Các nhân tố đã phân tích giúp cho nữ tu sĩ Phật giáo tại Quảng Nam,
Đà Nẵng hiện nay, tuy số lượng ít hơn rất nhiều so với tăng sĩ, nhưng
ngày càng thể hiện được vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển
Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ mới. Những đóng góp đáng kể của họ
được Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta ghi nhận. Đó
là một trong những điều kiện thuận lợi để ni giới ngày càng phát huy
hơn nữa truyền thống tốt đẹp trong sự nghiệp xây dựng đất nước Việt
Nam hôm nay
12 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 637 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tôn giáo - Các yếu tố tác động đến đời sống nữ tu sĩ phật giáo tại Quảng Nam, Đà Nẵng từ năm 1990 đến nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
64 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 8 - 2014
LÊ THU HUYỀN*
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỜI SỐNG
NỮ TU SĨ PHẬT GIÁO TẠI QUẢNG NAM, ĐÀ NẴNG
TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY
Tóm tắt: Phật giáo ảnh hưởng đậm nét trong suốt chiều dài hơn
năm thế kỷ du nhập và phát triển tại Quảng Nam, Đà Nẵng. Từ
năm 1990 đến nay, Phật giáo tại Quảng Nam, Đà Nẵng nói chung,
đời sống của nữ tu sĩ Phật giáo ở địa bàn này nói riêng đã có
những thay đổi lớn cùng với sự thay đổi của dân tộc. Bài viết phân
tích các nhân tố tác động đến đời sống nữ tu sĩ Phật giáo tại
Quảng Nam, Đà Nẵng từ năm 1990 đến nay.
Từ khóa: Nữ tu sĩ Phật giáo, Quảng Nam, Đà Nẵng.
1. Khái lược về Phật giáo tại Quảng Nam, Đà Nẵng
Mảnh đất Quảng Nam, Đà Nẵng từng được các vua Champa chọn là
thủ phủ đầu tiên với sự ra đời của kinh đô Sinhapura các thế kỷ VI - VII
(Trà Kiệu -Duy Xuyên - Quảng Nam), kinh đô Indrapura thế kỷ IX
(Đồng Dương - Thăng Bình - Quảng Nam). Bên cạnh dấu ấn Ấn Độ giáo
để lại qua các di tích và di vật, vùng đất Quảng Nam, Đà Nẵng còn được
biết đến với dấu ấn Phật giáo đậm nét, nổi tiếng với Phật viện Đồng
Dương. Ngay từ thời mở đất về phía Nam, khi đến vùng đất Quảng Nam,
Đà Nẵng, các chúa Nguyễn đều là người mộ Phật giáo: “Các chúa
Nguyễn ngoài việc bảo vệ và mở mang bờ cõi Đàng Trong thì hầu hết
đều là Phật tử mộ đạo, hộ trì Phật giáo phát triển ở Đàng Trong, chăm lo
xây dựng, trùng tu chùa chiền luôn tạo điều kiện thuận lợi cho chư tăng
tu học yên ổn”1. “Ngôi chùa đầu tiên do chính quyền phong kiến xây
dựng trên đất Quảng Nam theo lệnh của Nguyễn Hoàng trong chuyến đi
kinh lý vùng này vào năm 1602 là chùa Long Hưng ở phía đông dinh trấn
thuộc xã Cần Húc”2.
Quảng Nam, Đà Nẵng cũng là nơi hình thành hai dòng Thiền Minh
Hải - Liễu Quán. Phật giáo nơi đây hội tụ đủ ba hệ phái chính của Phật
*
ThS., Cơ sở Trường Đại học Nội vụ Hà Nội tại Miền Trung, tỉnh Quảng Nam.
Lê Thu Huyền. Các yếu tố tác động 65
giáo Việt Nam là Hệ phái Bắc Tông, Hệ phái Nam Tông và Hệ phái Khất
Sĩ. Bởi vậy, tư tưởng Phật giáo đã ăn sâu vào nếp sống, giữ vai trò quan
trọng trong sinh hoạt tôn giáo, văn hóa xã hội cộng đồng cư dân xứ
Quảng3.
Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, nhiều vị nữ tu sĩ Phật giáo
tại Quảng Nam, Đà Nẵng đã vượt qua nhiều khó khăn để góp phần giữ
gìn mạng mạch đạo pháp, tiêu biểu là sự kiện Sư cô Thích Nữ Diệu Định
(1940 - 1966) tự thiêu để phản đối chính quyền Sài Gòn đàn áp Phật
giáo4. Sau khi thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1981), Phật giáo
tại Quảng Nam, Đà Nẵng có nhiều thay đổi theo sự phát triển chung của
Phật giáo toàn quốc. Đặc biệt, từ năm 1990 (năm ban hành Nghị quyết 24
đánh dấu sự đổi mới nhận thức của Đảng về tôn giáo và công tác tôn
giáo) đến nay, đời sống Phật giáo Việt Nam có nhiều biến chuyển theo
chiều hướng tích cực. Trong đó, sự đóng góp của ni giới đối với Phật
giáo tại Quảng Nam, Đà Nẵng là rất đáng kể.
2. Các yếu tố cơ bản tác động đến đời sống nữ tu sĩ Phật giáo tại
Quảng Nam, Đà Nẵng hiện nay
2.1. Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Nhận thức được vai trò quan trọng của tôn giáo, Đảng và Nhà nước
Việt Nam luôn quan tâm đến vấn đề tôn giáo. Chính sách của Nhà nước
đối với tôn giáo là bình đẳng. Tuy nhiên, mỗi tôn giáo có những đặc điểm
riêng, nên Nhà nước có những ứng xử phù hợp đối với từng tổ chức tôn
giáo. Nhà xã hội học nổi tiếng M. Weber chỉ ra một nguyên tắc xây dựng
chính sách tôn giáo và tính hiện đại nên “bắt đầu từ việc quan tâm tới các
trải nghiệm của con người, những trải nghiệm khiến cho con người đến
với tôn giáo, hơn là bằng việc bắt đầu với tính chân lý của các niềm tin
mà các thể chế hay quyền lực tôn giáo đưa ra”5. Đảng và Nhà nước Việt
Nam rút ra nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng chính sách phù hợp
với Phật giáo xét trên đặc điểm của tôn giáo này cũng như những tâm
thức của Phật tử trong thực hành tôn giáo. Những đặc điểm của Phật giáo
so với các tôn giáo khác ở Việt Nam là:
Xét về mặt lịch sử, Phật giáo du nhập, tồn tại và phát triển ở nước ta
lâu đời nhất so với các tôn giáo khác, nên có sự ảnh hưởng sâu đậm đến
nhiều mặt của đời sống xã hội. Hơn nữa, trải qua rất nhiều thăng trầm
lịch sử, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc. Số tín đồ Phật giáo luôn
66 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 8 - 2014
chiếm số lượng đông nhất6. Phật giáo luôn gắn với đời sống của quần
chúng nhân dân, đem đạo vào đời. Trong thời hiện đại, Phật giáo có
nhiều đóng góp với sự nghiệp cách mạng do Đảng và Nhà nước lãnh đạo.
Xét về mặt giáo lý, Phật giáo du nhập vào Việt Nam theo con đường
hòa bình. Những nội dung cơ bản trong giáo lý Phật giáo như bình đẳng,
khoan dung, từ bi, cứu khổ,... rất gần gũi với đời sống tâm linh của con
người Việt Nam. Đặc biệt, giáo lý Phật giáo có nhiều yếu tố triết học,
khoa học, đạo đức tích cực, góp phần phát triển văn hóa dân tộc.
Xét về mặt tổ chức, Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoàn toàn mang
tính quốc gia, dân tộc do Nhà nước giúp đỡ thành lập và công nhận tư
cách pháp nhân. Đặc biệt, trên thế giới chỉ có Phật giáo Việt Nam tập hợp
và đoàn kết cả Hệ phái Bắc Tông, Hệ phái Nam Tông và Hệ phái Khất Sĩ
trong một tổ chức thống nhất.
Xét về pháp tu, Phật giáo Việt Nam là sự kết hợp của cả ba thành tố
cơ bản của Phật giáo là Thiền, Tịnh, Mật. Pháp tu đó gần gũi với tâm
thức và văn hóa người Việt nên được đông đảo Phật tử thực hành.
Từ những đặc điểm nêu trên, Đảng và Nhà nước chú trọng công tác
hướng dẫn, giáo dục tăng ni, Phật tử tinh thần yêu nước, đoàn kết và tôn
trọng pháp luật; giúp đỡ Phật giáo thống nhất trong một tổ chức chung,
hướng dẫn xây dựng đường hướng hành đạo và xây dựng bộ máy hành
chính đạo7.
Tháng 11 năm 1981, bằng những “hoạt động trợ duyên của Nhà nước
Việt Nam qua việc ủng hộ nguyện vọng của chư tôn giáo phẩm tăng ni,
Phật tử các tổ chức Giáo hội, hệ phái thống nhất Phật giáo thành lập Giáo
hội Phật giáo Việt Nam; quan tâm, tạo điều kiện, từng bước giải quyết
những yêu cầu chính đáng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngay sau khi
Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập”8. Từ năm 1981 đến nay,
Phật giáo Việt Nam có những thay đổi tích cực, ngày càng tạo được sức
ảnh hưởng lớn trong đời sống dân tộc
Chính sách về tôn giáo nói chung, về Phật giáo nói riêng của Đảng và
Nhà nước đã tác động rất nhiều đến đời sống Phật giáo tại Quảng Nam,
Đà Nẵng. Đời sống nữ tu sĩ Phật giáo tại Quảng Nam, Đà Nẵng do vậy
cũng có những chuyển biến tích cực. Hầu hết nữ tu sĩ Phật giáo tại Quảng
Nam, Đà Nẵng mà chúng tôi tiếp xúc đều đánh giá cao chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước hiện nay. Chính sách tôn giáo giúp họ thuận
Lê Thu Huyền. Các yếu tố tác động 67
lợi trong tu tập, tham gia vào tổ chức đoàn thể, công tác xã hội, xây dựng
chùa cảnh, thu nhận đệ tử, tổ chức nghi lễ,v.v Đó là những điều khác
biệt khá rõ so với thời điểm trước năm 1990. Ni sư Thích Nữ Nhật Tân
đánh giá: “Đất nước thời bao cấp có một số hạn chế về hoạt động tôn
giáo, nên có nhiều ý kiến, mong mỏi đối với Nhà nước để hoạt động của
tôn giáo, trong đó có Phật giáo có thể dễ dàng hơn. Ví dụ, muốn đi tu
phải đăng ký tạm trú, Nhà nước không đăng ký nên nhiều người phải
trốn. Tuy nhiên, từ khi đất nước Đổi mới, hoạt động Phật giáo có nhiều
điểm thuận lợi hơn. Ví dụ, khi đủ điều kiện hợp pháp, tôi muốn xây chùa,
Nhà nước ký giấy cho; muốn nhận điệu chúng, Nhà nước cho nhận điệu
chúng; muốn cho đệ tử đi học, Nhà nước ký giấy cho đệ tử đi học”9.
2.2. Vị trí của nữ giới trong Phật giáo
Sinh ra và lớn lên trong xã hội Ấn Độ đầy bất bình đẳng, nhưng Đức
Phật không coi rẻ phẩm giá mà chỉ ghi nhận bản chất yếu đuối của nữ
giới. Ngài nhìn nhận thiện tính trong cả hai giới nam và nữ. Trong giáo
huấn, Ngài đặt mỗi giới vào đúng vị trí. Nam giới hay nữ giới không phải
là một trở ngại cho việc thanh lọc thân tâm hay độ tha. Lúc đầu, Đức Phật
không chấp nhận nữ giới vào Giáo hội. Nhưng về sau, do lời thỉnh cầu
tha thiết của đại đệ tử Ananda và kế mẫu Maha Pajapati, Đức Phật cho
phép thành lập Giáo hội Tỳ kheo ni. Như vậy, Đức Phật là người đầu tiên
sáng lập một đoàn thể Phật giáo phụ nữ có giới luật và kỷ cương đầy đủ.
Đức Phật luôn đề cao phẩm hạnh của phụ nữ, giải phóng họ khỏi
những tư tưởng áp bức cố hữu, nâng cao quy chế và dắt dẫn họ thực hiện
địa vị quan trọng của mình trong xã hội. Ngài cho rằng, phụ nữ tiềm ẩn
nhiều đức tính tốt như thông minh, nhẫn nhục, ôn hòa, bao dung, độ
lượng. Nên khi thấy vua Pasenadi nước Kosala buồn phiền vì nghe tin
báo hoàng hậu Mallika vừa hạ sinh công chúa, Đức Phật liền khuyên:
"Này nhân chủ ở đời,
Có một số thiếu nữ,
Có thể tốt đẹp hơn,
So sánh với con trai,
Có trí tuệ, giới đức,
Khiến nhạc mẫu thán phục.
Rồi sinh được con trai,
68 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 8 - 2014
Là anh hùng, quốc chủ,
Người con trai như vậy,
Của người vợ hiền đức,
Thật xứng đáng đạo sư,
Giáo giới cho toàn quốc"10.
Những lời thuyết giáo của Đức Phật đã ghi sâu vào tâm trí của dân
chúng thời bấy giờ, khiến họ tôn trọng nữ giới. Ngài dạy người nam nên
xem người nữ như chị em gái và hết lòng bảo vệ họ; đối xử hiền hòa, dịu
dàng với vợ, xem vợ ngang hàng với mình; cho con gái cơ hội thăng tiến
như con trai.
Còn về nguyên nhân Đức Phật chế ra Bát kính pháp buộc ni giới phải
thực hành nghiêm túc, điều mà hiện nay nhiều người dựa vào để phủ
nhận tính bình đẳng của Phật giáo. Lý giải điều này, Ni sư Thích Nữ Huệ
Hướng cho rằng: “Vấn đề ở đây là Đức Phật đã đặt giai cấp của ni thấp
hơn hẳn giai cấp của tăng. Từ đó hình thành quan niệm cho rằng người
nữ nặng nghiệp hơn người nam. Thực ra, nếu đặt vào bối cảnh lúc bấy
giờ chúng ta sẽ hiểu đúng hơn ý nghĩa lời yêu cầu của Đức Phật. Bối
cảnh lúc đó là người ni đầu tiên lại là dì của Đức Phật. Nếu để một cách
bình thường, tăng ni bình đẳng thì những Tỳ kheo khác sẽ sợ bà. Họ sợ
cũng là điều hợp lý, vì bà là dì Đức Thế Tôn, người đã từng nâng niu, bú
mớm cho Đức Phật từ khi còn nhỏ. Công của bà rất lớn. Hơn nữa, bà
thuộc dòng dõi hoàng tộc, lại xuất gia khi đã lớn tuổi. Những Tỳ kheo
nhỏ tuổi, những người thuộc giai cấp khác gặp bà, chỉ dám gọi là Lệnh
Bà. Như vậy, đối với những Tỳ kheo ni khác xuất gia theo bà, các Tỳ
kheo phải đối xử như thế nào? Họ cũng phải một mực kính trọng. Từ đó
sẽ nảy sinh tình trạng các Tỳ kheo ni coi thường các Tỳ kheo, làm mất
tôn ti trật tự, không còn bình đẳng nữa. Như vậy, thực tế lúc đó, nếu Đức
Phật để mọi người bình đẳng thì sẽ sinh ra mất bình đẳng. Nghĩa là từ chỗ
sợ dì Đức Phật, người tăng sẽ có truyền thống cung kính với người ni.
Phật sợ tình trạng đó xảy ra nên đã đặt ngược vấn đề, dù lớn tuổi hạ, Tỳ
kheo ni vẫn phải tôn kính Tỳ kheo. Nhờ vậy, sau này những người ni
xuất gia không dám dựa thế Kiều Đàm di mẫu mà coi thường quý tăng.
Nếu không triệt cái ngã của họ, chẳng những họ không tu được mà trong
đạo Phật còn xuất hiện truyền thống người tăng gặp người ni phải sợ hãi,
cung kính. Dần dần sẽ gây nên sự bất bình đẳng giữa tăng và ni”11.
Lê Thu Huyền. Các yếu tố tác động 69
Ngoài ra, vào thời ấy, xã hội Ấn Độ quy định, người tu hành phải rời
bỏ gia đình, sống trong rừng rú. Nam tu sĩ có thể chống bọn cướp, thú
dữ..., nhưng nữ tu sĩ không thể tự bảo vệ, nên Đức Phật quy định, Tỳ
kheo ni không thể an cư tại chỗ không có Tỳ kheo. Một lý do sâu xa khác
của việc chế Bát kính pháp là Đức Phật muốn có sự cách biệt giữa tăng
bộ và ni bộ. Nữ giới thường hay quá đà, quá thân thì mất cung kính, quá
sơ thì dễ tự phụ cho rằng có thể tự lập không cần ai dắt dẫn. Do đó, một
trong tám pháp cung kính bắt buộc Tỳ Kheo ni phải thỉnh thoảng đến Tỳ
kheo xin chỉ giáo để luôn nhớ đến địa vị của mình là phải tầm cầu chính
pháp. Hòa thượng Thích Chơn Thiện khẳng định: “Nghi ngờ Bát kính
pháp chỉ là sự rối loạn của tư duy sẽ dẫn đến sự rối loạn của thái độ sống.
Ðiều này hẳn sẽ không đem lại an lạc, hạnh phúc cho số đông”12.
Hầu hết nữ tu sĩ Phật giáo tại Quảng Nam, Đà Nẵng hiện nay đều cho
rằng, tôn trọng Bát kính pháp là tôn trọng Phật pháp. Nhưng những quy
định mà Đức Phật đã chế ra có thể thực hiện linh hoạt để phù hợp hơn với
điều kiện sống thay đổi hiện nay. Theo Ni sư Thích Nữ Nhật Tân: “Cuộc
sống khi sướng, khi khổ, nhưng giới luật thì luôn phải thực hiện nghiêm
túc, không được thay đổi. Bởi vì, giới luật do Đức Phật chế ra. Hiện nay,
tôi không đồng ý với xu hướng nhiều ni đấu tranh đòi nam nữ bình quyền
giống như bên tăng. Vì tôi nghĩ không ai chặn ép gì mà phải đòi hỏi như
vậy. Những gì Đức Phật quy định cho người nữ xuất gia thì cứ thế thực
hiện. Đức Phật muốn dẹp ngã mạn của người phụ nữ nên mới chế ra Bát
kính pháp. Tu hành rồi thì không còn chấp ngã nữa, phải quy kính Đức
Phật. Cuộc sống hiện nay có nhiều thay đổi ảnh hưởng đến việc hành trì
giới luật, tuy nhiên phải giữ đúng những giới trọng, còn những gì không
ảnh hưởng lớn tới giới luật có thể linh hoạt. Tôi thấy không phải thay đổi
giới luật; cứ cung kính quý thầy, được quý thầy che chở thì yên tâm tu
tập hơn”13.
Như vậy, có thể khẳng định, trong Phật giáo không có sự phân biệt
giữa nam và nữ. Mọi người cùng sống thanh tịnh trong giáo pháp của
Phật giáo, có thể chứng ngộ ở mức độ cao nhất, miễn là theo đúng con
đường mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chế định ra.
2.3. Liên minh quốc tế nữ tu sĩ Phật giáo
Ngày nay, toàn cầu hóa làm cho thế giới như nhỏ bé lại, biên giới giữa
các quốc gia không còn là bức tường tạo ra sự cách biệt với thế giới bên
ngoài. Bối cảnh đó làm cho Phật giáo phát triển từ quốc gia này đến quốc
70 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 8 - 2014
khác ngày càng trở nên dễ dàng. Sự bùng nổ của hệ thống truyền thông là
cầu nối gắn chặt Phật giáo các nước trong một tổ chức nhằm giữ gìn và
phát triển hệ thống Phật giáo toàn cầu. Đó là bối cảnh giúp nữ tu sĩ Phật
giáo trên thế giới hội tụ trong Hiệp hội Nữ giới Phật giáo Quốc tế
Sakyadhita (Sakyadhita: International Association of Buddhist Women),
còn được gọi là Hiệp hội Những người con gái của Đức Phật
(Sakyadhita: Daughters of the Buddha), một tổ chức của ni giới và nữ
Phật tử trên thế giới đến từ nhiều truyền thống Phật giáo14.
Hiệp hội Nữ giới Phật giáo Quốc tế Sakyadhita được thành lập vào năm
1987, với công lao của Ni sư Karma Lekshe Tsomo. Toàn thể đại biểu tham
dự Hội nghị Quốc tế về Ni giới lần I (The First International Conference on
Buddhist Nuns) tổ chức tại Bodhgaya, Ấn Độ đã tập trung thảo luận các
vấn đề mà nữ giới Phật giáo quan tâm và nhất trí thành lập Hiệp hội Nữ
giới Phật giáo Quốc tế Sakyadhita. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Phật
giáo, một tổ chức của nữ giới Phật giáo thế giới được thành lập.
Từ khi ra đời cho đến nay, Hiệp hội Nữ giới Phật giáo Quốc tế đã hoạt
động không biết mệt mỏi để thực hiện các sứ mệnh cao cả mà tổ chức
Phật giáo này mong muốn là:
- Thúc đẩy nền hòa bình thế giới thông qua giáo lý của Đức Phật.
- Phát triển một mạng lưới quốc tế về truyền thông, thông tin liên lạc
trong nữ giới Phật giáo.
- Thúc đẩy hạnh phúc tinh thần và thể xác của nữ giới Phật giáo.
- Khuyến khích các dự án giáo dục và tu tập dành cho nữ giới Phật
giáo.
- Thúc đẩy việc giáo dục của nữ giới Phật giáo trong tư cách là pháp
sư, giảng sư.
- Hướng dẫn và hỗ trợ cho nữ giới Phật giáo quan tâm tu thiền định và
thụ giới Tỳ kheo ni.
- Nghiên cứu và ấn hành các tác phẩm về lịch sử của nữ giới Phật giáo
và các chủ đề liên quan đến nữ giới Phật giáo.
- Thiết lập một liên minh nữ giới Phật giáo thế giới nhằm tiến tới
thành lập Giáo đoàn Ni giới Quốc tế.
- Khuyến khích phát triển văn hóa và giáo dục Phật giáo.
Lê Thu Huyền. Các yếu tố tác động 71
- Thúc đẩy sự hòa hợp trong các truyền thống Phật giáo và đối thoại
liên tôn giáo.
- Ủng hộ việc bảo tồn các di tích thiêng linh của Phật giáo.
- Khuyến khích các hoạt động từ thiện xã hội vì phúc lợi của nhân
loại.
Đến nay, Hiệp hội Nữ giới Phật giáo Quốc tế đã tổ chức thành công
12 hội nghị15. Ngoài ra, những tham luận xuất sắc trong các Hội nghị Nữ
giới Phật giáo Quốc tế được hiệp hội xuất bản thành kỷ yếu hội nghị theo
từng chủ đề. Nhiều tác phẩm và dự án nghiên cứu từ hoạt động của hiệp
hội tạo nên một nền văn học mới của nữ giới Phật giáo được xuất bản.
Ngoài ra, hiệp hội còn sản xuất các băng đĩa CD, VCD, DVD liên quan
đến các hội nghị, hội thảo và các buổi thuyết pháp, thuyết trình của nữ
giới Phật giáo trên khắp thế giới. Đây là nguồn tài liệu quan trọng để ni
giới khắp thế giới tham khảo cũng như phục vụ nghiên cứu về vai trò của
ni giới hiện nay.
Cuối năm 2009, đầu năm 2010, Hội nghị Nữ giới Phật giáo Quốc tế
lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam. Tổ chức thành công hội nghị này
là thắng lợi đầu tiên mà Phân ban Đặc trách Ni giới Việt Nam vừa mới ra
đời. Những tham luận trong hội nghị đều hướng tới chủ đề “Nữ giới Phật
giáo lỗi lạc”.
Như vậy, với tinh thần kết nối nữ tu sĩ Phật giáo thế giới lại gần nhau
để cùng nhau đóng góp cho xã hội, những hội nghị mà Hiệp hội Nữ giới
Phật giáo Quốc tế tổ chức là cơ hội để ni giới khẳng định vai trò đối với
Phật giáo và xã hội. Ni giới Việt Nam, trong đó có ni giới Quảng Nam,
Đà Nẵng ngày càng khẳng định được vị thế của mình, đem trí tuệ và tài
năng phụng sự dân tộc, đem lại lợi ích cho xã hội.
2.4. Đặc điểm cá nhân của nữ tu sĩ Phật giáo
Phật giáo du nhập vào Việt Nam cách đây hơn 20 thế kỷ, dung hòa với
văn hóa bản địa để làm nên những nét đặc trưng, trong đó yếu tố nữ trong
Phật giáo Việt Nam ngay từ buổi đầu du nhập được đề cao. “Phật giáo
vào Việt Nam kết hợp với tín ngưỡng thờ Mẫu bản địa đã tạo nên một
hiện tượng thờ cúng các Phật Bà khá nổi trội trong hệ thống đối tượng
thờ Khi du nhập vào Việt Nam, hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm
chuyển hẳn thành hình tượng nữ giới”16. Từ truyền thống trọng nữ ấy, ni
giới Phật giáo Việt Nam khẳng định được vị thế của mình trong lòng dân
72 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 8 - 2014
tộc. Tác động của sự thay đổi trong một môi trường sống ngày càng hiện
đại, sự hòa nhập của cá nhân là điều quan trọng đóng góp cho sự phát
triển của ni giới Phật giáo Việt Nam.
Sự tăng trưởng và phát triển của một xã hội tùy thuộc vào nhiều yếu tố
như tiềm năng kinh tế, cơ cấu văn hóa xã hội, chính sách kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, quan điểm về phụ nữ của các tôn giáo ảnh hưởng quan trọng
lên vị thế của họ trong xã hội, từ đó tác động tới sự phát triển17. Cái nhìn
này tác động đến nhiều khía cạnh và dễ nhận thấy nhất là sự thay đổi của
mỗi người. Đối với ni giới Phật giáo Việt Nam, những thay đổi này thể
hiện qua đức tin và đạo hạnh.
Nhìn chung, niềm tin tôn giáo và đạo hạnh của tăng ni có thể phân
chia thành những nhóm sau: số đông là người có lý tưởng Phật giáo,
ngưỡng mộ Tam bảo mà xuất gia tu hành, thực sự tâm huyết với Phật
giáo; một số do hoàn cảnh khó khăn nên xuất gia nương nhờ cửa Phật;
một số trắc trở về đời sống riêng tư mà đi tu; một số khác bỏ sự phức tạp,
ồn ào của xã hội tìm đến chùa chiền thanh tịnh tu tập trong những năm
cuối đời (người bán thế xuất gia), v.v...18.
Có thể thấy, quyết định đến sự tinh tấn trong tu tập thể hiện ở sự nhận
thức từ cá nhân là rất lớn. Mỗi nữ tu sĩ sẽ có nhận thức khác nhau trên con
đường đến với chân lý Phật giáo. Ni cô Thích Nữ Liên Tuệ tự nhận đến với
Phật giáo là một cái duyên: “Từ nhỏ, tôi thường xuyên đi chùa nghe giảng
kinh Phật. Đặc biệt, do nhà gần Tịnh xá Ngọc Giáng nên hằng ngày, tôi thích
nhìn tăng sĩ cầm bát khất thực. Bởi vậy, khởi duyên tôi tìm đến Ni sư Chúng
Liên xin quy y Tam Bảo và xuống tóc. Ban đầu, bố mẹ tôi không đồng ý, vì
gia đình chỉ có hai chị em. Cuối cùng, họ cũng không thể ngăn cản được tôi.
Bây giờ, họ rất tự hào vì có con gái là con Phật”19.
Do một số đặc điểm tâm sinh lý, nên khi còn tại thế, Đức Phật đã chế
quy định cho nữ tu sĩ nhiều hơn nam tu sĩ. Bởi thế, sự thử thách đối với
ni giới sẽ nhiều hơn tăng sĩ. Nhưng những giới luật khắt khe sẽ càng giúp
cho nữ tu sĩ Phật giáo có nhiều nỗ lực hơn trên con đường tu tập trở thành
đệ tử chân chính của Đức Phật.
Ngày nay, xu thế hội nhập quốc tế và sự phát triển như vũ bão của
khoa học kỹ thuật tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ mọi mặt đời sống. Đó
là nhân tố tác động nhiều đến nhận thức của nữ tu sĩ Phật giáo. Nữ tu sĩ
Phật giáo hiện nay có điều kiện sống tốt hơn rất nhiều so với trước thời
Lê Thu Huyền. Các yếu tố tác động 73
Đổi mới (1986). Nhiều gia đình ở Quảng Nam, Đà Nẵng có điều kiện,
muốn con vào chùa và chu cấp cho đủ phương tiện để tu học tốt. Nhiều ni
sư ở Quảng Nam, Đà Nẵng cho biết, dù cấm sử dụng, nhưng một số nữ tu
sĩ vẫn lén sử dụng các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại, bắt phạt
nhiều cũng không nghe, nên đành kệ họ sử dụng. Tuy nhiên, các chùa
luôn chú trọng hành trì giới luật. Có như vậy, tu sĩ Phật giáo mới thông
suốt giáo lý Đức Phật truyền giảng và đem giáo lý ấy cứu giúp chúng
sinh. Làm được như vậy, ni giới mới xứng đáng với sứ mạng là cầu nối
của Đức Phật với Phật tử.
3. Kết luận
Các nhân tố đã phân tích giúp cho nữ tu sĩ Phật giáo tại Quảng Nam,
Đà Nẵng hiện nay, tuy số lượng ít hơn rất nhiều so với tăng sĩ, nhưng
ngày càng thể hiện được vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển
Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ mới. Những đóng góp đáng kể của họ
được Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta ghi nhận. Đó
là một trong những điều kiện thuận lợi để ni giới ngày càng phát huy
hơn nữa truyền thống tốt đẹp trong sự nghiệp xây dựng đất nước Việt
Nam hôm nay./.
CHÚ THÍCH:
1 Thích Nữ Chúc Kim (2005), Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa
vùng Quảng Nam, Luận văn tốt nghiệp Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành
phố Hồ Chí Minh,
2 Thạch Phương, Nguyễn Đình An chủ biên (2010), Địa chí Quảng Nam - Đà
Nẵng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 911.
3 Nguyễn Xuân Hương (2009), Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà
Nẵng: hình thái, đặc trưng và giá trị, Nxb. Từ điển Bách khoa & Viện Văn hóa,
Hà Nội: 41.
4 Thích Như Tịnh (2008), Hành trạng chư Thiền đức xứ Quảng, Nxb. Tôn giáo,
Hà Nội: 345.
5 Keyes, F. Charles (2006), “Về tôn giáo và tính hiện đại ở Việt Nam”, Xưa &
Nay, số 259, tháng 5: 22.
6 Theo thống kê dân số năm 2009, số tín đồ Phật giáo là 6.802.318 người. Còn
theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu
tín đồ đã quy y Tam bảo, 44.498 tăng ni; 14.775 tự viện, tịnh xá, tịnh thất, Niệm
Phật đường trong cả nước.
7 Nguyễn Tất Đạt (2011), Mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội Phật giáo Việt
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội: 112.
74 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 8 - 2014
8 Nguyễn Hồng Dương (2011), “Vai trò trợ duyên của Nhà nước trong việc thành
lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 11: 13.
9 Phỏng vấn Ni sư Thích Nữ Nhật Tân, trụ trì chùa Diệu Quang, huyện Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam, tháng 2/2012.
10 Narada Thera (Phạm Kim Khánh dịch, 1991), Đức Phật và Phật pháp, Thành hội
Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành: 278 - 283.
11 Thích Nữ Huệ Hướng (2003), Địa vị người phụ nữ trong giáo lý Đức Phật,
12 Thích Chơn Thiện (1998), Ni giới và những lời Phật dạy,
13 Phỏng vấn Ni sư Thích Nữ Nhật Tân, trụ trì chùa Diệu Quang, huyện Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam, tháng 2/2012.
14 Thích Nữ Như Nguyệt, Sakyadhita: biên thùy nới rộng của nữ giới Phật giáo và
sự kết nối toàn cầu, tư liệu Hội nghị Sakyadhita Thế giới lần thứ 12 tại Thái Lan,
năm 2011,
15 1/ Bodh Gaya, Ấn Độ năm 1987; 2/ Bangkok, Thái Lan năm 1991; 3/ Colombo,
Sri Lanka năm 1993; 4/ Leh, Ấn Độ năm 1995; 5/ Phnom Penh, Campuchia năm
1997 - 1998; 6/ Lumbini, Nepal năm 2000; 7/Đài Bắc, Đài Loan năm 2002; 8/
Seoul, Hàn Quốc năm 2004; 9/ Kuala Lumpur, Malaysia năm 2006; 10/
Ulanbator, Mông Cổ năm 2008; 11/ Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam năm
2009 - 2010; 12/ Bangkok, Thái Lan năm 2011.
16 Nguyễn Ngọc Quỳnh (2011), “Vị trí người phụ nữ trong Phật giáo Việt Nam”,
Nghiên cứu Tôn giáo, số 2: 36 - 37.
17 Nguyễn Xuân Nghĩa (2006), “Phụ nữ, tôn giáo và vấn đề phát triển”, Nghiên cứu
Tôn giáo, số 1: 12.
18 Ngô Hữu Thảo (2012), “Chức sắc Phật giáo Việt Nam hiện nay: tình hình và
kiến nghị”, Công tác Tôn giáo, số 1+2: 32.
19 Phỏng vấn Ni cô Thích Nữ Liên Tuệ, Tịnh xá Ngọc Kỳ, huyện Tam Kỳ, tỉnh
Quảng Nam, tháng 2/2012.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hồng Dương (2011), “Vai trò trợ duyên của Nhà nước trong việc thành
lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 11.
2. Nguyễn Tất Đạt (2011), Mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội Phật giáo Việt
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Keyes, F. Charles (2006), “Về tôn giáo và tính hiện đại ở Việt Nam”, Xưa &
Nay, số 259, tháng 5.
4. Thích Nữ Chúc Kim (2005), Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa
vùng Quảng Nam, Luận văn tốt nghiệp Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành
phố Hồ Chí Minh,
5. Nguyễn Xuân Hương (2009), Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà
Nẵng: hình thái, đặc trưng và giá trị, Nxb. Từ điển Bách khoa & Viện Văn hóa,
Hà Nội.
Lê Thu Huyền. Các yếu tố tác động 75
6. Thích Nữ Huệ Hướng (2003), Địa vị người phụ nữ trong giáo lý Đức Phật,
7. Nguyễn Xuân Nghĩa (2006), “Phụ nữ, tôn giáo và vấn đề phát triển”, Nghiên
cứu Tôn giáo, số 1.
8. Thích Nữ Như Nguyệt, Sakyadhita: biên thùy nới rộng của nữ giới Phật giáo và
sự kết nối toàn cầu, tư liệu Hội nghị Sakyadhita Thế giới lần thứ 12 tại Thái
Lan, năm 2011,
9. Thạch Phương, Nguyễn Đình An chủ biên (2010), Địa chí Quảng Nam - Đà
Nẵng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Nguyễn Ngọc Quỳnh (2011), “Vị trí người phụ nữ trong Phật giáo Việt Nam”,
Nghiên cứu Tôn giáo, số 2.
11. Ngô Hữu Thảo (2012), “Chức sắc Phật giáo Việt Nam hiện nay: tình hình và
kiến nghị”, Công tác Tôn giáo, số 1+2.
12. Narada Thera (Phạm Kim Khánh dịch, 1991), Đức Phật và Phật pháp, Thành
hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành.
13. Thích Chơn Thiện (1998), Ni giới và những lời Phật dạy,
14. Thích Như Tịnh (2008), Hành trạng chư Thiền đức xứ Quảng, Nxb. Tôn giáo,
Hà Nội.
Abstract
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26502_89120_1_pb_919.pdf