Chúng tôi mô tả vụ ngộ độc thực phẩm ảnh
hưởng đến rất nhiều công nhân trong một công
ty may tại Tiền Giang. Trong vụ dịch này,
nguyên nhân có thể do món thịt viên trứng cút
bị nhiễm Salmonella OMB‐O8. Các dấu hiệu lâm
sàng và thời gian ủ bệnh gần tương tự với đặc
tính của nhiễm Salmonella. Phết hậu môn của các
công nhân nhập viện dương tính với Salmonella
OMB‐O8. Bên cạnh đó, thịt viên trứng cút có liên
quan với bệnh trong cả phân tích đơn biến và đa
biến. Thịt viên trứng cút cũng dương tính với
Salmonella OMB‐O8.
Trong vụ dịch này, dưa leo muối có liên
quan đến bệnh trong phân tích hồi quy đa biến.
Tuy nhiên, thịt viên trứng cút thường được ăn
kèm với dưa leo muối. Dưa leo muối có thể là
yếu tố nhiễu. Tuy nhiên, mẫu dưa leo muối
không được lưu do đó không thể xét nghiệm.
Mặc dù chúng tôi không xác định rõ độ pH của
dưa leo muối tuy nhiên môi trường của dưa leo
muối không phù hợp với sự phát triển của
Salmonella do nồng độ acid acetic làm pH thấp
trong quá trình chế biến dưa leo muối(6). Vì vậy,
kết hợp đặc điểm lâm sàng, xét nghiệm và dịch
tễ ít khả năng dưa leo muối là thức ăn gây ngộ
độc trong vụ dịch này.
Các vi khuẩn được xác định trong vụ dịch
này bao gồm Salmonella, Clostridia và EPEC trong
phết hậu môn, Clostridium perfringens, Clostridia và
Coliforms trong thức ăn và môi trường. Clostridia
trong nước, khăn lau và phết hậu môn cũng như
Coliforms trong thức ăn cho thấy tình trạng
nhiễm bẩn trong bếp ăn. Clostridium perfringens
dương tính nhưng nồng độ (102organisms/g) là
chưa đủ gây ngộ độc (liều gây ngộ độc
105organisms/g). Thêm vào đó, đặc tính lâm sàng
của bệnh nhân là sốt và nôn nên nguyên nhân do
Clostridium perfringens là ít khả năng.
EPEC cũng là tác nhân nghi ngờ, tuy nhiên
chúng tôi không định danh được sub‐serotype
của EPEC để có thể khẳng định là tác nhân của
vụ dịch(6). Dù vậy, với thời điểm khởi phát bệnh,
thời gian ủ bệnh và các triệu chứng của các ca
bệnh, chúng tôi chưa có thể loại trừ được EPEC
trong vụ dịch này.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 123 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ngộ độc thực phẩm do Salmonella ở một công ty may thuộc tỉnh Tiền Giang vào tháng 10 năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 423
NGỘ ĐỘC THỰC PHẨM DO SALMONELLA Ở MỘT CÔNG TY MAY
THUỘC TỈNH TIỀN GIANG VÀO THÁNG 10 NĂM 2013
Nguyễn Phan Ái Hà*, Lê HoàngNinh*, Đoàn Lê Thanh Phong**, Đặng Văn Chính*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Một vụ ngộ độc thực phẩm do Salmonella đã xảy ra sau bữa ăn trưa tại bếp ăn tập thể của một
công ty may thuộc tỉnh Tiền Giang vào tháng 10 năm 2013.
Mục tiêu: Xác định nguồn gốc và cơ chế truyền bệnh.
Phương pháp nghiên cứu: Thông tin được thu thập từ hồ sơ bệnh án và phỏng vấn các công nhân nhập
viện. Một nghiên cứu bệnh chứng không bắt cặp được tiến hành để xác định nguồn gốc nhiễm bệnh. Mẫu bệnh
phẩm, thực phẩm và môi trường được xét nghiệm để xác định các vi khuẩn gây bệnh.
Kết quả: Trong tổng số 2.575 công nhân tham gia bữa ăn, 770 (30%) đã nhập viện, không trường hợp tử
vong. Không nhân viên nấu ăn tại bếp ăn bị bệnh. Các triệu chứng phổ biến nhất là đau bụng (98%), sốt (96%),
và tiêu chảy (96%).Trong 19 mẫu phết hậu môn của công nhân nhập viện, 7 (36%) dương tính với Salmonella
OMB‐O8. Phân tích đơn biến và đa biến cho thấy thịt viên trứng cút và dưa muối chua có liên quan đến bệnh.
Kết luận: Salmonella OMB‐O8 được tìm thấy trong hai mẫu lưu của thịt viên trứng cút. Tình trạng không
đảm bảo vệ sinh trong quá trình bảo quản và nấu ăn tại bếp ăn được xác định. Vụ ngộ độc thực phẩm lớn cho
thấy vấn đề cần thiết đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm tại các bếp ăn tập thể lớn.
Từ khóa: Salmonella, ngộ độc thực phẩm, bếp ăn tập thể
ABSTRACT
SALMONELLOSIS FOOD POISONING IN A GARMENT FACTORY, TIEN GIANG PROVINCE,
OCTOBER 2013
Nguyen Phan Ai Ha, Le Hoang Ninh, Doan Le Thanh Phong, Dang Van Chinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 423 – 429
Background: On 3 October 2013, a food poisoning outbreak with many sick workers found later to be
caused by Salmonella OMB‐O8 occurred in a garment factory in Tien Giang province, southern Vietnam.
Objectives: To determine the source and mode of disease transmission.
Methods: Data were collected by reviewing medical records of and interviewing hospitalized workers. An
unmatched case‐control study was conducted to identify the source of infection. Samples of some patients, the
suspected food, and environment were bacteriologically examined.
Result: Of the 2.575 persons in the factory, 779 (30%) were hospitalized and none died in this outbreak.
None of the cooks and cook assistants in the factory had illness. The most common manifestation was abdominal
pain (98%), followed by fever (96%) and diarrhea (96 %). Of the rectal swabs taken from 19 cases, 7 (36%) were
positive for Salmonella OMB‐O8. Both univariate and multivariate analyses indicated that quail egg with
covered meat and salted cucumber were significantly associated with the disease.
Conclusion: Salmonella OMB‐O8 was isolated from two samples of quail egg with covered meat.
Inadequate food handling and sanitation in the factory canteen were detected. This huge outbreak indicates the
importance of food sanitation and hygiene in an institution where many persons aggregate, such as a factory.
Key words: Samonella, Food poisoning outbreak, Factory canteen.
* Viện Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh ** Chi cục An toàn thực phẩm Tiền Giang
Tác giả liên lạc: Bs. Nguyễn Phan Ái Hà ĐT: 0916891626 Email: npah2010@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 424
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vi khuẩn Salmonella có khả năng gây bệnh
cao và có các triệu chứng đường tiêu hóa cấp
tính với đau đầu, đau bụng, sốt, tiêu chảy, nôn
ói. Thời gian ủ bệnh thường từ 6‐72 giờ. Với một
số serotypes, chỉ cần nhiễm một số vi khuẩn là
có thể gây bệnh, nhưng thường đòi hỏi từ 100
đến 1000 vi khuẩn để có thể gây bệnh(5). Cơ chế
truyền bệnh là nhiễm khuẩn từ thực phẩm bị lây
nhiễm từ động vật nhiễm bệnh, phân động vật
hay người bị nhiễm bệnh. Thực phẩm thường bị
nhiễm khuẩn là các sản phẩm từ trứng hay
trứng, sữa và các sản phẩm từ sữa, nước uống,
thịt gia cầm và các sản phẩm khác bị nhiễm
khuẩn Salmonella(5).
Vi khuẩn Salmonella là một trong những
nguyên nhân quan trọng gây bệnh truyền qua
thực phẩm trên thế giới. Tại Mỹ, vụ dịch do
Salmonella thường có số lượng nhập viên lớn
(4,034/ 9,109, 44%) và hầu hết các ca tử vong
(60/200, 30%)(3), trong khi đó tại châu Âu,
Salmonella là tác nhân được xác định nhiều nhất
trong các vụ dịch được báo cáo (27% of 5648
outbreaks)(4). Các vụ dịch do Salmonella cũng
được báo cáo tại các nước châu Á như Trung
Quốc, Thái Lan và Singapore(7,8,9).
Tại Việt Nam, ngộ độc thực phẩm là vấn đề
rất được quan tâm với khoảng 150 vụ ngộ độc
thực phẩm được báo cáo hàng năm. Thực phẩm
được xác định trong các vụ dịch hầu hết từ các
thực phẩm hỗn hợp (40%). Tác nhân hầu hết là
do vi khuẩn (33%) nhưng trong hầu hết các vụ
dịch, các tác nhân vi khuẩn cụ thể thường không
được xác định(10).
Vào ngày 4 tháng 10 năm 2013, Viện Y tế công
cộng Thành phố Hồ Chí Minh (VVS) nhận được
báo cáo từ Chi cục An toàn thực phẩm Tiền
Giang về vụ ngộ độc thực phẩm tại một công ty
may X. Vào chiều 3 tháng 10 năm 2013, hàng trăm
công nhân với các triệu chứng đau bụng, tiêu
chảy, sốt, nôn, ói và đau đầu nhập viện. Thức ăn
sau bữa ăn trưa được nghi ngờ là nguyên nhân
gây bệnh. Đội điều tra dịch của VVS và chi cục
An toàn thực phẩm Tiền Giang đã thực hiện điều
tra từ ngày 4‐5 tháng 10 năm 2013 để xác định vụ
dịch, mô tả đặc điểm, xác định nguồn gốc và các
yếu tố nguy cơ, kiểm soát vụ dịch và khuyến cáo
các biện pháp kiểm soát thích hợp để ngăn ngừa
các vụ dịch tiếp theo.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Điều tra mô tả dịch tễ
Chúng tôi bắt đầu điều tra bằng việc xem lại
bệnh án, phỏng vấn các công nhân nhập viện về
triệu chứng, thời điểm khởi phát bệnh và các thực
phẩm đã ăn và đồng thời phỏng vấn các bác sĩ
điều trị về chẩn đoán và điều trị của các công
nhân nhập viện tại 3 bệnh viện. Sau đó, chúng tôi
phỏng vấn người quản lý bếp ăn, nhân viên nấu
ăn về vụ dịch, quy trình bảo quản thực phẩm,
quy trình nấu ăn và nguồn gốc các thực phẩm.
Một bộ câu hỏi được dùng để phỏng vấn các
công nhân nhập viện tại 3 bệnh viện từ ngày 3‐5
tháng 10 năm 2013 về các thông tin như: tuổi,
giới tính, thời gian ăn, các loại thực phẩm đã ăn,
triệu chứng khởi phát.
Ca nghi ngờ được định nghĩa là công nhân,
người nấu ăn tại công ty đã tham gia bữa ăn trưa
ngày 3 tháng 10 năm 2013 và có ít nhất 3 trong
các triệu chứng sau: tiêu chảy, đau bụng, sốt,
buồn nôn, nôn, hoăc đau đầu. Ca xác định là các
ca nghi ngờ mà có kết quả xét nghiệm dương
tính với Salmonella OMB‐O8.
Chúng tôi phân tích dữ liệu mô tả với phần
trăm, trung vị và giới hạn.
Điều tra phân tích bệnh chứng
Một nghiên cứu bệnh chứng không bắt cặp
được tiến hành ở các công nhân đã dùng thực
phẩm trưa ngày 3 tháng 10 năm 2013 tại công ty
nhằm xác định thực phẩm gây bệnh. Các ca
bệnh là các công nhân nhập viện có ít nhất 5
trong 6 triệu chứng: tiêu chảy, đau bụng, sốt,
buồn nôn, nôn và đau đầu từ 3‐5 tháng 10 năm
2013. Các ca chứng là các công nhân đã dùng
bữa trưa ngày 3 tháng 10 năm 2013 tại công ty và
không có các triệu chứng kể trên. Các ca chứng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 425
được lựa chọn ngẫu nhiên trong số các công
nhân đang làm việc tại công ty vào ngày 5 tháng
10 năm 2013. Phân tích đơn biến và đa biến được
sử dụng để xác định mối liên quan giữa bệnh và
yếu tố nguy cơ. Tỉ số chênh (OR) và khoảng tin
cậy 95% được sử dụng để đo lường mối liên
quan. Phần mềm R (version 3.0.1) được sử dụng
cho phân tích thống kê.
Điều tra môi trường
Chúng tôi thực hiện điều tra môi trường căn
tin, khu vực nấu ăn và quan sát quá trình chế
biến vào bữa ăn trưa ngày 5 tháng 10 năm 2013.
Xét nghiệm
Mẫu bệnh phẩm, thực phẩm và môi trường
19 mẫu phết hậu môn của công nhân nhập
viện tại bệnh viện A vào ngày 4 tháng 10 và 18
mẫu phết tay và hậu môn của tất cả các nhân
viên bếp ăn thu thập vào ngày 5 tháng 10.
Các mẫu phết các dụng cụ nhà bếp, mẫu
nước uống được để xét nghiệm các vi khuẩn
nghi ngờ vào ngày 4 ‐5 tháng 10
Các mẫu thực phẩm trưa ngày 3 tháng 10 được
thu thập và xét nghiệm các vi khuẩn nghi ngờ.
KẾT QUẢ
Điều tra dịch tễ mô tả
Công ty may X được thành lập năm 2012 với
khoảng 2.700 công nhân. Hàng ngày công nhân
dùng bữa sáng và bữa tối tại nhà, bữa trưa tại
công ty. Khoảng 100‐200 công nhân làm tăng ca
thì dùng bữa tối tại công ty. Vào buổi ăn trưa,
công nhân được chia làm hai nhóm (nhóm A và
nhóm B). Nhóm A dùng bữa trưa lúc 11h30 và
nhóm B lúc 12 giờ.
Trong tổng số 2.575 công nhân dùng bữa
trưa ngày 3 tháng 10.779 (30%) công nhân nhập
viện tại 3 bệnh viện và không trường hợp tử
vong. Không nhân viên nấu ăn bị bệnh. Trong
779 công nhân nhập viện, 96 (12%) bao gồm 89
ca nghi ngờ và 7 ca xác định được phỏng vấn.
Tuổi trung vị là 29 tuổi, giới hạn từ 18‐49 tuổi.
86% là công nhân nữ. Trong 96 ca phỏng vấn,
các triệu chứng chủ yếu là đau bụng (98%), sốt
(96%) và tiêu chảy (96%). Tỉ lệ các triệu chứng
đầu tiên là tiêu chảy (49%), nôn (11%) và đau
bụng (8%).
Thời gian khởi phát từ 13h30 ngày 3 tháng
10 đến 8h30 ngày 5 tháng 10. Đường cong dịch
cho thấy đặc tính của một nguồn nhiễm tại cùng
một thời điểm (Biểu đồ 1). Trong 96 ca, 49 (51%)
trong nhóm A, 47 (49%) trong nhóm B. Thời gian
ủ bệnh trung vị của nhóm A là 11,5 giờ, nhóm B
là 9 giờ.
Điều tra phân tích bệnh chứng
Trong 96 ca, 69 (72%) ca có ít nhất 5 trong 6
triệu chứng đã được chọn làm ca bệnh. Ca
chứng là 30 công nhân không có các triệu chứng
ngộ độc trong thời gian xảy ra vụ dịch. Theo đặc
điểm lâm sàng, thời điểm khởi phát và đường
cong dịch đã thể hiện đặc tính của một nguồn
nhiễm tại cùng một thời điểm, thực phẩm dùng
trong bữa ăn trưa tại công ty vào ngày 3 tháng
10 năm 2013 được nghi ngờ là nguyên nhân của
vụ ngộ độc thực phẩm. Bốn món ăn đã được
dùng trong bữa trưa: cơm trắng, thịt viên trứng
cút với dưa leo muối, cá chiên, lòng heo xào
chay, bầu xào, và canh cải thảo.
Các ca bệnh có mối liên quan đến món ăn thịt
viên trứng cút và dưa leo muối. Tỉ số chênh là
12,91 (95% CI = 4,18–42,05) đối với thịt viên trứng
cút và 10,00 (95% CI = 3,13 – 36,94) đối với dưa leo
muối. Cá chiên là một yếu tố bảo vệ (OR = 0,19,
95% CI = 0,06 – 0,55). Các công nhân hầu hết ăn
thịt viên trứng cút đồng thời với dưa leo muối.
Phân tích hồi quy đa biến để xác định mối
liên quan giữa bệnh và thực phẩm nghi ngờ. Các
thực phẩm liên quan đến bệnh trong phân tích
đơn biến được đưa vào phân tích đa biến. Kết
quả cho thấy thịt viên trứng cút (OR điều chỉnh
= 7,38, 95% CI = 2,22 – 24,53) và dưa leo muối
(OR điều chỉnh = 4,8, 95% CI = 1,33 ‐17,3) là có
mối liên quan đến bệnh (Bảng 2).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 426
Điều tra môi trường
Thức ăn được chuẩn bị và nấu trong bếp ăn
công ty. Bếp ăn thường mua thực phẩm tươi,
nguyên liệu và gia vị từ các công ty thực phẩm
hay chợ địa phương và giữ trong nhà kho trước
khi nấu. Nguồn nước được sử dụng từ nguồn
nước thủy cục địa phương.
Chúng tôi nhận thấy tại bếp ăn có một số
chưa hợp vệ sinh. Nơi sơ chế, chế biến và nơi
phục vụ thức ăn không được phân cách rõ ràng.
Nơi xử lý nguyên liệu quá gần nơi chế biến. Nhà
vệ sinh tách biệt với khu chế biến, phòng thay đồ
chung với nhà vệ sinh có bồn nước rửa tay nhưng
không có xà phòng, khăn lau tay và máy sấy tay.
Khu vực kho gần khu vực xử lý nguyên liệu, kho
nóng có 1 cửa sổ nhưng không mở, không có quạt
hút gió, nguyên liệu để lẫn lộn, không có hệ
thống đo nhiệt độ tủ đông, không đảm bảo các
điều kiện vệ sinh. Không có tủ sấy chén sau khi
rửa, chén rửa xong được phơi ngoài trời, các khay
sạch để gần với chỗ rửa nguyên liệu.
Hình 3 thể hiện quy trình chế biến món thịt
viên trứng cút. Thời gian lưu trữ lâu trong điều
kiện không kiểm soát được nhiệt độ tủ đông
lạnh (2 ngày), thời gian nấu ít (chiên 40 kg thịt
viên trứng cút trong khoảng 2 giờ), và thời gian
sau khi nấu đến khi ăn thì lâu (2 giờ).
Kết quả xét nghiệm
Phết hậu môn được lấy trong khi các công
nhân đang nhập viện ngày 4 tháng 10 năm 2013,
7 trong 19 (36%) ca nghi ngờ dương tính với
Salmonella OMB‐O8 và 5/19 (26%) dương tính
với Enteropathogenic Escherichia coli (EPEC).
Một ca dương tính với Salmonella OMB‐O8 và
EPEC. 9 (47,3%) dương tính với vi khuẩn kỵ khí
khử sunfit (Clostridia).
12 (68%) phết hậu môn của 18 nhân viên bếp ăn
và 4/6 (66,7 %) phết tay dương tính với Clostridia.
Hai khăn lau khay ăn vào ngày 3 và 4 tháng 10 và
4/8 (50%) mẫu nước dương tính với Clostridia.
12 mẫu thực phẩm lưu của bữa ăn trưa ngày 3
tháng 10 được xét nghiệm. Hai mẫu thịt viên trứng
cút dương tính với Salmonella OMB‐O8 (Bảng 3) và
Clostridium perfringens (1.6x101và 2.2x101KL/g).
Coliforms được tìm thấy trong tất cả các món ăn
với giới hạn từ 2,1x101 đến 2,1x105 KL/g.
Hình 1: Phân bố các ca ngộ độc theo ngày và giờ khởi phát tại công ty may X, ngày 3‐5 tháng 10 năm 2013 (n = 96)
0
5
10
15
20
25
30
0-
2
3-
5
6-
8
9-
11
12
-1
4
15
-1
7
18
-2
0
21
-2
3
0-
2
3-
5
6-
8
9-
11
12
-1
4
15
-1
7
18
-2
0
21
-2
3
0-
2
3-
5
6-
8
9-
11
12
-1
4
15
-1
7
18
-2
0
21
-2
3
03/10/2013 04/10/2013 05/10/2013
Nhóm B
Nhóm AĂn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 427
Bảng 1: Phân bố các ca và chứng theo thông tin cá nhân và tiếp xúc các thực phẩm nghi ngờ trong bữa ăn trưa
ngày 3 tháng 10 năm 2013 tại công ty may X
Yếu tố nguy cơ
Bệnh (n = 69) Chứng (n=30)
Odds ratio 95% CI*
Có (tiếp xúc) Không (không tiếp xúc) Có (tiếp xúc)
Không (không tiếp
xúc)
Thông tin cá nhân
Nữ 64 05 26 4 0,51 0,1 – 2,79
>30 tuổi 28 41 11 19 1,18 0,45 – 3,19
Nhóm A 30 14 39 15 0,82 0,32 – 2,16
Thức ăn
Thịt viên trứng cút 55 14 7 23 12,91 4,18 – 42,05
Dưa leo muối 46 23 5 25 10,00 3,13 – 36,94
Cá chiên 11 58 15 15 0,19 0,06 – 0,55
Bầu xào 48 21 20 10 1,14 0,4 – 3,1
Canh cải thảo 68 1 29 1 2.34 0,03 – 186, 43
Ruột heo xào chay 1 68 5 25 0,07 0 – 0,72
Bầu xào chay 4 65 6 24 0,25 0,05 – 1,16
95% confidence interval
Các biện pháp thực hiện
Vào ngày 5‐6 tháng 10, bếp ăn được đóng
cửa để làm vệ sinh và khử trùng.
Chi cục An toàn Thực phẩm nơi địa phương
của công ty chế biến sản phẩm thịt viên trứng
cút đã kiểm tra và lấy mẫu sản phẩm. Tuy nhiên,
không tìm thấy sản phẩm được cung cấp cho
bếp ăn (sản phẩm sản xuất ngày 30 tháng 9 và
hết hạn ngày 10 tháng 10 năm 2013). Do đó, đã
lấy mẫu tương tự nhưng sản xuất ngày 5 tháng
10 và hết hạn ngày 15 tháng 10 năm 2013 để
kiểm nghiệm. Các kết quả xét nghiệm cho thấy
phù hợp với tiêu chuẩn quy định.
Bảng 2: Phân tích hồi quy logistic để xác định mối
liên quan giữa các món ăn và bệnh trong điều tra
phân tích bệnh chứng tại công ty may X
Thức ăn Odds ratio điều chỉnh 95% CI p-value
Thịt viên trứng
cút
7,38 2,22 – 24,53 0,001
Dưa leo muối 4,80 1,33 – 17,30 0,017
Cá chiên 1,07 0,29 – 3,92 0,917
Hình 3: Quy trình chế biến thịt viên trứng cút trong vụ ngộ độc thực phẩm tại công ty may X, 3‐4 tháng 10
năm 2013
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 428
BÀN LUẬN
Chúng tôi mô tả vụ ngộ độc thực phẩm ảnh
hưởng đến rất nhiều công nhân trong một công
ty may tại Tiền Giang. Trong vụ dịch này,
nguyên nhân có thể do món thịt viên trứng cút
bị nhiễm Salmonella OMB‐O8. Các dấu hiệu lâm
sàng và thời gian ủ bệnh gần tương tự với đặc
tính của nhiễm Salmonella. Phết hậu môn của các
công nhân nhập viện dương tính với Salmonella
OMB‐O8. Bên cạnh đó, thịt viên trứng cút có liên
quan với bệnh trong cả phân tích đơn biến và đa
biến. Thịt viên trứng cút cũng dương tính với
Salmonella OMB‐O8.
Trong vụ dịch này, dưa leo muối có liên
quan đến bệnh trong phân tích hồi quy đa biến.
Tuy nhiên, thịt viên trứng cút thường được ăn
kèm với dưa leo muối. Dưa leo muối có thể là
yếu tố nhiễu. Tuy nhiên, mẫu dưa leo muối
không được lưu do đó không thể xét nghiệm.
Mặc dù chúng tôi không xác định rõ độ pH của
dưa leo muối tuy nhiên môi trường của dưa leo
muối không phù hợp với sự phát triển của
Salmonella do nồng độ acid acetic làm pH thấp
trong quá trình chế biến dưa leo muối(6). Vì vậy,
kết hợp đặc điểm lâm sàng, xét nghiệm và dịch
tễ ít khả năng dưa leo muối là thức ăn gây ngộ
độc trong vụ dịch này.
Các vi khuẩn được xác định trong vụ dịch
này bao gồm Salmonella, Clostridia và EPEC trong
phết hậu môn, Clostridium perfringens, Clostridia và
Coliforms trong thức ăn và môi trường. Clostridia
trong nước, khăn lau và phết hậu môn cũng như
Coliforms trong thức ăn cho thấy tình trạng
nhiễm bẩn trong bếp ăn. Clostridium perfringens
dương tính nhưng nồng độ (102organisms/g) là
chưa đủ gây ngộ độc (liều gây ngộ độc
105organisms/g). Thêm vào đó, đặc tính lâm sàng
của bệnh nhân là sốt và nôn nên nguyên nhân do
Clostridium perfringens là ít khả năng.
EPEC cũng là tác nhân nghi ngờ, tuy nhiên
chúng tôi không định danh được sub‐serotype
của EPEC để có thể khẳng định là tác nhân của
vụ dịch(6). Dù vậy, với thời điểm khởi phát bệnh,
thời gian ủ bệnh và các triệu chứng của các ca
bệnh, chúng tôi chưa có thể loại trừ được EPEC
trong vụ dịch này.
Salmonella OMB‐O8 thuộc nhóm Salmonella
enterica subsp. Và có đơn giá kháng nguyên O
nhóm 8. Có nhiều serotypes trong nhóm này gây
các vụ ngộ độc thực phẩm trên thế giới. Ví dụ
như: S.Newport, S.Muenchen, S.Kentucky, và
S.Hadar(4,11). Tại Mỹ, các serotypes này được xác
định trong các thực phẩm gây ngộ độc như giá,
cà chua, thịt heo, thịt heo chiên carnitas tại nhà
hay nhà hàng vào năm 2011(1),trong khi đó tại
châu Âu, vụ ngộ độc thực phẩm do S.Newport
nhiễm trong giá trong năm 2011 đã được báo
cáo(4). S.Hadar cũng được tìm thấy trong thịt gà
và trứng từ năm 2004 đến 2011(4).Tuy nhiên,
phòng xét nghiệm của chúng tôi không xác định
được serotype của Salmonella trong vụ dịch này.
Quá trình truy tìm nguồn gốc của thịt viên
trứng cút không xác định thực phẩm này bị
nhiễm như thế nào, tuy nhiên, thực phẩm có thể
bị nhiễm trong quá trình chế biến sản xuất với thịt
sống và trứng cút, trong quá trình vận chuyển và
bảo quản trong bếp ăn công ty. Thêm vào đó, việc
không kiểm tra nhiệt độ tủ đông lạnh, thời gian
nấu ăn và thời gian được giữ trước khi ăn có thể
dẫn đến sự phát triển của Salmonella và gây ra vụ
ngộ độc thực phẩm lớn này.
Hạn chế
Có một số hạn chế trong vụ điều tra ngộ độc
thực phẩm này. Vụ điều tra được tiến hành 24
giờ sau bữa ăn nghi ngờ. Số lượng công nhân
nhập viện quá đông nên chúng tôi không thể thu
thập hết các dữ liệu thông tin của các ca bệnh.
Trong điều tra phân tích bệnh chứng, các ca
bệnh chỉ được chọn từ bệnh viện và ca chứng từ
công ty vào thời điểm điều tra; điều này có thể
dẫn đến sai lệch chọn. Tuy nhiên, sự thống nhất
kết quả xét nghiệm và điều tra phân tích bệnh
chứng có thể xác định món ăn và tác nhân gây
ngộ độc thực phẩm trong vụ dịch này.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 429
KIẾN NGHỊ
Theo diễn tiến vụ dịch, các kiến nghị được
đưa ra đối với bếp ăn. Các nhân viên bếp tuân
thủ theo quy trình chế biến và an toàn vệ sinh
thực phẩm. Khu vực chế biến và sơ chế nên
được ngăn cách rõ ràng. Kho lưu trữ, tủ đông
lạnh nên được kiểm tra thường xuyên nhằm
đảm bảo lưu trữ thức ăn đúng quy định.
CÁM ƠN
Chúng tôi gửi lời cám ơn đến các thành viên
trong đoàn điều tra của Viện Y tế công cộng
Thành phố Hồ Chí Minh, Chi cục An toàn thực
phẩm Tiền Giang, công ty may X và bệnh viện
mà chúng tôi tiến hành điều tra đã giúp đỡ rất
nhiều để có thể thực hiện cuộc điều tra này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Centers for Disease Control and Prevention (2011). Foodborne
diseases active surveillance network (FoodNet): FoodNet
surveillance. Atlanta. U.S. Department of Health and
HumanServices, Centers for Disease Control and Prevention,
2011. Pp. 87‐99.
2. Centers for Disease Control and Prevention (2011). Foodborne
outbreak online database.
Accessed on 2014 Feb 28.
3. Centers for Disease Control and Prevention (2013).
Surveillance for foodborne disease outbreaks — United States,
1998–2008. MMWR Surveillance Summit 2013. 62. 1‐34.
4. European Food Safety Authority, European Centre for
Disease Prevention and Control (2013). The European union
summary report on trends and sources of zoonoses, zoonotic
agents and food‐borne outbreaks in 2011. EFSA Journal.
11.3129‐250.
5. Heymann DL (2008). Control of communicable diseases
manual. 19th ed. Washington DC. APHA. Pp. 534‐40.
6. International Association for Food Protection (2011).
Procedures to investigate foodborne illness. 6th ed, New
York. Springer.130‐1.
7. Kantama L, Jayanatra P (1996). Salmonella enteritidis
outbreak in Thailand: study by random amplified
polymorphic DNA (RAPD) analysis. Southeast Asian J Trop
Med Public Health.27. 119‐25.
8. Lee VJ, Ong AE, Auw M (2009). An outbreak of Salmonella
gastrointestinal illness in a military camp. Ann Acad Med
Singapore. 38. 207‐11.
9. Liu L, He HF, Dai CF, Liang LH, Li T, Li LH, et al (2006)
Salmonellosis outbreak among factory workers‐‐Huizhou,
Guangdong Province, China, July 2004. MMWR Morb Mortal
Wkly Rep.55 (1): 35‐8.
10. Vietnam Food Agency, Ministry of Health (2013). Outbreak
notification report, Da Nang: Foodborne Disease Outbreak
Conference. Pp. 34‐56.
11. WHO (2008) Foodborne disease outbreaks: Guidelines for
investigation and control. World Health Organization.
Geneva. 74‐83.
Ngày nhận bài báo: 6/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 12/6/2014
Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ngo_doc_thuc_pham_do_salmonella_o_mot_cong_ty_may_thuoc_tinh.pdf