghĩa ích kỷ chủng tộc, dân tộc và giai tầng xã hội, đã tiệm cận đến
sát mức độ giác ngộ (và suy nghiệm triết học) tọa độ của không gian sống
thống nhất đó, không chấp nhận bất kỳ hình thức gây hấn, cố chấp về mặt
chủng tộc, dân tộc và thế giới quan, quyền lao động và sở hữu tài sản do
lao động mà có, tự do lựa chọn chính trị, v.v Trên danh nghĩa, những
điều này đều được nêu trong nhiều văn bản luật pháp quốc tế, cũng như
Hiến pháp quốc gia của các nước dân chủ. Dĩ nhiên, sự thống nhất này
không phải là điều kiện tiên nghiệm, nhất thành bất biến của tồn tại nhân
loại toàn hành tinh. Nói cho đúng hơn, đây là “một nhiệm vụ mà mỗi thế
hệ mới của các nhà lý luận và thực tiễn nhất thiết phải suy ngẫm và giải
quyết theo cách mới, đồng thời với việc ý thức được quan niệm về tính
thống nhất và những hành động thực hiện này của họ không vượt ra
ngoài không gian và thời gian của họ”20.
Có thể sẽ có người cho rằng, chủ nghĩa thế giới vừa trình bày trên đây
là không thể chấp nhận đối với tinh thần Nga. Tôi tìm thấy lời giải ở
Richard Rorty: “Có một hình thức xấu xa của chủ nghĩa thế giới, khẳng
định rằng các quyền của con người là phù hợp với các nền văn hóa trung
tâm Châu Âu, còn các nền văn hóa khác thì phù hợp nhất là chế độ mật
vụ giăng khắp xã hội, nắm trong tay cả các quan tòa, giáo sư và nhà báo
cúc cung tuân lệnh, cùng với một đám cai ngục đao phủ. Sự kết án thế tục
cho thứ chủ nghĩa thế giới lừa mị và chuyên tự lừa kia là cái chứa đựng
một hình ảnh rõ ràng về tương lai con người thế giới đặc biệt, hình ảnh
một nền dân chủ trên toàn hành tinh, một xã hội mà việc tra tấn hoặc
đóng cửa các trường đại học hoặc báo chí ở đầu kia thế giới sẽ khiến
người ta nổi giận chẳng khác gì những cái đó xảy ngay trên quê hương
mình. Thế giới đại đồng tương lai đó, xét trên bình diện phi chính trị,
trong tương lai có thể sẽ đa dạng và không đồng nhất không kém về mặt
34 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014
34
văn hóa”21. Ý nghĩa phổ biến (toàn nhân loại) của các giá trị nói trên
được hiểu không phải như là một thực tế kinh nghiệm, mà như là một thứ
chỉ lệnh tiên nghiệm buộc phải thực thi trong một tương lai không mấy
xa nữa là một trong những điều kiện quan trọng nhất quyết định sự sống
còn của nhân loại (hiện vẫn đang bị phân mảnh), là điều khó chối cãi.
7. Thay lời kết
Nhân loại chưa bao giờ cạn kiệt nhu cầu tìm ra chân lý cứu rỗi - thấu
đạt đến căn cứ tới hạn lấp lánh bất định của một nền hòa bình vĩnh cửu và
ý nghĩa tối thượng của đời sống phù vân của chúng ta trong đó. Có người
hy vọng sẽ được cứu rỗi bởi đức tin vào một Thiên Chúa (Christ, Allah,
Yahweh/Yehwoh); người thì thấy cuộc sống của mình dễ chịu hơn trong
thế giới thế tục hóa của chủ nghĩa duy vật khoa học, người khác lại bị hút
vào thế giới đa sắc màu của đa thần, đa giáo, v.v Không có gì đáng
trách cứ khi vào các giai đoạn khác nhau của đời mình, người ta tìm ra
chỗ dựa tinh thần nơi các chân lý cứu rỗi khác nhau. Nhưng ở đây, điều
kiện tiên quyết có ý nghĩa tích cực nhất thiết của đời sống con người là
đều phải tuân theo những nguyên tắc đạo đức dễ hiểu và khả thi đối với
mình. Mọi người đều bình đẳng trước đạo đức, dù bạn là người có đức tin
hay không có đức tin, và mỗi người trong chúng ta đều có trách nhiệm
tuân thủ các quy phạm xác định mức độ nhân tính của con người.
Từ những điều vừa trình bày, bạn đọc có thể kết luận rằng, tác giả bài
viết đã vi phạm nguyên tắc logic “tertium non datur” (không có cái thứ ba)
vì trong hai thế giới quan trái ngược nhau, thế giới quan tôn giáo và thế
giới quan không tôn giáo, không thế giới quan nào được công nhận là đúng
(hoặc sai). Đúng vậy, nếu chúng ta dùng logic học cổ điển. Tuy nhiên, ở
đây, tôi đánh giá diễn ngôn thế giới quan trên lập trường logic phi cổ điển,
tức là logic tam trị, trong đó bên cạnh “đúng/chân” hoặc “sai/giả” còn có
trị thứ ba (được định danh) là “có thể”22. Tôi tin rằng, đây chính là cách
tiếp cận đáp ứng được bản chất của thế giới quan, cái ngay từ đầu vốn đã
có đặc trưng là bất định về cơ sở bản thể luận của nó./.
Phụng Sơn dịch
CHÚ THÍCH:
1 Р. Рорти (2003), “От религии через философию к литературе: путь
западных интеллектуалов” (Từ tôn giáo, thông qua triết học, đến văn học: con
đường của giới nhân sĩ Phương Tây), Вопросы философии, № 3: 3.
E. A. Korotkov. An ninh tinh thần 35
35
2 В. Дильтей (1995), Типы мировоззрения и обнаружение их в
метафизических системах (Các kiểu hình thế giới quan và sự bộc lộ của
chúng trong các hệ thống siêu hình), Культурология, XX век, Антология. М.,
Юрист: 225.
3 З. Фрейд (1989), Будущее одной иллюзии (Tương lai của một ảo tưởng),
Сумерки богов, М., Политиздат.
4 В. Дильтей (1995), Типы мировоззрения и обнаружение их в
метафизических системах (Các kiểu hình thế giới quan và sự bộc lộ của
chúng trong các hệ thống siêu hình), Культурология, XX век, Антология. М.,
Юрист: 225, 220.
5 Р. Карнап (1993), “Преодоление метафизики логическим анализом языка”
(Khắc phục tính siêu hình bằng phân tích ngôn ngữ về mặt logic), Вестник
Московского yниверситета, Серия 7, Философия, № 6.
6 Р. Тарнас (1995), История западного мышления (Lịch sử tư duy Phương Tây),
М., КРОН-ПРЕСС: 345.
7 Р. Рорти (2008), “Антиклерикализм и атеизм” (Thuyết chống giáo quyền và
vô thần luận), Логос, № 4.
8 К.С. Льюис, Просто христианство,
9 С. Франк, Смысл жизни (Lẽ sống),
10 В. С. Степин, Саморазвивающиеся системы и перспективы техногенной
цивилизации (Các hệ thống tự phát triển và viễn cảnh của nền văn minh công
nghệ),
11 А. Шопенгауэр (1992), Мир как воля и представление (Thế giới như là ý
hướng và quan nịêm), Т.2, Мн., ООО “Попурри”.
12 А. Камю (1990), Бунтующий человек (Con người nổi loạn), М.
13 В. Франкл (1990), Человек в поисках смысла (Con người đi tìm lẽ sống), М.,
Прогресс.
14 А. А. Гусейнов (2007), Возможна ли мораль, независимая от религии? (Liệu
có đạo đức không liên quan đến tôn giáo?), Дни науки в Университете:
Избранное, СПб.
15 Д. Познанский (2008), “Цивилизационная несовместимость” (Tính bất khả
dung chấp văn minh), Политический журнал, № 4, 11 марта.
16 И. Кант (1980), Трактаты и письма (Tác phẩm và thư từ), М., Наука: 178.
17 Духовный лидер Ирана (Vị thủ lĩnh tinh thần của Iran...),
18 С. Е. Матвейчук (2004), “Идентификация национального мировоззрения
российской политической элиты” (Đồng chất hóa thế giới quan quốc tộc của
giới tinh hoa chính trị Nga), Право и безопасность, № 2,
19 Панич Алексей, О пользе и вреде скептицизма для философии (Lợi và hại
của chủ nghĩa hòai nghi đối với triết học),
20 С. Г. Чукин (2002), Ю. Хабермас versus А. Макинтайр: к вопросу об
основаниях современного философствования - Размышления о философии
на перекрестке второго и третьего тысячелетий (U. Habermas versus A.
Ch. Maclntyre: góp vào vấn đề những căn cứ của triết luận hiện nay - Suy ngẫm
36 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014
36
về triết học nơi ngã ba đường hai thiên niên kỷ), Сборник к 75-летию
профессора М.Я. Корнеева, Серия “Мыслители”, Выпуск 11, СПб.
21 Р. Рорти (1994), “Философия и будущее” (Triết học và tương lai), Вопросы
философии, № 6.
22 В. А. Бочаров, В. И. Маркин (2008), Введение в логику: учебник (Nhập môn
logic học: giáo trình), М., ИД “Форум”: ИНФРА-М: 286 - 291.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. В. А. Бочаров, В.И. Маркин (2008), Введение в логику: учебник (Nhập môn
logic học: giáo trình), М., ИД “Форум”: ИНФРА-М.
2. С. Н. Булгаков (2010), Интеллигенция и религия: О противоречивости
современного безрелигиозного мировоззрения (Giới trí thức và tôn giáo: Về
tính mâu thuẫn của thế giới quan phi tôn giáo hiện nay), Санкт-Петербург:
Издательство Олега Абышко, Сатисъ.
3. А. А. Гусейнов (2007), Возможна ли мораль, независимая от религии? (Liệu
có đạo đức không liên quan đến tôn giáo?), Дни науки в Университете:
Избранное, СПб.
4. В. Дильтей (1995), Типы мировоззрения и обнаружение их в
метафизических системах (Các kiểu hình thế giới quan và sự bộc lộ của
chúng trong các hệ thống siêu hình), Культурология, XX век, Антология. М.,
Юрист.
5. Духовный лидер Ирана (Vị thủ lĩnh tinh thần của Iran...),
6. А. Камю (1990), Бунтующий человек (Con người nổi loạn), М.
7. И. Кант (1980), Трактаты и письма (Tác phẩm và thư từ), М., Наука.
8. Р. Карнап (1993), “Преодоление метафизики логическим анализом языка”
(Khắc phục tính siêu hình bằng phân tích ngôn ngữ về mặt logic), Вестник
Московского yниверситета, Серия 7, Философия, № 6.
9. К.С. Льюис, Просто христианство,
10. С.Е. Матвейчук (2004), “Идентификация национального мировоззрения
российской политической элиты” (Đồng chất hóa thế giới quan quốc tộc của
giới tinh hoa chính trị Nga), Право и безопасность, № 2,
11. Панич Алексей, О пользе и вреде скептицизма для философии (Lợi và hại
của chủ nghĩa hòai nghi đối với triết học),
12. Д. Познанский (2008), “Цивилизационная несовместимость” (Tính bất khả
dung chấp văn minh), Политический журнал, № 4, 11 марта.
13. Р. Рорти (2003), “От религии через философию к литературе: путь
западных интеллектуалов” (Từ tôn giáo, thông qua triết học, đến văn học: con
đường của giới nhân sĩ Phương Tây), Вопросы философии, № 3.
14. Р. Рорти (2008), “Антиклерикализм и атеизм” (Thuyết chống giáo quyền và
vô thần luận), Логос, № 4.
15. Р. Рорти (1994), “Философия и будущее” (Triết học và tương lai), Вопросы
философии, № 6.
E. A. Korotkov. An ninh tinh thần 37
37
16. В. С. Степин, Саморазвивающиеся системы и перспективы техногенной
цивилизации (Các hệ thống tự phát triển và viễn cảnh của nền văn minh công
nghệ),
17. Р. Тарнас (1995), История западного мышления (Lịch sử tư duy Phương Tây),
М., КРОН-ПРЕСС.
18. З. Фрейд (1989), Будущее одной иллюзии (Tương lai của một ảo tưởng),
Сумерки богов, М., Политиздат.
19. С. Франк, Смысл жизни (Lẽ sống),
20. В. Франкл (1990), Человек в поисках смысла (Con người đi tìm lẽ sống), М.,
Прогресс.
21. С. Г. Чукин (2002), Ю. Хабермас versus А. Макинтайр: к вопросу об
основаниях современного философствования - Размышления о философии
на перекрестке второго и третьего тысячелетий (U. Habermas versus A.
Ch. Maclntyre: góp vào vấn đề những căn cứ của triết luận hiện nay - Suy ngẫm
về triết học nơi ngã ba đường hai thiên niên kỷ), Сборник к 75-летию
профессора М.Я. Корнеева, Серия “Мыслители”, Выпуск 11, СПб.
22. А. Шопенгауэр (1992), Мир как воля и представление (Thế giới như là ý
hướng và quan nịêm), Т.2, Мн., ООО “Попурри”.
Abstract
SPIRITUAL SECURITY: THE CONFLICT BASED ON THE
WORLD VIEW
The solution to the ripe conflict in social, to the debate on the world
view that being cause controversy, to leading the ability to form a social -
psychology motto in communicating between the subject of the different
faiths, and between belief and non-belief which bring Russia out of the
current crisis in the spirit were the contents of this article.
Keywords: Security spiritual, world view, religion, atheism, conflict,
pluralism, neutrality, tolerance.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24319_81344_1_pb_7428.pdf