Do bệnh nhân thường đến muộn, do vậy mà
trong nghiên cứu của chúng tôi các nhánh ĐM bị
tắc nhiều nên tỷ lệ các đoạn ĐM hẹp từ mức độ 3
trở lên chiếm tỷ lệ cao. Điều này cũng phù hợp với
tổn thương TMTT trên lâm sàng vì tỷ lệ bệnh nhân
đến với triệu chứng lâm sàng TMTT nặng nhất thuộc
mức độ mất tổ chức chiếm tỷ lệ cao hơn so với mức
độ nặng nhất là đau khi nghỉ. Trong nghiên cứu của
chúng tôi và trong nghiên cứu của các tác giả khác
đều có sự tương đồng là tỷ lệ hẹp ĐM từ ĐM mác
chiếm tỷ lệ thấp nhất [2], [9]. Do các nhánh ĐM từ
ĐM mác thường không chạy dài, gần thượng nguồn
cấp máu hơn, hơn nữa do sự tiếp nối phong phú giữa
các nhánh của ĐM mác với các nhánh của ĐM chày
trước, ĐM mu chân, ĐM chày sau quanh cổ chân,
quanh gót. Tỷ lệ hẹp của ĐM chày sau và ĐM chày
trước chiếm tỷ lệ cao phù hợp với tổn thương TMTT
lâm sàng: phân vùng TMTT lâm sàng tương ứng của
ĐM chày sau và ĐM mu chân chiếm tỷ lệ cao hơn so
với vùng TMTT của ĐM mác.
Chúng tôi không gặp trường hợp nào có hẹp ĐM
từ mức độ 2 trở xuống (hẹp < 70%) có TMCTT. Do tuần
hoàn bàng hệ ở bàn chân khá phong phú nên khi ĐM bị
tắc từ 50 -70% vẫn không gây TMCTT.
Mức độ hẹp ĐM và mức độ TMTT lâm sàng theo
phân vùng cấp máu tương ứng có tương quan từ chặt
chẽ tới rất chặt chẽ với giá trị r từ 0,775 đến 0,891, có
ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Có thể nói, khi gặp một
tổn thương thiếu máu bàn chân trầm trọng trên lâm
sàng ta có thể nghĩ tới khả năng cao sẽ có tương ứng
về mức độ tổn thương của một phân vùng ĐM của nó.
Cũng có thể nói rằng: khi mức độ hẹp ĐM càng nặng
thì mức độ TMTT bàn chân ở vùng cấp máu tương
ứng càng nặng. Điều này tuân theo phân bố giải phẫu
cấp máu các vùng của bàn chân. Các nghiên cứu về
giải phẫu và chụp mạch đã chứng minh biến thể giải
phẫu các ĐM của bàn chân chiếm tỷ lệ rất thấp. Tác
giả Vijayalakshmi S nghiên cứu thấy tỷ lệ biến thể giải
phẫu không có ĐM mu chân, vùng mu chân được cấp
máu bởi các nhánh ĐM từ ĐM gan chân trong và ĐM
gan chân ngoài chiếm 2%, không có biến thể giải phẫu
không có ĐM mác [12]. Tác giả Jiji P thống kê trên
nhiều nghiên cứu thấy tỷ lệ biến thể giải phẫu không
có ĐM chày sau là rất thấp, các nhánh cấp máu cho
vùng gan chân xuất phát từ ĐM mác chiếm từ 0,8-
3,8% [13].
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tương quan tổn thương động mạch trên chụp mạch số hóa xóa nền với vị trí, mức độ thiếu máu bàn chân trầm trọng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/2015 31
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
NGHIÊN CỨU TƯƠNG QUAN TỔN THƯƠNG
ĐỘNG MẠCH TRÊN CHỤP MẠCH SỐ HÓA
XÓA NỀN VỚI VỊ TRÍ, MỨC ĐỘ THIẾU MÁU
BÀN CHÂN TRẦM TRỌNG
The correlation between arterial lesion imaging on
digittal substraction angiography with location
and level of critical foot ischemia
Lê Văn Thành*, Đào Danh Vĩnh**, Phạm Minh Thông**
Purpose: Description characterization critical ischemia
and foot arterial lesion imaging on digittal substraction
angiography. Description correlation between arterial lesion
imaging on digittal substraction angiography with location and
level of critical foot ischemia.
Meterials and methods: 44 patients (28 male and 16 female)
with the mean age of 69.3 years, with critical foot ischemia taken
DSA from 8/2015 to 8/2012. Description research with prospective
and retrospective. The correlation coefficient r and p significance
is calculated by Spearman’s method.
Results: In 111 critical ischemia regions: 45.95% belong
to the posterior tibial artery, 33.33% anterior tibial artery, 20.72%
peroneal artery. In 111 critical ischemia regions: 63.97% in the
toes, 5.4% feet, 30.63% heel and lateral- anterior ankle. In 44
limbs: 22.7% having 1 critical ischemia regions alone; 34.1%
with 2 region and 43.2% with ≥ 3 regions. In this number: 25%
limbs with heaviest stage in rest pain, 61.36% in minor tissue loss
and 13,64 % in major tissue loss. In 264 arteries: 46.05% with
stenosis < 50% and 26.14% total stenosis with ≥ ½ in length. In
129 arteries with stenosis ≥ degree of 3: 28.68% belong to dorsal
pedis artery, 48.06% branches from posterior tibial artery, 23.26%
branches from peroneal arteries. The correlation coefficient r and
significance p between foot arterial lesion and the level of critical
foot ischemia, respectively: r from 0.755 to 0.891, all significance
p <0.001.
Keywords: Critical lower limb ischemia, angiosome of foot,
variant anatomy foot artery.
* Khoa CĐHA, Bệnh viện
Đại học Y Hà Nội
** Khoa Chẩn đoán hình ảnh,
Bệnh viện Bạch Mai
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/201532
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu máu chi trầm trọng (TMCTT) nằm trong nhóm
bệnh động mạch (ĐM) chi dưới, là tình trạng giảm nặng
nguồn máu cung cấp cho bàn chân do nhiều nguyên
nhân như đái tháo đường, tăng huyết áp, rối loạn lipid
máu... gây ra triệu chứng đau khi nghỉ hoặc loét, hoại tử
chi. Bệnh hay gặp ở độ tuổi lớn tuổi với tần suất 10-12%.
Bệnh nhân (BN) sẽ phải phẫu thuật cắt cụt chi nếu không
được điều trị tái thông nội mạch kịp thời.
Hiện nay trong nước chưa có các nghiên cứu DSA
về tổn thương ĐM tương ứng với thiếu máu bàn chân ở
những bệnh nhân mắc TMCTT. Các nghiên cứu ngoài
nước về phân bố nguồn cấp máu của bàn chân thường
được tiến hành chung cùng một thì với can thiệp tái
thông nội mạch. Xuất phát từ tính cấp thiết, tính ứng
dụng và tính mới của vấn đề, tôi xin được tiến hành đề
tài mang tên: “Nghiên cứu tương quan tổn thương động
mạch trên chụp mạch số hóa xóa nền với vị trí, mức độ
thiếu máu bàn chân trầm trọng” với 2 mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm tổn thương thiếu máu trầm trọng
lâm sàng và hình ảnh tổn thương hệ động mạch bàn
chân trên chụp mạch số hóa xóa nền.
2. Mô tả tương quan mức độ hẹp động mạch trên
chụp mạch số hóa xóa nền với vị trí và mức độ thiếu
máu bàn chân trầm trọng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu của chúng tôi là mô tả
cắt ngang, có tiến cứu và hồi cứu với phương pháp
chọn mẫu thuận tiện ngẫu nhiên không xác suất với 44
chi/ 44 BN.
Bệnh nhân được khám và chẩn đoán tại Bệnh viện
Bạch Mai từ tháng 8-2012 và kết thúc tháng 8-2015.
Những bệnh nhân được lựa chọn trong nhóm nghiên
cứu khi đồng ý tham gia nghiên cứu có triệu chứng: đau
khi nghỉ, loét, hoại tử bàn chân không do chấn thương,
huyết khối và tổn thương không cấp tính, không có
chống chỉ định chụp DSA và có tổn thương hẹp, tắc ĐM
bàn chân trên DSA.
Phân tích và xử lý số liệu trên phần mềm SPSS 16.0.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ BN là giới
nam chiếm 64%, tỷ lệ mắc tăng huyết áp là 79,5%, tỷ
lệ mắc rối loạn lipid máu là 79,5%, tỷ lệ mắc đái tháo
đường là 70,5%. Độ tuổi trung bình là 69,3 tuổi, nhóm
BN ≥ 60 tuổi cao chiếm 77,3% (bảng 1.1).
Bảng 1.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Đặc điểm chung của
nhóm nghiên cứu
n (trong 44
bệnh nhân)
Tỷ lệ
%
Nam 28 64
Tăng huyết áp 35 79,5
Rối loạn lipid máu 35 79,5
Đái tháo đường 31 70,5
≥ 60 tuổi 34 77,3
Tuổi trung bình ± độ lệch 69,3 ± 11,4
Trong 44 chi, chúng tôi thấy 25% chi có TMTT nặng
nhất là đau khi nghỉ (Rutherford 4); 61,36% chi bị TMTT
nặng nhất là mất tổ chức ít và 13,64% có TMTT nặng nhất
là mất tổ chức nhiều. Và cũng trong 44 chi: tỷ lệ chi có 1
vùng bị TMTT là 22,7%; có 2 phân vùng TMTT là 34,1%
và có từ 3 phân vùng TMTT trở lên là 43,2 % (Bảng 1.2).
Bảng 1.2. Mức độ TMTT nặng nhất và số vùng thiếu máu trầm trọng trên 1 chi
n (trên 44 chi) Tỷ lệ %
Mức độ TMTT nặng nhất
Đau khi nghỉ 11 25
Mất tổ chức ít 27 61,36
Mất tổ chức nhiều 6 13,64
Số vùng TMTT
1 vùng TMTT 10 22,7
2 vùng TMTT 15 34,1
3 vùng TMTT 19 43,2
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/2015 33
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Trong 111 vùng TMTT, chúng tôi gặp 45,95% TMTT thuộc vùng cấp máu tương ứng của ĐM chày sau, 20,72%
TMTT vùng cấp máu tương ứng của ĐM mác, 33,33% của ĐM mu chân. Cũng trong 111 vùng TMTT: 63,97% TMTT
ở ngón chân, TMTT vùng bàn chân chiếm 5,40% và 30,63% TMTT ở gót và trước ngoài cổ chân (bảng 1.3).
Bảng 1.3. Vị trí vùng TMTT
Vị trí TMTT n (trong 111 vùng TMTT) Tỷ lệ %
Theo vùng cấp máu ĐM
Thuộc ĐM chày sau 51 45,95
Thuộc ĐM mu chân 37 33,33
Thuộc ĐM mác 23 20,72
Theo giải phẫu
Ngón chân 71 63,97
Bàn chân 6 5,40
Gót và trước ngoài cổ chân 34 30,63
Trong số 264 đoạn ĐM, tỷ lệ ĐM hẹp mức độ 1 (không hẹp hoặc hẹp < 50%) là 46,58% chiếm lớn nhất, thấp
nhất là hẹp mức độ 2 (hẹp từ 50 - 70%) chiếm 4,55%, hẹp ĐM từ mức độ 3 trở lên là 48,87%. Trong129 đoạn ĐM
hẹp từ mức độ 3 trở lên: hẹp ĐM mu chân chiếm 28,68%, hẹp các nhánh ĐM từ ĐM chày sau chiếm 48,06, hẹp
nhánh từ ĐM mác chiếm 23,26 (bảng 1.4).
Bảng 1.4. Mức độ hẹp ĐM và vị trí ĐM hẹp có ý nghĩa
n Tỷ lệ %
Mức độ hẹp ĐM (trong 264
vùng ĐM)
Không hẹp hoặc hẹp < 50 % 123 46,58
Hẹp 50-70% 12 4,55
Hẹp 71-99% 34 12,88
Tắc hoàn toàn <1/2 chiều dài 26 9,85
Tắc hoàn toàn ≥ 1/2 chiều dài 69 26,14
Vị trí ĐM hẹp có ý nghĩa
(trong 129 vùng ĐM hẹp≥
71%)
ĐM mu chân 37 28,68
ĐM chày sau 62 48,06
ĐM mác 30 23,26
Chúng tôi không gặp trường hợp nào có hẹp ĐM ≤ mức độ 2 (hẹp < 71%) có TMCTT. Hệ số tương quan giữa
mức độ TMTT lâm sàng với mức độ hẹp ĐM của các vùng cấp máu tương ứng có r từ 0,755 tới 0,891, mức ý nghĩa
p đều < 0,001 (Bảng 1.5).
Bảng 1.5. Tương quan mức độ hẹp ĐM bàn chân trên DSA với mức độ TMTT
Hệ số tương quan r Mức ý nghĩa p Mẫu N
Mức độ TMTT mu chân và hẹp ĐM mu chân 0,755 0,000 44
Mức độ TMTT gan chân trong và ĐM gan chân trong 0,845 0,000 44
Mức độ TMTT gan chân ngoài và ĐM gan chân ngoài 0,891 0,000 44
Mức độ TMTT mặt trong gót và ĐM gót trong 0,845 0,000 44
Mức độ TMTT mặt ngoài gót và ĐM gót ngoài 0,859 0,000 44
Mức độ TMTT trước ngoài cổ chân và ĐM xiên 0,877 0,000 44
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/201534
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
IV. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ nam giới cao
hơn với nữ giới, tỷ lệ mắc các yếu tố nguy cơ cao hơn
so với nhóm không mắc các yếu tố nguy cơ. Điều này
phù hợp với nhiều nghiên cứu của các tác giả khác
cho thấy rằng tỷ lệ bệnh nhân mắc các yếu tố nguy cơ
chiếm số lượng nhiều hơn [2-9]. Trong các nghiên cứu
của các tác giả khác đều cho thấy độ tuổi trung bình
là 74-76 tuổi và tương đồng với chúng tôi có độ tuổi
trung bình là 69,3 tuổi [2], [5-6]. Bệnh nhân là nam giới
và cao tuổi cũng là một yếu tố nguy cơ của TMCTT.
Các yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng tổn thương lớp
nội mạc, tăng xơ vữa động mạch, kích thích quá trình
ngưng tập và kết dính tiểu cầu do vậy mà làm cho lòng
mạch càng thêm hẹp và gây ra triệu chứng TMTT trên
lâm sàng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi và nhiều tác giả,
do bệnh nhân đến thường ở giai đoạn muộn, trải qua
một quá trình bệnh dài, các ĐM bị tắc nhiều với mức
độ nặng nên tỷ lệ nhóm bệnh nhân đến viện với triệu
chứng mất tổ chức và TMTT nhiều vùng cao hơn so với
giai đoạn đau khi nghỉ [7], [9-10].
Trong 111 vùng TMTT: tỷ lệ TMTT thuộc phân vùng
cấp máu tương ứng của ĐM mác thấp nhất vì hệ thống
cấp máu rất phong phú, tuần hoàn bàng hệ nhiều, gần
thượng nguồn cấp máu, hơn nữa ít bị tác động bởi các
tác nhân sang chấn, vi sang chấn. Còn tỷ lệ TMTT ở
ngón chân cao nhất, kết quả này phù hợp với các kết
quả nghiên cứu của các tác giả khác [2], [11]. Điều này
được giải thích bởi vì nhánh mạch cấp máu cho các
ngón chân là các nhánh mạch nhỏ và xa thượng nguồn
cấp máu. Các ĐM nhỏ ở ngón chân dễ bị tắc hơn so
với các ĐM khác. Vùng ngón chân cũng thường dễ bị
nhiễm bẩn và nhiễm khuẩn hơn các vùng khác do có
nhiều khe kẽ, tạo điều kiện cho nhiễm khuẩn và phù nề,
kết hợp với mô bị TMTT có sẵn lại làm cho tình trạng
giảm nguồn cấp máu càng nặng nề hơn, tạo vòng xoáy
bệnh lý. Một điều giải thích nữa là vùng này hay chịu
tác động của lực va chạm gây ra các sang chấn hoặc
vi sang chấn dẫn đến dễ tổn thương mô và các mạch
máu nhỏ hơn.
Do bệnh nhân thường đến muộn, do vậy mà
trong nghiên cứu của chúng tôi các nhánh ĐM bị
tắc nhiều nên tỷ lệ các đoạn ĐM hẹp từ mức độ 3
trở lên chiếm tỷ lệ cao. Điều này cũng phù hợp với
tổn thương TMTT trên lâm sàng vì tỷ lệ bệnh nhân
đến với triệu chứng lâm sàng TMTT nặng nhất thuộc
mức độ mất tổ chức chiếm tỷ lệ cao hơn so với mức
độ nặng nhất là đau khi nghỉ. Trong nghiên cứu của
chúng tôi và trong nghiên cứu của các tác giả khác
đều có sự tương đồng là tỷ lệ hẹp ĐM từ ĐM mác
chiếm tỷ lệ thấp nhất [2], [9]. Do các nhánh ĐM từ
ĐM mác thường không chạy dài, gần thượng nguồn
cấp máu hơn, hơn nữa do sự tiếp nối phong phú giữa
các nhánh của ĐM mác với các nhánh của ĐM chày
trước, ĐM mu chân, ĐM chày sau quanh cổ chân,
quanh gót. Tỷ lệ hẹp của ĐM chày sau và ĐM chày
trước chiếm tỷ lệ cao phù hợp với tổn thương TMTT
lâm sàng: phân vùng TMTT lâm sàng tương ứng của
ĐM chày sau và ĐM mu chân chiếm tỷ lệ cao hơn so
với vùng TMTT của ĐM mác.
Chúng tôi không gặp trường hợp nào có hẹp ĐM
từ mức độ 2 trở xuống (hẹp < 70%) có TMCTT. Do tuần
hoàn bàng hệ ở bàn chân khá phong phú nên khi ĐM bị
tắc từ 50 -70% vẫn không gây TMCTT.
Mức độ hẹp ĐM và mức độ TMTT lâm sàng theo
phân vùng cấp máu tương ứng có tương quan từ chặt
chẽ tới rất chặt chẽ với giá trị r từ 0,775 đến 0,891, có
ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Có thể nói, khi gặp một
tổn thương thiếu máu bàn chân trầm trọng trên lâm
sàng ta có thể nghĩ tới khả năng cao sẽ có tương ứng
về mức độ tổn thương của một phân vùng ĐM của nó.
Cũng có thể nói rằng: khi mức độ hẹp ĐM càng nặng
thì mức độ TMTT bàn chân ở vùng cấp máu tương
ứng càng nặng. Điều này tuân theo phân bố giải phẫu
cấp máu các vùng của bàn chân. Các nghiên cứu về
giải phẫu và chụp mạch đã chứng minh biến thể giải
phẫu các ĐM của bàn chân chiếm tỷ lệ rất thấp. Tác
giả Vijayalakshmi S nghiên cứu thấy tỷ lệ biến thể giải
phẫu không có ĐM mu chân, vùng mu chân được cấp
máu bởi các nhánh ĐM từ ĐM gan chân trong và ĐM
gan chân ngoài chiếm 2%, không có biến thể giải phẫu
không có ĐM mác [12]. Tác giả Jiji P thống kê trên
nhiều nghiên cứu thấy tỷ lệ biến thể giải phẫu không
có ĐM chày sau là rất thấp, các nhánh cấp máu cho
vùng gan chân xuất phát từ ĐM mác chiếm từ 0,8-
3,8% [13].
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/2015 35
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
V. KẾT LUẬN
Trong 44 chi TMTT: 25% chi có TMTT nặng nhất
đau khi nghỉ (Rutherford 4); 61,36% TMTT nặng nhất
mất tổ chức ít và 13,64% TMTT nặng nhất mất tổ chức
nhiều. Cũng trong 44 chi: 22,7% chi có 1 vùng TMTT;
34,1% có 2 vùng TMTT; 43,2% có từ 3 vùng TMTT trở
lên. Trong 111 phân vùng TMTT: 45,95% thuộc phân
vùng cấp máu của ĐM chày sau, 33,33% thuộc vùng
cấp máu của ĐM chày trước và 20,72% thuộc phân
vùng ĐM mác; cũng trong số này 63,97% TMTT ngón
chân; 5,40% TMTT vùng bàn chân chiếm; 30,63%
TMTT ở gót chân và trước ngoài cổ chân.
Trong 264 đoạn ĐM ở bàn chân: 46,58% không
hẹp hoặc hẹp < 50%; 26,14% hẹp hoàn toàn ≥ 1/2 chiều
dài; 9,85% hẹp hoàn toàn < 1/2 chiều dài; 12,88% hẹp
từ 71 – 99%; 4,55% hẹp từ 50 - 70%. Trong 129 đoạn
ĐM bàn chân hẹp ≥ mức độ 3: 28,68% hẹp ĐM mu
chân, 48,06% hẹp các nhánh từ ĐM chày sau; 23,26%
hẹp từ ĐM mác. Không có trường hợp nào hẹp ĐM độ
2 trở xuống có TMCTT. Không có trường hợp nào hẹp
< 71% có TMCTT. Mức độ hẹp ĐM và mức độ TMTT
lâm sàng theo phân vùng cấp máu tương ứng có tương
quan từ chặt chẽ tới rất chặt chẽ với giá trị r từ 0,775
đến 0,891, p < 0,001.
a b
c d
Hình ảnh lâm sàng và tổn thương động mạch bàn
chân trên DSA của bệnh nhân Nguyễn Kim T, 52 tuổi.
Hình a và b: tổn thương thiếu máu lâm sàng vị trí
mặt mu chân và gan chân ngón 1 chân trái phân loại
Rutherford 5.
Hình c và d: tắc hoàn toàn độ 5 ĐM mu chân và
ĐM gan chân trong và gan chân ngoài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Davies M. G. (2012 ). “Criticial limb ischemia:
Epidemiology”. Methodist debakey cardiovasc journal.
8(4): 10-14.
2. Iida O and Nanto S (2010). “Importance of
the angiosome concept for endovascular in patients
with critical limb ischemia.” Catheter cardiovascular
intervention. 75: 830-836.
3. Alexandrescu, V. and G. Hubermont (2011).
“Primary infragenicular angioplasty for diabetic
neuroischemic foot ulcers following the angiosome
distribution: a new paradigm for the vascular
interventionist?” Diabetes Metab Syndr Obes 4: 327-336.
4. Alexandrescu, V et al. (2008). “Selec primary
angioplasty following an angiosome model of
reperfusion in the treatment of Wagner 1-4 diabetic foot
lesions: practice in a multidisciplinary diabetic limb.”
Journal of endovascular therapy. 15 (5): 580-593.
5. Alexandrescu, V. and G. Vincent (2011). “ A
reliable approach to diabetic neuroischemic foot wounds:
below-the-knee angiosome-oriented angioplasty.”
Journal endovascular therapy 18(3): 376-387.
6. Brosi, P. and D. F (2007). “ Revascularization for
chronic critical lower limb ischemia in octogenarians is
worthwhile.” Vascular surgery 46(6): 1198-1207.
7. Mustapha, A. J. and S. F. l. Nov;25(11):606-
11 (2013). “Comparison between angiographic and
arterial duplex ultrasound assessment of tibial arteries in
patients with peripheral arterial disease: on behalf of the
joint rndovascular and non-invasive assessment of limb
perfusion.” Juornal invasive cardiology 25(11): 606-611.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/201536
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
8. Brand, M. and A. J. Woodiwissl (2013). “Chronic
diseases are not being managed effectively in either
high-risk or low-risk populations in South Africa.” South
African medical journal 103(12): 938-941.
9. Sherif, S. and W. Tawfick (2011). “Cool Excimer
Laser-Assisted Angioplasty, Tibial Balloon Angioplasty
in Management of Infragenicular Tibial Arterial
Occlusion in Critical Lower Limb Ischemia.” Vascular
disease management 8: 187-219.
10. Florian, D, et al. (2007). “Surgical or endovascular
revascularization in patients with critical limb ischemia:
Influence of diabetes mellitus on clinical outcome.”Journal
of Vascular Surgery 45(4): 751-761.
11. Kabra, A., et al. (2013). “Outcomes of angiosome
and non-angiosome targeted revascularisation in
critical lower limb ischemia.” Journal vascular sugery
57: 44-49.
12. Vijayalakshmi S, Gunapriya R (2011).
Anatomical study of dorsalis pedis artery and it’s
clinical correlations. International journal of anatomical
variations. 45 – 47.
13. Jiji, P. and D. Sujatha (2008). “ Hypoplastic
posterior tibial artery and the enlarged peroneal artery
supplying the posterior crural region: a rare variation.”
Journal vascular brasileiro 7(3).
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm thiếu máu trầm trọng lâm sàng và hình ảnh tổn thương hệ động mạch bàn chân trên
chụp mạch số hóa xóa nền. Mô tả tương quan tổn thương động mạch trên chụp mạch số hóa xóa nền với vị trí và
mức độ thiếu máu bàn chân trầm trọng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 44 bệnh nhân (28 nam và 16 nữ) với độ tuổi trung bình là 69,3
tuổi, có thiếu máu bàn chân trầm trọng (TMTT) được chụp DSA chi dưới từ tháng 8-2012 tới tháng 8-2015. Nghiên
cứu mô tả cắt ngang, có tiến cứu và hồi cứu. Hệ số tương quan r và mức ý nghĩa p được tính theo phương pháp
Spearman.
Kết quả:Trong 111 vùng TMTT: 45,95% thuộc vùng cấp máu của động mạch (ĐM) chày sau, 33,33% thuộc
ĐM chày trước, 20,72% thuộc ĐM mác. Trong đó: 63,97% ở ngón chân, 5,4% ở bàn chân, 30,63% ở gót chân trước
ngoài cổ chân. Trong 44 chi: 22,7% có 1 vùng TMTT đơn thuần; 34,1% có 2 vùng và 43,2% có ≥ 3 vùng. Trong số
này: 25% chi có TMTT nặng nhất ở mức độ đau khi nghỉ- Rutherford 4 (11 chi), mất tổ chức ít chiếm 61,36% và mất
tổ chức nhiều chiếm 13,64%. Trong 264 ĐM: 46,05% hẹp < 50% và 26,14% hẹp hoàn toàn ≥ ½ chiều dài. Trong
129 vùng ĐM hẹp ≥ mức độ 3: 28,68% hẹp ĐM mu chân, 48,06% hẹp các nhánh từ ĐM chày sau, 23,26% hẹp từ
ĐM mác. Hệ số tương quan r giữa mức độ TMTT lâm sàng và mức độ hẹp ĐM của các vùng tương ứng có giá trị từ
0,755 đến 0,891, tất cả đều có mức ý nghĩa p < 0,001.
Từ khóa: thiếu máu chi trầm trọng, angiosome bàn chân, biến thể giải phẫu động mạch bàn chân.
Người liên hệ: Lê Văn Thành, Email: profthanh@gmail.com
Ngày nhận bài: 1.11.2015
Ngày chấp nhận đăng: 20.11.2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_tuong_quan_ton_thuong_dong_mach_tren_chup_mach_so.pdf