Qua những phân tích ở trên, có thể nhận thấy
để đảm bảo thực hiện tốt chức năng dự phòng
đòi hỏi phải có cách tiếp cận đa chiều, liên
ngành. Do vậy, quan điểm sử dụng, đào tạo
nguồn bác sĩ cho Y học dự phòng cũng cần có
cách nhìn toàn diện hơn. Trong thời gian tới, bên
cạnh việc tiếp tục đào tạo các bác sĩ chuyên
khoa Y học dự phòng nhằm chủ yếu cung cấp
nhân lực cho hệ thống quản lý, việc nghiên cứu
sử dụng các bác sĩ đa khoa tham gia cung ứng
các dịch vụ dự phòng là một giải pháp rất cần
quan tâm và triển khai thí điểm. Việc bác sĩ đa
khoa tham gia vào các hoạt động dự phòng có
nhiều u điểm: hiểu biết về bệnh học thu đợc
trong chơng trình đa khoa sẽ giúp ngời bác sĩ
ứng phó chủ động hơn trớc những bệnh, dịch
nảy sinh trong cộng đồng. Mặt khác, trong hoàn
cảnh Việt Nam, việc các bác sĩ làm công tác
YTDP vẫn có thể tham gia khám chữa bệnh sẽ
giúp cuộc sống cá nhân ổn định hơn, qua đó góp
phần tạo sự ổn định cho nhân lực của YTDP. Để
thực hiện đợc giải pháp này có hiệu quả, cần
bắt đầu từ việc mô tả công việc cụ thể của các
nhân viên y tế, trong đó có bác sỹ làm công tác
dự phòng. Đổi mới, kiện toàn chơng trình đào
tạo bác sĩ đa khoa hớng về cộng đồng thông
qua việc bổ xung kiến thức và các kỹ năng phù
hợp với yêu cầu CSSK nhân dân trong tình hình
mới. Đặc biệt cần quan tâm đến việc đặt các
hoạt động CSSK trong bối cảnh kinh tế - xã hội
và môi trờng cụ thể (system - based training),
đây cũng chính là cách thức của những nớc
phát triển trên thếgiới đang thực hiện.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 26 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguồn bác sĩ cho hoạt động dự phòng ở tuyến cơ sở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
Nguồn bác sĩ cho hoạt động
dự phòng ở tuyến cơ sở
1
Lê Quang Cường
ạng lưới y tế dự phòng (YTDP) ở nước ta
được xây dựng và phát triển rộng khắp M
trên toàn quốc với hệ thống các viện nghiên cứu,
trung tâm y tế dự phòng và các hoạt động dự
phòng luôn được tích hợp trong chức năng các
trạm y tế xã, phường. Bên cạnh đó, nhân lực
YTDP ở các cấp cùng đội ngũ nhân viên y tế
thôn bản, cộng tác viên các chương trình y tế đã
bao phủ hầu hết các địa phương trên cả nước.
Chính mạng lưới nhân lực này đã góp phần quan
trọng giúp công tác YTDP đạt được những
thành tựu quan trọng trong thời gian qua. Cùng
với hệ thống nhân lực, hình thức hoạt động dự
phòng ngày càng đa dạng, nhiều kỹ thuật hiện
đại được ứng dụng trong chẩn đoán giám sát và
phòng, chống bệnh dịch, kết quả là chúng ta đã
kịp thời khống chế được nhiều bệnh dịch, đặc
biệt một số bệnh dịch mới, nguy hiểm như
SARS, cúm H5N1.., tạo được uy tín lớn trên
trường quốc tế.
Bên cạnh các thành tựu nêu trên, ngày nay
mạng lưới YTDP nước ta cũng đứng trước nhiều
thách thức: (1) Mô hình bệnh tật thay đổi, tỉ lệ
mới mắc một số bệnh truyền nhiễm vẫn còn cao
(sốt xuất huyết, hội chứng chân-tay-miệng, lao
kháng thuốc...). Trong khi đó, các bệnh không
lây truyền (ung thư, tăng huyết áp, mạch vành,
tiểu đường, đột quị...) và tai nạn thương tích
ngày càng nổi trội, các bệnh mới, nguy hiểm vẫn
luôn là những nguy cơ thường trực ở các nước
thuộc khu vực nhiệt đới trong đó có Việt Nam;
(2) Biến đổi khí hậu làm phát sinh các yếu tố gây
bệnh mới; (3) Phát triển kinh tế thị trường, xu
hướng đô thị hóa, bên cạnh những mặt được, dẫn
đến những thói quen, hành vi, lối sống không có
lợi cho sức khỏe của người dân; (4) Mô hình tổ
chức và nguồn lực của mạng lưới YTDP chưa có
sự thay đổi phù hợp với nhu cầu chăm sóc sức
khỏe (CSSK) nhân dân trong tình hình mới,
trong đó việc đảm bảo nguồn nhân lực cho
YTDP và CSSK ban đầu đang là những thách
thức lớn đối với ngành y tế Việt Nam.
Hiện nay, chăm sóc sức khỏe được nhìn nhận
theo ba cách tiếp cận: y học dự phòng (y tế dự
phòng), y tế công cộng và chăm sóc sức khỏe
ban đầu, trong đó hoạt động dự phòng luôn
chiếm vai trò rất quan trọng. Phân tích nội hàm
của từng cách tiếp cận sẽ giúp xác định các giải
pháp đúng đắn cho nhân lực y tế dự phòng, đặc
biệt là bác sĩ YTDP trong thời gian tới ở nước ta.
Một số khái niệm liên quan đến hoạt
động dự phòng
Y học dự phòng (Preventive Medicine) từ
lâu được coi là một chuyên ngành tập trung vào
các hoạt động phòng chống bệnh tật. Y học dự
phòng được nói đến nhiều trên thế giới từ những
năm 1950 đến đầu những năm 1970 và được
đánh giá là phương pháp cải thiện sức khỏe cộng
2
đồng hiệu quả với chi phí y tế thấp . Chiến lược
chủ yếu của YHDP tập trung vào công tác tiêm
chủng mở rộng, thay đổi lối sống, nâng cao thể
lực, sàng lọc bệnh tại cộng đồng. Các giải pháp
dự phòng được phân thành 5 cấp độ như sau:
1
2
Janice L. Clarke, RN. Preventive Medicine: A Ready
Solution for a Health Care System in Crisis. POPULATION
HEALTH MANAGEMENT. Volume 13, Supplement 2,
2010
Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế
8Nghiên cứu chính sách
3
Pan American Health Organization/World Health
Organization (PAHO/WHO), Public Health in the
Americas: Conceptual Renewal, Performance Assessment,
and Bases for Action (Washington, DC: PAHO/WHO,
2002).
4
Caroline Ramagem and José Ruales, The Essential Public
Health Functions as a Strategy for Improving Overall
Health Systems Performance: Trends and Challenges since
the Public Health in the Americas Initiative, 2000 - 2007
5
David L. Katz, M.D., M.P.H., FACPM, FACP Ather Ali,
N.D., M.P.H. Preventive Medicine Integrative Medicine
and the Health of the Public. Commissioned for the IOM
Summit on Integrative Medicine and the Health of the
Public. February, 2009
1) Dự phòng cấp 0: ngăn ngừa không cho
yếu tố nguy cơ xảy ra.
2) Dự phòng cấp 1: ngăn ngừa không để
bệnh xảy ra (thông qua ngăn ngừa không để tiếp
xúc quá mức với yếu tố nguy cơ).
3) Dự phòng cấp 2: khi bệnh đã xảy ra, kiểm
soát không cho bệnh nặng lên.
4) Dự phòng cấp 3: khi đã mắc bệnh, không
để tàn phế hay tử vong.
5) Dự phòng cấp 4: dự phòng các biến chứng
gây ra trong quá trình điều trị (can thiệp không
cần thiết hoặc quá mức).
Có nhiều định nghĩa về Y tế công cộng
(Public Health). Định nghĩa đầu tiên, được sự
chấp nhận rộng rãi của Winslow từ năm 1920
cho rằng “y tế công cộng (YTCC) là một khoa
học, một nghệ thuật phòng bệnh kéo dài cuộc
sống, nâng cao sức khoẻ và hiệu quả thông qua
những nỗ lực có tổ chức của cộng đồng...”. Kế
thừa các định nghĩa của nhiều tác giả khác qua
hơn 80 năm qua, Tổ chức Y tế Thế giới đã đề
xuất một định nghĩa mới về y tế cộng cộng: “Y
tế công cộng là sự nỗ lực có tổ chức của xã hội,
trước hết là của các thiết chế công cộng nhằm
cải thiện, nâng cao, bảo vệ và phục hồi sức khoẻ
của nhân dân thông qua các hoạt động tập thể”
3
(WHO, 2002) . Y tế công cộng có 11 chức
4
năng , trong đó các chức năng chính là theo dõi,
đánh giá và phân tích tình trạng sức khỏe, giám
sát, nghiên cứu và kiểm soát các yếu tố nguy cơ
đối với sức khỏe cộng đồng với sự tham gia của
xã hội nhằm nâng cao tính công bằng trong tiếp
cận các dịch vụ y tế thiết yếu, giảm tác động của
các vấn đề y tế liên quan tới các tình huống khẩn
cấp và thiên tai.
So sánh hai lĩnh vực nêu trên chúng ta thấy
YTCC, YTDP cùng có chung các mục tiêu về
nâng cao sức khỏe, phòng chống một số bệnh tật
cụ thể và cùng áp dụng các nguyên tắc và kỹ
thuật dịch tễ học để đạt được các mục tiêu này.
Điểm khác nhau của hai cách tiếp cận này là ở
phương pháp triển khai. Trong khi YTDP chủ
yếu thông qua các nhân viên y tế giúp cải thiện
sức khỏe từng cá thể thông qua các hoạt động
như tiêm chủng, diệt côn trùng, kiểm soát vệ
sinh an toàn thực phẩm, kiểm soát các bệnh lây
nhiễm... thì YTCC lại nâng cao sức khỏe của
một cộng đồng qua việc huy động sự tham gia
của tất cả các thành viên, các tổ chức xã hội
5
trong cộng đồng thông qua cải thiện môi trường
sống, cơ sở hạ tầng (nhà ở, cung cấp nước sạch
và công trình vệ sinh..), giáo dục sức khỏe để
mỗi người dân tự biết giữ gìn sức khỏe cho
mình.
Chăm sóc sức khỏe ban đầu (Primary
Health Care) là “chăm sóc sức khỏe thiết yếu
dựa trên các phương pháp và kỹ thuật mang tính
khoa học, thực tế và được xã hội chấp nhận sao
cho từng cá nhân, gia đình trong cộng đồng
được tiếp cận dịch vụ một cách rộng rãi..., thông
qua sự tham gia đầy đủ của các thành phần khác
nhau trong cộng đồng, với giá thành có thể chấp
nhận được trong bất cứ tình huống nào trong quá
trình phát triển của họ” (Alma-Ata declaration
1978 - WHO). CSSK ban đầu gồm tám nội dung
cơ bản là: (1) Giáo dục sức khỏe nhằm thay đổi
lối sống và thói quen không lành mạnh. (2)
Cung cấp đầy đủ thực phẩm và dinh dưỡng hợp
lý, cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường;
(3) Chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em trong đó có
kế hoạch hóa gia đình; (4) Tiêm chủng phòng
chống các bệnh nhiễm trùng phổ biến ở trẻ em;
9Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
(5) Phòng chống các bệnh dịch lưu hành phổ
biến; (6) Điều trị hợp lý các bệnh thông thường
bằng sử dụng các kỹ thuật hợp lý; (7) Nâng cao
sức khỏe tâm thần; (8) Cung cấp các loại thuốc
thiết yếu. Cũng theo WHO, CSSK ban đầu bao
gồm năm nguyên tắc tiếp cận cơ bản là (1) Tính
công bằng; (2) Tăng cường sức khỏe, dự phòng
và phục hồi sức khỏe; (3) Phải có sự tham gia
của cộng đồng; (4) áp dụng các kỹ thuật y tế
thích hợp để đáp ứng yêu cầu phục vụ bệnh
nhân; (5) Phải có sự phối hợp liên ngành. Mục
tiêu của chăm sóc sức khỏe ban đầu không chỉ
liên quan đến tăng cường tình trạng sức khỏe
của cộng đồng mà còn là sự tăng cường các điều
kiện kinh tế xã hội của cộng đồng.
Sau hơn 30 năm thực hiện Chăm sóc sức
khoẻ ban đầu theo Tuyên ngôn Alma-Ata nêu
trên, năm 2002, Tổ chức Y tế Thế giới đã đề xuất
cải cách nội dung CSSK ban đầu, nhằm đảm bảo
chăm sóc sức khoẻ cho mọi người dân trong
cộng đồng (không chỉ ưu tiên chăm sóc bà mẹ
và trẻ em - nội dung 3, 4 của Tuyên ngôn Alma-
Ata), giải quyết mọi vấn đề bệnh tật và sức khoẻ
chứ không chỉ tập trung vào các bệnh nhiễm
trùng cấp tính (nội dung 4, 5 của Tuyên ngôn
Alma-Ata), không chỉ cải thiện môi trường vệ
sinh, nước, hệ thống xử lý rác thải và giáo dục
sức khỏe ở tuyến thôn bản mà còn thực hiện
tuyên truyền lối sống khỏe mạnh và làm giảm
tác động tới sức khỏe từ biến đổi môi trường và
xã hội; sự tham gia của cộng đồng trong xây
dựng chính sách và giám sát tính trách nhiệm
giải trình, thay vì nêu chung chung sự tham gia
của cộng đồng như trước đây; CSSK ban đầu
ngày nay là sự lồng ghép ở tất cả các tuyến y tế,
chứ không chỉ ở khu vực ngoại trú như quan
điểm trước đây vv... (xem bài “Định hướng
CSSK ban đầu trong tình hình mới của Tổ chức
Y tế Thế giới”, đăng trong số này).
Như vậy, CSSK ban đầu với những nội dung
cải cách theo quan điểm của Tổ chức Y tế Thế
giới đang trở thành nội dung hoạt động cốt lõi
của hệ thống chăm sóc sức khoẻ, trong đó có sự
tham gia tích cực của YTDP.
Sơ đồ 1. Y học dự phòng theo cách tiếp cận quản lý cung ứng dịch vụ
Qua phân tích mô hình hoạt động của lĩnh
vực YTCC, dịch vụ y học dự phòng và dịch vụ
chữa bệnh (xem sơ đồ 1), chúng ta thấy các hoạt
động phòng bệnh được đan xen giữa lĩnh vực y
tế công cộng (không cho yếu tố nguy cơ xảy ra),
lĩnh vực y tế dự phòng truyền thống (không để
Y học dự phòng
YTCC Các dịch vụ phòng bệnh Dịch vụ KCB
Dự phòng cấp 0
(Không cho yếu
tố nguy cơ xảy ra)
Dự phòng cấp 3
(Không để tàn phế
hay tử vong)
Dự phòng cấp 1
(Không để bệnh
xảy ra)
Dự phòng cấp 2
(Không để bệnh
nặng lên)
Vai trò chủ đạo của chính
phủ, vai trò đa ngành, đa nghề
Tư vấn về chuyên môn từ
ngành y tế
Can thiệp chính sách
Thông tin y tế và sự tham gia
của cộng đồng
Tổ chức kiểm soát dịch, bệnh,
yếu tố nguy cơ mang tính
chuyên nghiệp, thống nhất và
xuyên suốt các tuyến
Bao phủ dịch vụ phòng và
chữa bệnh đến từng người dân
một cách đầy đủ
Điều trị kịp thời
Đảm bảo chất lượng và an
toàn
Tư vấn sức khỏe, theo dõi và
điều trị liên tục
10
Nghiên cứu chính sách
6
Cục Y tế dự phòng. Đề á n Quy hoạch Phát triển nhân lực y
tế dự phòng giai đoạn 2011-2020.
7
Viện Chiến lược và Chính sách Y tế. Nghiên cứu đánh giá
thực trạng và nhu cầu bác sỹ sau ra trường. 2010.
8
Ministry of Health (2007). “Project to Support the District
Center of Preventive Medicine for the Period 2007-2010.”
xảy ra bệnh) và lĩnh vực điều trị (không để bệnh
nặng lên, hạn chế tàn phế hoặc tử vong). Như
vậy, để có nhân lực bao phủ được các hoạt động
dự phòng nêu trên, cần phải đa dạng hóa loại
hình cán bộ làm công tác dự phòng. Nói một
cách khác, đổi mới và đa dạng hóa chương trình
đào tạo dựa trên mô tả công việc của các cán bộ
làm công tác dự phòng ở từng tuyến có vai trò
quan trọng trong đảm bảo tính đầy đủ, ổn định
và hiệu quả của nhân lực y tế dự phòng trong hệ
thống y tế.
Thực trạng nhân lực là bác sĩ Y học dự
phòng ở Việt Nam - giải pháp cho thời gian
tới.
Nhân lực YTDP ở nước ta hiện nay chưa đủ về
số lượng, chất lượng còn chưa đáp ứng được với
tình hình mới cũng như cơ cấu và phân bổ còn
bất hợp lý. Cụ thể, nhân lực YTDP tuyến trung
6
ương mới đáp ứng được 76% nhu cầu ; tuyến
tỉnh đáp ứng được 63% và tuyến huyện mới chỉ
đáp ứng được 51% so với yêu cầu theo quy định
7
của Thông tư 08/2007/TTLT-BYT-BNV . Trình
độ cán bộ YTDP còn hạn chế ở các tuyến tỉnh và
huyện. Nếu nhìn ở mức độ bằng cấp, số lượng
cán bộ có trình độ đại học ở hệ thống dự phòng
còn rất thấp (11,2%) và chỉ có 2% có bằng hoặc
chứng chỉ chuyên ngành liên quan đến hoạt
động dự phòng (y tế công cộng, y học lao
8
động...) . Số lượng đào tạo bác sỹ Y học dự
phòng hệ chính quy hàng năm còn rất thấp,
chiếm tỷ lệ nhỏ (9,4%) so với tổng số bác sỹ. Cơ
cấu giữa các chuyên ngành trong lĩnh vực YTDP
cũng còn bất hợp lý. Bộ phận chuyên ngành y
trong lĩnh vực YTDP ở tuyến tỉnh chỉ chiếm 67%
(theo quy định của Thông tư Liên tịch số
08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2007 về
định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế
nhà nước thì bộ phận chuyên ngành y cần chiếm
80-85%). Mặt khác, trong tổng số cán bộ chuyên
ngành hệ Y học dự phòng tuyến tỉnh, tỷ lệ bác sỹ
chỉ chiếm khoảng 25%, trong khi đó tỷ lệ cán bộ
trung cấp y chiếm tỷ lệ cao nhất với 34%. Tại
tuyến quận/huyện việc phân bổ cơ cấu cán bộ
cũng chưa hợp lý (trên 77% số cán bộ có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ là trung cấp y, tỷ lệ bác sỹ
chỉ chiếm khoảng 11%, thấp hơn nhiều so với
nhu cầu đề ra (Thông tư Liên tịch số
08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2007 quy
định từ 20% trở lên).
Có nhiều nguyên nhân liên quan đến tình
trạng thiếu nhân lực YTDP: (i) Đào tạo cán bộ y
tế (đặc biệt là đào tạo trình độ đại học) cho hệ
YTDP còn rất hạn chế, mặc dù đã có nhiều cố
gắng mở mã ngành riêng với điểm chuẩn đầu
vào thấp hơn điểm chuẩn tuyển bác sĩ đa khoa
nhằm thu hút thí sinh nhưng chính sách này vẫn
tỏ ra chưa hiệu quả. Bên cạnh đó, đội ngũ giảng
viên dạy về Y học dự phòng tại một số cơ sở còn
thiếu về số lượng và chất lượng chưa đảm bảo,
kinh phí đầu tư cho đào tạo hệ Y học dự phòng
không hợp lý (thấp hơn rất nhiều so với hệ điều
trị). Tất cả điều này làm cho việc mở rộng chỉ
tiêu tuyển sinh trong lĩnh vực YTDP càng trở
nên khó khăn hơn; (ii) Chính sách tuyển dụng,
sử dụng và đãi ngộ nhân lực y tế dự phòng còn
chưa đáp ứng với nhu cầu thực tế: các quy định
về tuyển dụng còn bất cập, cụ thể ở nhiều địa
phương, ngành y tế vẫn chưa được giao quyền
trong tuyển dụng cán bộ và thực hiện theo
Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT/BYT-BNV,
việc tuyển dụng vẫn còn phụ thuộc vào Sở Nội
vụ. Bên cạnh đó, một số đơn vị khi thực hiện
Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy
định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực
hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập đã
không tuyển dụng đủ nhân lực theo quy định
nhằm tăng thu, giảm chi cho đơn vị. Chính sách
tuyển dụng và đãi ngộ đối với nhân lực y tế chưa
11
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
đủ sức thu hút do vậy một số địa phương không
thể tuyển được bác sĩ, dược sĩ đại học, đặc biệt là
các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo...
Định mức phụ cấp nhìn chung còn thấp, chưa
thỏa đáng, chưa tương xứng với lao động đặc thù
của Ngành. Một số chính sách về định mức phụ
cấp trong lĩnh vực YTDP đã lạc hậu và không
còn phù hợp với mức lương tối thiểu và giá cả thị
trường. Chính vì vậy, sinh viên hệ dự phòng sau
ra trường không muốn nhận công tác tại các địa
phương do thu nhập thấp (bác sĩ YHDP không
được phép hành nghề khám chữa bệnh tư). Thu
nhập chỉ dựa vào lương không đảm bảo cho
cuộc sống gia đình; (iii) Đầu tư cho lĩnh vực
YHDP chưa thỏa đáng: cơ sở vật chất, trang
thiết bị của các Trung tâm YHDP tuyến
tỉnh/thành phố, quận/huyện còn chật hẹp, thiếu
thốn trang thiết bị để làm việc. Nhiều nơi, Trung
tâm Y học dự phòng huyện tách khỏi bệnh viện
nhưng chưa có trụ sở làm việc riêng biệt. Thiếu
trang thiết bị kỹ thuật hiện đại để phát hiện và
chẩn đoán sớm dịch bệnh để ngăn chặn dịch
bùng phát ra diện rộng. Kinh phí đầu tư cho Y
học dự phòng còn thấp, chưa tương xứng với
nhu cầu về nhiệm vụ trong tình hình mới.
Qua những phân tích ở trên, có thể nhận thấy
để đảm bảo thực hiện tốt chức năng dự phòng
đòi hỏi phải có cách tiếp cận đa chiều, liên
ngành. Do vậy, quan điểm sử dụng, đào tạo
nguồn bác sĩ cho Y học dự phòng cũng cần có
cách nhìn toàn diện hơn. Trong thời gian tới, bên
cạnh việc tiếp tục đào tạo các bác sĩ chuyên
khoa Y học dự phòng nhằm chủ yếu cung cấp
nhân lực cho hệ thống quản lý, việc nghiên cứu
sử dụng các bác sĩ đa khoa tham gia cung ứng
các dịch vụ dự phòng là một giải pháp rất cần
quan tâm và triển khai thí điểm. Việc bác sĩ đa
khoa tham gia vào các hoạt động dự phòng có
nhiều ưu điểm: hiểu biết về bệnh học thu được
trong chương trình đa khoa sẽ giúp người bác sĩ
ứng phó chủ động hơn trước những bệnh, dịch
nảy sinh trong cộng đồng. Mặt khác, trong hoàn
cảnh Việt Nam, việc các bác sĩ làm công tác
YTDP vẫn có thể tham gia khám chữa bệnh sẽ
giúp cuộc sống cá nhân ổn định hơn, qua đó góp
phần tạo sự ổn định cho nhân lực của YTDP. Để
thực hiện được giải pháp này có hiệu quả, cần
bắt đầu từ việc mô tả công việc cụ thể của các
nhân viên y tế, trong đó có bác sỹ làm công tác
dự phòng. Đổi mới, kiện toàn chương trình đào
tạo bác sĩ đa khoa hướng về cộng đồng thông
qua việc bổ xung kiến thức và các kỹ năng phù
hợp với yêu cầu CSSK nhân dân trong tình hình
mới. Đặc biệt cần quan tâm đến việc đặt các
hoạt động CSSK trong bối cảnh kinh tế - xã hội
và môi trường cụ thể (system - based training),
đây cũng chính là cách thức của những nước
phát triển trên thế giới đang thực hiện.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nguon_bac_si_cho_hoat_dong_du_phong_o_tuyen_co_so.pdf