Các nghiên cứu của Lascala [13], Soulmalainen
[17] đã chứng minh được tính chính xác của phương
pháp đo đạc cấu trúc khớp TDH trên hình ảnh CBCT.
Nghiên cứu của Lascala (2004) đã kết luận: phương
thức đo đạc trên hình ảnh CBCT đáng tin cậy để
đánh giá các cấu trúc của khớp TDH [13]. Kết quả
nghiên cứu của Soumalainen (2008) cũng cho thấy
khả năng đo đạc trên CBCT có sai số ít hơn đáng kể
so với kỹ thuật CT đa lát cắt [17].
Kandasamy (2010) [11] đã tiến hành so sánh vị
trí của lồi cầu ở TQTT và LMTĐ trên phim MRI. Kết
quả của nghiên cứu cho thấy có 87% số lồi cầu có sự
khác biệt về vị trí ở TQTT và LMTĐ trên mặt phẳng
đứng dọc. Kết quả của những nghiên cứu này [11],
[19] tương đồng với kết quả nghiên cứu của nhóm
chúng tôi, không tìm thấy sự sai biệt có ý nghĩa
thống kê giữa TQTT và LMTĐ.
Trong nghiên cứu năm 2012 của Henriques [7],
tác giả so sánh vị trí lồi cầu ở TQTT và LMTĐ trên
hình ảnh CBCT. Đối tượng nghiên cứu gồm 20 người
trẻ, không có dấu chứng RLTDH được chia thành 4
nhóm dựa vào mức độ sai lệch khớp cắn (khớp cắn
bình thường, sai khớp cắn hạng I, hạng II, hạng
III). Kết quả có 95,4% đối tượng nghiên cứu có sự
khác nhau về vị trí lồi cầu ở TQTT và LMTĐ còn
trong nghiên cứu của chúng tôi là 91,2%. Kết quả
này phù hợp với quan điểm của Keshvad (2001)
[12] cho rằng hơn 90% dân số có sự khác biệt về vị
trí TQTT và LMTĐ. Kết quả của chúng tôi cho thấy
có sự chênh lệch về giá trị trung bình khoảng gian
khớp đo được trong nghiên cứu của chúng tôi so
với nghiên cứu của Henriques. Sự chênh lệch này
có thể do sự khác nhau về cấu trúc xương giữa
các chúng tộc. Tuy nhiên cả nghiên cứu của chúng
tôi và Henriques đều không tìm ra được sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê ở cả lát cắt mặt
trước và lát cắt mặt bên. Kết quả này có thể do sự
khác biệt giữa vị trí lồi cầu ở TQTT và ở LMTĐ là
rất nhỏ [12]. Henriques còn cho rằng sự khác biệt
mà tác giả tìm ra được thậm chí còn nhỏ hơn nhờ
độ chính xác của hình ảnh CBCT trong nghiên cứu
của tác giả, khi so sánh với các nghiên cứu khác sử
dụng hình ảnh X quang thường quy hay hệ thống
giá khớp [7].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu vị trí lồi cầu ở tương quan trung tâm và ở lồng múi tối đa trên hình ảnh cắt lớp vi tính hình nón, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
84
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Địa chỉ liên hệ: Phan Anh Chi, email: anchitogether@gmail.com
Ngày nhận bài: 9/2/2019, Ngày đồng ý đăng: 16/3/2019; Ngày xuất bản: 25/4/2019
NGHIÊN CỨU VỊ TRÍ LỒI CẦU Ở TƯƠNG QUAN TRUNG TÂM VÀ Ở
LỒNG MÚI TỐI ĐA TRÊN HÌNH ẢNH CẮT LỚP VI TÍNH HÌNH NÓN
Phan Anh chi, Hồ Xuân Anh Ngọc
Khoa răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Sự khác biệt về vị trí lồi cầu giữa vị trí tương quan trung tâm và lồng múi tối đa luôn là vấn đề
gây bàn cãi và có tính thời sự cao. Mục tiêu: So sánh vị trí lồi cầu giữa vị trí tương quan trung tâm và lồng múi
tối đa ở những người không có dấu chứng rối loạn thái dương hàm trên hình ảnh cắt lớp vi tính hình nón. Đối
tượng và phương pháp: 40 sinh viên lớp RHM5 và RHM6 Trường Đại học Y Dược Huế, không có dấu chứng
rối loạn thái dương hàm được đánh giá vị trí lồi cầu tại vị trí tương quan trung tâm và lồng múi tối đa trên
phim chụp cắt lớp vi tính hình nón. Vị trí lồi cầu được đánh giá theo phân loại của Sener (2009) và được so
sánh giá trị trung bình tại vị trí tương quan trung tâm và lồng múi tối đa bằng phép kiểm định Paired-Samples
t-test và Mann-Whitney U-test. Kết quả: Trong tổng số 480 cặp khoảng gian khớp xác định vị trí lồi cầu có
91,2% cặp có sự khác nhau giữa hai vị trí tham chiếu. Nhưng sự khác biệt không mang ý nghĩa thống kê. Vị trí
lồi cầu nằm ở trung tâm hõm khớp có tỷ lệ cao nhất ở cả tương quan trung tâm và lồng múi tối đa (43,8% ở
tương quan trung tâm và 51,2% ở lồng múi tối đa). Sau đó là tỷ lệ lồi cầu nằm ở vị trí lui sau (32,5% ở tương
quan trung tâm và 36,3% ở lồng múi tối đa). Cuối cùng thấp nhất là tỷ lệ lồi cầu nằm ở vị trí ra trước (23,7%
ở tương quan trung tâm và 12,5% ở lồng múi tối đa). Kết luận: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
vị trí lồi cầu giữa vị trí tương quan trung tâm và lồng múi tối đa ở những người không có dấu chứng rối loạn
thái dương hàm.
Từ khóa: Vị trí lồi cầu, tương quan trung tâm, lồng múi tối đa, cắt lớp vi tính hình nón
Abstract
A STUDY OF CONDYLAR POSITION IN CENTRIC RELATION AND
MAXIMAL INTERCUSPATION USING CONE-BEAM TOMOGRAPHY
Phan Anh Chi, Ho Xuan Anh Ngoc
Faculty of Odonto-Stomatology, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background: The condylar position discrepancy between centric relation and maximal intercuspation has
been still a controversial issue. Aims: To compare the condylar position between centric relation and maximal
intercuspation using cone-beam tomography in patients without temporomandibular joints disorder.
Materials and methods: To assess the condylar position in centric relation and maximal intercuspation using
cone-beam tomography on 40 fifth-year and sixth-year dental students of Hue University of Medicine and
Pharmacy without temporomandibular joints disorder. The condylar positions are assessed following Sener
classification (2009) and are compared between centric relation and maximal intercuspation using paired-
samples t-test and Mann-Whitney U-test. Results: Among 480 condye-to-fossa measurement pairs, there
are 91.2% pairs having difference between two reference position but there is no significant difference. The
condylar position at the superior of mandibular fossa has the greatest percentage in both centric relation
and maximal intercuspation (43.8% in centric relation and 51.2% in maximal intercuspation). This greatest
percentage is followed by the condylar position at posterior of mandibular fossa (32.5% in centric relation
and 36.3% in maximal intercuspation). Lastly, the condylar position at the anterior of mandibular fossa has
the fewest percentage (23.7% in centric relation and 12.5% in maximal intercuspation). Conclusion: There is
no significant difference of condylar position between centric relation and maximal intercuspation in patients
without temporomandibular joints disorder.
Keywords: Condylar position, centric relation, maximal intercuspation, cone-beam tomography
DOI: 10.34071/jmp.2019.2.14
85
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc lựa chọn vị trí tương quan trung tâm hay
vị trí lồng múi tối đa làm vị trí tham chiếu chính
trong lập kế hoạch điều trị phục hồi và chỉnh hình
răng mặt đã và đang là vấn đề tranh cãi trên lĩnh
vực nghiên cứu cũng như trên phương diện lâm
sàng [16], [18], [20]. Trong những thập niên 80 của
thế kỷ XX đã có một số nghiên cứu đo đạc vị trí lồi
cầu trong hõm khớp dựa trên phim X quang [10],
[16]. Các nghiên cứu này dựa trên hình ảnh hai chiều
nên có nhược điểm là chỉ quan sát được khớp thái
dương hàm trên mặt phẳng đứng dọc. Hiện nay với
sự phát triển của công nghệ thì việc sử dụng các kỹ
thuật tạo dựng hình ảnh ba chiều như cộng hưởng
từ (MRI: Magnetic Resonance Imaging) và cắt lớp
vi tính (CT scan: Computed Tomography Scan) đã
trở nên phổ biến. Các nghiên cứu trên phim cộng
hưởng từ của Kandasamy (2013) [11], Venturelli
(2009) [19] và phim chụp cắt lớp hình nón (CBCT:
Cone-beam Computer Tomography) của Henriques
JC năm 2012, 2015 [7], [14] đều có chung một kết
luận là không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
về vị trí lồi cầu trong hõm khớp ở tương quan trung
tâm so với lồng múi tối đa ở những người không có
[7], [11], [19]. Nhận thấy vấn đề sự khác biệt về vị trí
lồi cầu giữa vị trí tương quan trung tâm và lồng múi
tối đa luôn là vấn đề gây nhiều tranh cãi nên chúng
tôi nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu vị trí lồi cầu ở
tương quan trung tâm và ở lồng múi tối đa trên hình
ảnh cắt lớp vi tính hình nón” với mục tiêu sau: So
sánh vị trí lồi cầu giữa vị trí tương quan trung tâm và
lồng múi tối đa ở những người không có dấu chứng
rối loạn thái dương hàm trên hình ảnh cắt lớp vi tính
hình nón.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên 40 sinh viên lớp
RHM5 và RHM6 Trường Đại học Y Dược Huế không
có dấu chứng rối loạn thái dương hàm.
2.1.2. Tiêu chuẩn lựa chọn
- Các răng mọc đầy đủ trên cung hàm (không kể
răng số 8).
- Chưa điều trị chỉnh hình răng hàm mặt, phục
hình cố định hay điều chỉnh khớp cắn nào.
- Tự nguyện tham gia nghiên cứu.
- Không có bất kì một dấu chứng RLTDH nào theo
RDC/TMD [5]:
∗ Há miệng hạn chế.
∗ Đưa hàm dưới sang phải hạn chế.
∗ Đưa hàm dưới sang trái hạn chế.
∗ Đưa hàm dưới ra trước hạn chế.
∗ Có tiếng kêu ở khớp TDH.
∗ Đau khớp TDH khi sờ.
∗ Đau cơ khi sờ.
∗ Đau hàm khi vận động.
2.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ
- Người có tình trạng co thắt cơ đột ngột, co
cứng cơ, viêm và thoái hóa cơ.
- Người có tình trạng viêm đa khớp, đau do chấn
thương cấp tính và nhiễm trùng khớp TDH, khiếm
khuyết do quá trình phát triển và khối u.
- Người có các tật cận chức năng.
- Người không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Từ tháng 10/2016 đến tháng 06/2017 tại phòng
khám Răng Hàm Mặt, Bệnh viện Trường Đại học Y
Dược Huế và Phòng khám Răng Hàm Mặt, Bệnh viện
Quốc tế Trung ương Huế.
2.3. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.4. Các biến số nghiên cứu và phương pháp
đánh giá
2.4.1. Biến số nghiên cứu
Vị trí lồi cầu ở tương quan trung tâm (TQTT) và
lồng múi tối đa (LMTĐ) trên phim cắt lớp vi tính hình
nón.
2.4.2. Phương pháp đánh giá
- Tiến hành chụp phim CBCT các đối tượng
nghiên cứu tại Bệnh viện Quốc tế Trung ương Huế.
- Đối tượng sẽ được chụp lần lượt 2 phim CBCT ở
2 tư thế: LMTĐ và TQTT.
- Đo đạc trên hình ảnh CBCT.
+ Phim CBCT được dựng hình và đo đạc bằng phần
mềm OnDenmand3DApp.
+ Tại mỗi vị trí TQTT và LMTĐ, hình ảnh được
đánh giá trên hai lát cắt: lát cắt mặt bên (mặt phẳng
đứng dọc) và lát cắt mặt trước (mặt phẳng đứng
ngang).
+ Tiêu chuẩn lựa chọn lát cắt: Lát cắt được chọn
có vị trí lồi cầu nằm cao nhất trong hõm khớp trên
mặt phẳng đứng dọc (đối với lát cắt mặt bên) và trên
mặt phẳng đứng ngang (đối với lát cắt mặt trước).
- Tiến hành đo đạc:
+ Đo đạc vị trí lồi cầu tại lát cắt mặt bên:
Đường tham chiếu 1 được kẻ tiếp tuyến qua
điểm thấp nhất của hõm khớp ở trước và ở sau.
Đường tham chiếu 2 là đoạn thẳng nằm trên
đường tham chiếu 1 cắt qua lồi cầu.
Điểm trung tâm tham chiếu là trung điểm của
đường tham chiếu 2.
Từ điểm trung tâm tham chiếu, kẻ lên trên một
đường thẳng vuông góc với đường tham chiếu
1 (đường trên), kẻ ra trước (đường trước) và ra
sau (đường sau) 2 đường thẳng tạo góc 45o so với
đường tham chiếu 1.
86
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Từ những đường đã kẻ chúng ta xác định được 3
giá trị xác định vị trí lồi cầu ở lát cắt mặt bên:
∗ Khoảng gian khớp trên (SSL-ScL) là khoảng
cách giữa điểm trên cùng của lồi cầu với điểm gần
nhất của hõm khớp nằm trên đường trên.
∗ Khoảng gian khớp trước (AS-Ac) là khoảng
cách giữa điểm trên cùng của lồi cầu với điểm gần
nhất của hõm khớp nằm trên đường trước.
* Khoảng gian khớp sau (PS-Pc) là khoảng cách
giữa điểm trên cùng của lồi cầu với điểm gần nhất
của hõm khớp nằm trên đường sau.
+ Đo đạc vị trí lồi cầu tại lát cắt mặt trước:
Đường tham chiếu alpha là đường nối điểm giữa
nhất ở ngoài và điểm giữa nhất ở trong của đầu lồi
cầu.
Điểm trung tâm tham chiếu là trung điểm của
đường tham chiếu alpha. Từ điểm trung tâm tham
chiếu, kẻ lên trên một đường thẳng vuông góc với
đường tham chiếu alpha (đường trên), kẻ ra ngoài
và vào trong 2 đường thẳng tạo góc 45o so với đường
tham chiếu alpha (đường ngoài và đường trong).
Từ những đường đã kẻ chúng ta xác định được 3
giá trị xác định vị trí lồi cầu ở lát cắt mặt trước:
∗ Khoảng gian khớp trên (SSF-ScF) là khoảng
cách giữa điểm trên cùng của lồi cầu với điểm gần
nhất của hõm khớp nằm trên đường trên.
∗ Khoảng gian khớp trong (MS-Mc) là khoảng
cách giữa điểm trên cùng của lồi cầu với điểm gần
nhất của hõm khớp nằm trên đường trong.
Khoảng gian khớp ngoài (LS-Lc) là khoảng cách
giữa điểm trên cùng của lồi cầu với điểm gần nhất
của hõm khớp nằm trên đường ngoài.
Như vậy, mỗi đối tượng được tiến hành chụp
phim CBCT 2 lần tại 2 vị trí: TQTT và LMTĐ. Mỗi vị trí
TQTT hay LMTĐ gồm 12 giá trị xác định vị trí lồi cầu:
+ 3 giá trị khoảng cách ở lát cắt mặt bên: khoảng
gian khớp trên, khoảng gian khớp trước, khoảng
gian khớp sau ở 2 bên lồi cầu trái, phải.
+ 3 giá trị khoảng cách ở lát cắt mặt trước:
khoảng gian khớp trên, khoảng gian khớp ngoài,
khoảng gian khớp trong ở 2 bên lồi cầu trái, phải.
87
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
- So sánh vị trí lồi cầu giữa TQTT và LMTĐ: So sánh
từng cặp giá trị khoảng gian khớp bằng Paired-Sam-
ples t-test.
+ Đánh giá vị trí của lồi cầu trong hõm khớp:
Trên hình ảnh CBCT ở lát cắt mặt bên, thông
qua tỷ lệ giữa khoảng cách khoảng gian khớp sau và
khoảng cách khoảng gian khớp trước có thể xác định
vị trí lồi cầu trong hõm khớp theo phân loại đơn giản
của Sener (2009)[3] như sau:
∗ PS-PC/AS-AC< 0,8: Lồi cầu ở vị trí lui sau trong
hõm khớp.
∗ 0,8 < PS-PC/AS-AC < 1,2: Lồi cầu ở vị trí trung
tâm trong hõm khớp.
* PS-PC/AS-AC > 1,2: Lồi cầu ở vị trí ra trước
trong hõm khớp.
3. KẾT QUẢ
3.1. Vị trí lồi cầu tại vị trí tương quan trung tâm và lồng múi tối đa
3.1.1. Vị trí lồi cầu tại tương quan trung tâm
Bảng 1. Vị trí lồi cầu trong hõm khớp tại tương quan trung tâm hai bên trái và phải (n=40)
Lồi cầu
Vị trí lồi cầu trong hõm khớp
Trung tâm
SL (%)
Lui sau
SL (%)
Ra trước
SL (%)
Bên phải 20 (50,0) 13 (32,5) 7 (17,5)
Bên trái 15 (37,5) 13 (32,5) 12 (30,0)
Tổng 35 (43,8) 26 (32,5) 19 (23,7)
Nhận xét: Tại vị trí TQTT, sự phân bố vị trí lồi cầu trong hõm khớp có tỷ lệ khác nhau giữa các vị trí. Trong
đó, tỷ lệ lồi cầu ở vị trí trung tâm trong hõm khớp là 43,8%, ở vị trí lui sau là 32,5% và ở vị trí ra trước là 23,7%.
3.1.2. Vị trí lồi cầu tại lồng múi tối đa
Bảng 2. Vị trí lồi cầu trong hõm khớp tại lồng múi tối đa hai bên trái và phải (n=40)
Lồi cầu
Vị trí lồi cầu trong hõm khớp
Trung tâm
SL (%)
Lui sau
SL (%)
Ra trước
SL (%)
Bên phải 21 (52,5) 14 (35) 5 (12,5)
Bên trái 20 (50) 15 (37,5) 5 (12,5)
Tổng 41 (51,2) 29 (36,3) 10 (12,5)
Nhận xét: Tại vị trí LMTĐ, sự phân bố vị trí lồi cầu trong hõm khớp có tỷ lệ khác nhau giữa các vị trí. Trong
đó, tỷ lệ lồi cầu ở vị trí trung tâm trong hõm khớp là 51,2%, ở vị trí lui sau là 36,3% và ở vị trí ra trước là 12,5%.
3.2. So sánh vị trí lồi cầu ở tương quan trung tâm và lồng múi tối đa:
3.2.1. Lồi cầu phải
Bảng 3. Khoảng cách trung bình của lồi cầu phải (n=40)
Khoảng cách Vị trí Trung bình(mm) p
Lát cắt mặt
bên
Khoảng gian khớp sau
tqtt 1,90 ± 0,43
p>0,05
LMTĐ 1,96 ± 0,43
Khoảng gian khớp trên
tqtt 2,19 ± 0,74
p>0,05
LMTĐ 2,15 ± 0,72
Khoảng gian khớp trước
tqtt 2,04 ± 0,65
p>0,05
LMTĐ 2,02 ± 0,57
Lát cắt mặt
trước
Khoảng gian khớp ngoài
tqtt 2,22 ± 0,70
p>0,05
LMTĐ 2,33 ± 0,71
88
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Khoảng gian khớp trên
tqtt 2,58 ± 0,60
p>0,05
LMTĐ 2,72 ± 0,72
Khoảng gian khớp trong
tqtt 2,59 ± 0,64
p>0,05
LMTĐ 2,41 ± 0,68
Nhận xét: Có sự khác biệt về vị trí lồi cầu phải giữa TQTT và LMTĐ. Nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
3.2.2. Lồi cầu trái
Bảng 4. Khoảng cách trung bình của lồi cầu trái (n=40)
Khoảng cách Vị trí Trung bình(mm) p
Lát cắt mặt bên
Khoảng gian khớp sau
tqtt 1,93 ± 0,29
p>0,05
LMTĐ 1,94 ± 0,31
Khoảng gian khớp trên
tqtt 2,37 ± 0,64
p>0,05
LMTĐ 2,30 ± 0,54
Khoảng gian khớp
trước
tqtt 2,20 ± 0,52
p>0,05
LMTĐ 2,18 ± 0,46
Lát cắt mặt
trước
Khoảng gian khớp
ngoài
tqtt 2,66 ± 0,77
p>0,05
LMTĐ 2,59 ± 0,73
Khoảng gian khớp trên
tqtt 2,73 ± 0,54
p>0,05
LMTĐ 2,66 ± 0,58
Khoảng gian khớp
trong
tqtt 2,78 ± 0,62
p>0,05
LMTĐ 2,86 ± 0,50
Nhận xét: Có sự khác biệt về vị trí lồi cầu trái giữa TQTT và LMTĐ. Nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
4. BÀN LUẬN
4.1. Vị trí lồi cầu ở tương quan trung tâm và
lồng múi tối đa
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sự
phân bố vị trí lồi cầu trong hõm khớp có tỷ lệ gần
tương đương nhau ở hai vị trí (lồi cầu nằm ở trung
tâm, vị trí lui ra sau) trên nhóm không có dấu chứng
RLTDH. Trong đó tỷ lệ vị trí lồi cầu ở trung tâm hõm
khớp là cao nhất (43,8% ở TQTT, 51,2% ở LMTĐ), sau
đó là lồi cầu ở vị trí lui sau trong hõm khớp (32,5%
ở TQTT, 36,3% ở LMTĐ). Vị trí lồi cầu nằm ra trước
trong hõm khớp có tỷ lệ thấp nhất (23,7% ở TQTT,
12,5% ở LMTĐ).
Theo nhiều nghiên cứu của các tác giả như Cho
(2012) [3] và Manjula (2015) [15] trên đối tượng
không có RLTDH ở vị trí LMTĐ, đều đưa ra kết luận
vị trí lồi cầu ở trung tâm hõm khớp là vị trí phổ biến
nhất. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của
chúng tôi khi tỷ lệ lồi cầu ở trung tâm hõm khớp cao
nhất trong nhóm không có dấu chứng RLTDH ở LMTĐ
(45,8%).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, sự phân bố vị trí
lồi cầu trong hõm khớp ở TQTT có sự khác biệt so với
sự phân bố vị trí lồi cầu trong hõm khớp ở LMTĐ ở
nhóm không có dấu chứng RLTDH. Ở LMTĐ, lồi cầu
nằm ở vị trí lui ra sau nhiều hơn so với ở TQTT (32,5%
so với 36,3%). Tuy nhiên sự khác biệt này không lớn.
Kết quả này trái ngược với một số định nghĩa phổ
biến của TQTT cho rằng lồi cầu xương hàm dưới ở
vị trí tương quan trung tâm nằm ở cao nhất và sau
nhất. Có thể giải thích điều này bằng một số quan
điểm hiện nay cho rằng sự khác biệt về vị trí lồi cầu
ở TQTT và ở LMTĐ là rất nhỏ [12]. Nên trong một số
trường hợp, sự khác biệt về vị trí lồi cầu trong hõm
khớp giữa hai vị trí không thể ghi nhận chính xác.
4.2. So sánh vị trí lồi cầu ở tương quan trung
tâm và lồng múi tối đa
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sự
khác biệt về vị trí lồi cầu giữa vị trí TQTT và LMTĐ
ở những người không có dấu chứng RLTDH. Trong
tổng số 240 cặp khoảng gian khớp xác định vị trí
lồi cầu có 91,2% cặp có sự khác nhau giữa hai vị trí
89
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
tham chiếu. Nhưng sự khác biệt không mang ý nghĩa
thống kê (Paired-Samples t-test, p>0,05).
Utt (1995) [18] và Deng (2011) [4] đã có những
nghiên cứu về sự khác biệt giữa TQTT và LMTĐ trên
những bệnh nhân tiền chỉnh nha nhưng không có
dấu chứng RLTDH sử dụng hệ thống giá khớp. Các
tác giả đều đưa ra kết luận có sự khác biệt có ý nghĩa
về vị trí lồi cầu ở TQTT và LMTĐ, mức độ sai lệch
không phụ thuộc vào tuổi, giới, tình trạng sai khớp
cắn [18]. Sự khác nhau trong kết quả nghiên cứu của
chúng tôi với nghiên cứu của Utt (1995) [18] và Deng
(2011) [4] có thể do phương tiện nghiên cứu. Các
tác giả đều sử dụng hệ thống giá khớp, đối tượng
nghiên cứu sẽ được lấy dấu mẫu hàm trên và hàm
dưới. Tương quan xương hàm trên - xương hàm dưới
thông qua lồi cầu sẽ được ghi lại bằng cung mặt,
thông tin sẽ được chuyển lên hệ thống giá khớp giúp
tái lập mối liên hệ giữa mẫu hàm trên và mẫu hàm
dưới giống thực tế [6]. Độ chính xác của việc thiết
lập giá khớp phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của
người thực hiện và tính chính xác của dụng cụ. Đồng
thời hệ thống giá khớp chỉ có khả năng tái lập lại
mối liên hệ giữa xương hàm trên, xương hàm dưới
thông qua lồi cầu mà bỏ qua sự hiện diện của các
mô mềm ở khớp thái dương hàm (cơ, dây chằng)
và những biến đổi về mặt cấu trúc của lồi cầu so với
thông thường. Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng
CBCT giúp tái lập chính xác hình ảnh lồi cầu trong
hõm khớp với các mối liên hệ với các thành phần mô
mềm xung quanh (cơ, dây chằng, bao khớp).
Nhiều nghiên cứu đã tiến hành so sánh hiệu
quả chẩn đoán các vấn đề ở mô cứng của khớp
TDH bằng các kỹ thuật hình ảnh khác nhau như
hình ảnh toàn cảnh, hình ảnh xuyên sọ, hình ảnh
cắt lớp CT, CBCT, MRI [1], [2], [8]. Khả năng đánh
giá và đo đạc các cấu trúc khớp TDH trên CBCT
tương đương hoặc hơn CT [8] và cắt lớp khớp [9],
cao hơn MRI [1] và phim toàn cảnh [9]. Do đó, có
thể thấy CBCT là kỹ thuật hình ảnh cho phép đánh
giá hình thái cấu trúc xương của khớp TDH với độ
chính xác cao.
Các nghiên cứu của Lascala [13], Soulmalainen
[17] đã chứng minh được tính chính xác của phương
pháp đo đạc cấu trúc khớp TDH trên hình ảnh CBCT.
Nghiên cứu của Lascala (2004) đã kết luận: phương
thức đo đạc trên hình ảnh CBCT đáng tin cậy để
đánh giá các cấu trúc của khớp TDH [13]. Kết quả
nghiên cứu của Soumalainen (2008) cũng cho thấy
khả năng đo đạc trên CBCT có sai số ít hơn đáng kể
so với kỹ thuật CT đa lát cắt [17].
Kandasamy (2010) [11] đã tiến hành so sánh vị
trí của lồi cầu ở TQTT và LMTĐ trên phim MRI. Kết
quả của nghiên cứu cho thấy có 87% số lồi cầu có sự
khác biệt về vị trí ở TQTT và LMTĐ trên mặt phẳng
đứng dọc. Kết quả của những nghiên cứu này [11],
[19] tương đồng với kết quả nghiên cứu của nhóm
chúng tôi, không tìm thấy sự sai biệt có ý nghĩa
thống kê giữa TQTT và LMTĐ.
Trong nghiên cứu năm 2012 của Henriques [7],
tác giả so sánh vị trí lồi cầu ở TQTT và LMTĐ trên
hình ảnh CBCT. Đối tượng nghiên cứu gồm 20 người
trẻ, không có dấu chứng RLTDH được chia thành 4
nhóm dựa vào mức độ sai lệch khớp cắn (khớp cắn
bình thường, sai khớp cắn hạng I, hạng II, hạng
III). Kết quả có 95,4% đối tượng nghiên cứu có sự
khác nhau về vị trí lồi cầu ở TQTT và LMTĐ còn
trong nghiên cứu của chúng tôi là 91,2%. Kết quả
này phù hợp với quan điểm của Keshvad (2001)
[12] cho rằng hơn 90% dân số có sự khác biệt về vị
trí TQTT và LMTĐ. Kết quả của chúng tôi cho thấy
có sự chênh lệch về giá trị trung bình khoảng gian
khớp đo được trong nghiên cứu của chúng tôi so
với nghiên cứu của Henriques. Sự chênh lệch này
có thể do sự khác nhau về cấu trúc xương giữa
các chúng tộc. Tuy nhiên cả nghiên cứu của chúng
tôi và Henriques đều không tìm ra được sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê ở cả lát cắt mặt
trước và lát cắt mặt bên. Kết quả này có thể do sự
khác biệt giữa vị trí lồi cầu ở TQTT và ở LMTĐ là
rất nhỏ [12]. Henriques còn cho rằng sự khác biệt
mà tác giả tìm ra được thậm chí còn nhỏ hơn nhờ
độ chính xác của hình ảnh CBCT trong nghiên cứu
của tác giả, khi so sánh với các nghiên cứu khác sử
dụng hình ảnh X quang thường quy hay hệ thống
giá khớp [7].
5. KẾT LUẬN
Có sự khác biệt về vị trí lồi cầu giữa vị trí tương
quan trung tâm và lồng múi tối đa ở những người
không có dấu chứng rối loạn thái dương hàm. Trong
tổng số 240 cặp khoảng gian khớp xác định vị trí
lồi cầu có 91,2% cặp có sự khác nhau giữa hai vị trí
tham chiếu. Nhưng sự khác biệt không mang ý nghĩa
thống kê (Paired-Samples t-test, p>0,05).
Vị trí lồi cầu nằm ở trung tâm hõm khớp có tỷ lệ
cao nhất ở cả tương quan trung tâm và lồng múi tối
đa (43,8% ở tương quan trung tâm và 51,2% ở lồng
múi tối đa). Sau đó là tỷ lệ lồi cầu nằm ở vị trí lui sau
(32,5% ở tương quan trung tâm và 36,3% ở lồng múi
tối đa). Cuối cùng thấp nhất là tỷ lệ lồi cầu nằm ở vị
trí ra trước (23,7% ở tương quan trung tâm và 12,5%
ở lồng múi tối đa).
90
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
1. Alkhader M. et al. (2010), “Diagnostic performance
of magnetic resonance imaging for detecting osseous
abnormalities of the temporomandibular joint and its
correlation with cone beam computed tomography”,
Dentomaxillofac radiol. 39 (5), pp. 270-276.
2. Brooks S. L. et al. (1997), “Imaging of the
temporomandibular joint: a position paper of the
American Academy of Oral and Maxillofacial Radiology”,
Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral radiol Endod. 83 (5),
pp. 609-618.
3. Cho B. H. et al. (2012), “Osteoarthritic changes and
condylar positioning of the temporomandibular joint in
Korean children and adolescents”, Imaging Sci Dent. 42
(3), pp. 169-174.
4. Deng X. et al. (2011), “The centric relation-
maximum intercuspation discrepancy in adult angle’s
class II pretreatment patients”, Hua Xi Kou Qiang Yi Xue
Za Zhi. 29 (1), pp. 48-52.
5. Dworkin S. F. et al. (1992), “Research diagnostic
criteria for temporomandibular disorders: review, criteria,
examinations and specifications, critique”, J Craniomandib
Disord. 6 (4), pp. 301-355.
6. Gawriołek K. (2010), «Articulators», Oral
rehabilitation Clinic.
7. Henriques J. C. et al. (2012), “Cone-beam
tomography assessment of condylar position discrepancy
between centric relation and maximal intercuspation”,
Braz Oral res. 26 (1), pp. 29-35.
8. Honda K. et al. (2006), “Osseous abnormalities of
the mandibular condyle: diagnostic reliability of cone
beam computed tomography compared with helical
computed tomography based on an autopsy material”,
Dentomaxillofac radiol. 35 (3), pp. 152-157.
9. Honey O B. et al. (2007), “Accuracy of cone-beam
computed tomography imaging of the temporomandibular
joint: comparisons with panoramic radiology and linear
tomography”, Am J Orthod Dentofacial Orthop. 132 (4),
pp. 429-438.
10. Ismail Y. H. et al. (1980), “Radiographic study of
condylar position in centric relation and centric occlusion”,
J Prosthet Dent. 43 (3), pp. 327-330.
11. Kandasamy S. et al. (2013), “Condylar position
assessed by magnetic resonance imaging after various
bite position registrations”, Am J Orthod Dentofacial
Orthop. 144 (4), pp. 512-517.
12. Keshvad A. et al. (2001), “An appraisal of the
literature on centric relation. Part III», J Oral rehabil. 28
(1), pp. 55-63.
13. Lascala C. A. et al. (2004), “Analysis of the accuracy
of linear measurements obtained by cone beam computed
tomography (CBCT-NewTom)”, Dentomaxillofac radiol.
vol.33 (5), pp. 291-294.
14. Lelis E. R. et al. (2015), “Cone-beam tomography
assessment of the condylar position in asymptomatic and
symptomatic young individuals”, J Prosthet Dent. 114 (3),
pp. 420-425.
15. Manjula W. S. et al. (2015), “Assessment of optimal
condylar position with cone-beam computed tomography
in south Indian female population”, J Pharm Bioallied Sci.
7 (Suppl 1), pp. S121-124.
16. Shildkraut M. et al. (1994), “The CR-CO discrepancy
and its effect on cephalometric measurements”, Angle
Orthod. 64 (5), pp. 333-342.
17. Suomalainen A. et al. (2008), “Accuracy of linear
measurements using dental cone beam and conventional
multislice computed tomography”, Dentomaxillofac
radiol. 37 (1), pp. 10-17.
18. Utt T. W. et al. (1995), “A three-dimensional
comparison of condylar position changes between centric
relation and centric occlusion using the mandibular
position indicator”, Am J Orthod Dentofacial Orthop. 107
(3), pp. 298-308.
19. Venturelli F. A. et al. (2009), “Analysis of
mandibular position using different methods of location”,
Acta Odontol Latinoam. 22 (3), pp. 155-162.
20. Wood G. N. (1988), “Centric relation and the
treatment position in rehabilitating occlusions: a
physiologic approach. Part II: The treatment position”, J
Prosthet Dent. 60 (1), pp. 15-18.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_vi_tri_loi_cau_o_tuong_quan_trung_tam_va_o_long_m.pdf