- Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần có hướng
dẫn đầy đủ và thống nhất với các bộ,
ngành khác về chính sách ưu đãi đầu tư để
doanh nghiệp đổi mới công nghệ xanh, tạo
nên thế mạnh cạnh tranh trên thị trường,
đồng thời bảo vệ môi trường. Đối với các
doanh nghiệp FDI cần quy định chặt chẽ
về tiêu chuẩn xanh trong đầu tư.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng cần
xây dựng kế hoạch thích ứng với biến đổi
khí hậu và chính sách để ứng phó hiệu quả
với rủi ro ngày càng tăng do biến đổi khí
hậu. Các kịch bản biến đổi khí hậu cũng
như các rủi ro và mối đe dọa nên được triển
khai cho tất cả các khu vực và tỉnh thành để
cùng xác định và hành động, nhằm chống
lại các đe dọa do biến đổi khí hậu. Quá
trình này nên được thể chế hóa để đảm bảo
rằng khả năng phục hồi luôn được đảm bảo,
tương ứng với nhiều kịch bản biến đổi khí
hậu khác nhau có thể xảy ra.
○ Về quản lý giám sát: Các bộ ngành cần
phối hợp để giám sát thực hiện đồng bộ
các giải pháp và tăng hiệu quả quản lý đối
với các NHTM và các doanh nghiệp thực
hiện dự án đầu tư xanh. Theo kinh nghiệm
của Indonesia, Việt Nam cần yêu cầu các
cơ quan liên quan cung cấp đầy đủ thông
tin về các nguồn vốn xanh, đặc biệt nguồn
từ ngân sách và quốc tế. Các trường hợp
vi phạm trong sử dụng nguồn vốn cho đầu
tư xanh cần phải xử lý nghiêm minh, đồng
thời tuyên truyền cho các đối tượng sử
dụng nguồn vốn quốc tế về tuân thủ quy
định sử dụng vốn tài trợ. Từ đó, Việt Nam
có thể thu hút thêm các nguồn vốn nước
ngoài, cả công và tư để bổ sung cho nguồn
vốn trong nước đang còn hạn chế.
○ Về thực thi:
- BTC cần tiếp tục ưu tiên ngân sách cho
đầu tư xanh và chủ động hợp tác với các
nhà đầu tư tư nhân trong lĩnh vực này.
Hình thức hợp tác công tư phải dựa trên
mục tiêu các bên cùng có lợi và sau thời
gian thực hiện cần có đánh giá đầy đủ về
hiệu quả hợp tác. Ngoài ra Bộ nên chú
trọng đào tạo, nâng cao nhận thức về đầu
tư có trách nhiệm với môi trường và xã
hội cho tất cả các doanh nghiệp niêm yết
và các công ty chứng khoán hiện có trên
thị trường.
- Các NHTM nên xây dựng và đa dạng
hóa sản phẩm dịch vụ cho phù hợp với
từng đối tượng đầu tư xanh. Ngoài ra, quy
trình thẩm định, giám sát, đánh giá hiệu
quả đầu tư xanh tại các ngân hàng cũng
cần được hoàn thiện để đảm bảo các dự
án mang lại hiệu quả kinh tế dựa trên mô
hình sản xuất và tiêu thụ bền vững, thân
thiện với môi trường. Các ngân hàng cũng
cần chủ động xây dựng kế hoạch và lộ
trình tiếp cận các nguồn vốn xanh quốc tế.
- Các quỹ bảo vệ môi trường cần nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn để giảm áp lực lên
Ngân sách Nhà nước
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 264 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguồn vốn cho đầu tư xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
64
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 215- Tháng 4. 2020
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Nguồn vốn cho đầu tư xanh: Kinh nghiệm quốc tế và
khuyến nghị cho Việt Nam
Đào Thị Thanh Tú
Học viện Ngân hàng
Vũ Thị Anh Thư
Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
Ngày nhận: 06/12/2019 Ngày nhận bản sửa: 06/01/2019 Ngày duyệt đăng: 15/00/2019
Đầu tư xanh là chủ đề thảo luận chính tại nhiều quốc gia trên toàn thế giới
gần đây. Tuy nhiên, việc huy động vốn cho đầu tư xanh ở Việt Nam hiện
nay còn gặp nhiều khó khăn. Bài viết tập trung vào các giải pháp được chia
sẻ từ quốc gia có điều kiện phát triển kinh tế tương đồng và các quốc gia
trong Cộng đồng Đông Nam Á Cộng Một, nhằm rút ra những khuyến nghị
hữu ích cho Việt Nam về vấn đề này.
Từ khóa: Nguồn vốn, Đầu tư xanh, Tăng trưởng xanh
Green financing- International experience and suggestion for Vietnam
Abstract: Green investment is a main topic of discussion in many countries in the world. However, Vietnam’s
green financing is currently facing difficulties. The article focuses on the remedies suggested by the country
with similar economic conditions and countries in the Association of Southeast Asian Nations Plus One so as
to make out possible solutions to Vietnam’s green financing.
Keywords: Resource, Green investment, Green growth
Tu Thi Thanh Dao
Email: tudtt@hvnh.edu.vn
Banking Academy of Vietnam
Thu Thi Anh Vu
Email: thuvta@buh.edu.vn
Banking University of Ho Chi Minh City
1. Tổng quan về nguồn vốn cho đầu tư
xanh
Trong các diễn đàn gần đây của các tổ
chức quốc tế đều cảnh báo và khuyến
nghị về phát triển xanh, trong đó có tài trợ
xanh (green financing) (World Economic
Forum, 2011; G20, 2017). Do đó, việc
huy động vốn cho đầu tư xanh là nhu cầu
tất yếu đối với mỗi quốc gia.
Đầu tư xanh là một khái niệm rộng và tùy
thuộc cách tiếp cận. Eyraud et al. (2011)
định nghĩa đó là đầu tư cần thiết cho sản
xuất và tiêu thụ hàng hóa phi năng lượng,
để giảm khí nhà kính và khí thải gây ô
nhiễm không khí, bao gồm cả đầu tư công
cộng và tư nhân. Do đó đầu tư xanh là đầu
tư cho cung cấp năng lượng có khí thải
thấp (bao gồm năng lượng tái tạo, nhiên
liệu sinh học và hạt nhân); đạt hiệu quả
ĐÀO THỊ THANH TÚ - VŨ THỊ ANH THƯ
65Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
năng lượng (trong cung cấp năng lượng
và các ngành tiêu thụ năng lượng) và
giảm carbon (bao gồm trồng rừng và nông
nghiệp).
Inderst et al. (2012) cho rằng cách hiểu về
đầu tư xanh phụ thuộc vào mục tiêu của
từng chủ thể tham gia thị trường xanh. Đối
với chủ thể huy động vốn, đầu tư xanh là
đầu tư từ nguồn tài trợ bằng các kênh huy
động vốn, đảm bảo mức độ xanh khác
nhau: tín dụng xanh, phát hành chứng
khoán xanh, thành lập ngân hàng xanh và
các quỹ đầu tư xanh (Hình 1).
Vốn cho hoạt động đầu tư xanh có thể
hình thành từ ba nguồn chính, cụ thể:
Nguồn vốn công trong nước: Là nguồn
vốn tài trợ trực tiếp từ chính phủ và các
tổ chức tài chính phát triển quốc gia
(Development Financial Institutions-DFI).
Chính phủ các nước tham gia tài trợ cho
hoạt động đầu tư xanh nhằm đạt được
các mục tiêu: (i) Hình thành và đảm bảo
nguồn tài trợ cho các ngành công nghiệp
xanh và tăng trưởng bền vững; (ii) Phát
triển các sản phẩm tài chính mới hỗ trợ
cho nền kinh tế carbon thấp; (iii) Thu hút
các nguồn vốn đầu tư tư nhân để xây dựng
và duy trì cơ sở hạ tầng xanh; (iv) Hỗ trợ
triển khai các thông lệ quản lý xanh đối
với khu vực doanh nghiệp và tăng cường
tài trợ cho các doanh nghiệp áp dụng
các thông lệ đó; (v) Thiết lập thị trường
đối với hàng hóa và dịch vụ môi trường.
Trong nguồn vốn công trong nước, nguồn
vốn từ DFI chiếm phần lớn cho việc tài trợ
phát triển các dự án biến đổi khí hậu và
carbon thấp. Phần lớn các DFI có mối liên
hệ chặt chẽ với chính phủ, trong đó, chính
phủ đóng vai trò tài trợ hoặc cung cấp vốn
chính.
Nguồn vốn công cộng nước ngoài: Là
nguồn vốn từ các tổ chức, định chế quốc tế
hay các ngân hàng phát triển song phương
và đa phương. Trong đó, nguồn vốn từ các
tổ chức chiếm tỷ trọng lớn nhất. Các nhà
đầu tư tổ chức thường có xu hướng đầu tư
vào các doanh nghiệp hay dự án hoạt động
có trách nhiệm với xã hội, có khả năng
phát triển ổn định, lâu dài và bền vững.
Nguồn vốn khu vực tư nhân trong và ngoài
nước: Nguồn vốn tư nhân hình thành chủ
yếu từ sự đóng góp của một số nhóm đầu
tư như các nhà phát triển dự án, doanh
nghiệp, hộ gia đình, các định chế tài chính
thương mại Các nhà đầu tư tư nhân bỏ
vốn vào dự án xanh phụ thuộc vào mức độ
hài lòng của họ khi so sánh giữa chi phí
và lợi ích của dự án. Mọi hoạt động và nỗ
lực của chính phủ đối với hoạt động đầu tư
xanh có thể giảm bớt các rủi ro, gia tăng
sự đảm bảo cho các khoản lợi nhuận dự
Hình 1. Các mức độ đầu tư xanh
Nguồn: Inderst et al. (2012)
Nguồn vốn cho đầu tư xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
66 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 215- Tháng 4. 2020
kiến có được từ dự án, từ đó làm tăng khả
năng thuyết phục nhà đầu tư.
Như vậy, nguồn vốn cho đầu tư xanh
được tài trợ bằng nhiều phương thức khác
nhau. Tuy nhiên, kênh nào là phù hợp
có sự khác biệt giữa các quốc gia. Trong
nội dung tiếp theo bài viết tổng hợp kinh
nghiệm của quốc gia có điều kiện phát
triển kinh tế tương đồng với Việt Nam và
các quốc gia trong khu vực (Đông Nam Á
Cộng Một, The Association of Southeast
Asian Nations Plus One- ASEAN+1),
bao gồm: Bangladesh, Trung Quốc và
Indonesia.
2. Kinh nghiệm và bài học quốc tế về
nguồn vốn cho đầu tư xanh
2.1. Kinh nghiệm từ một số quốc gia về
nguồn vốn cho đầu tư xanh
2.1.1. Kinh nghiệm của Bangladesh
Bangladesh là quốc gia được đánh
giá thành công trong thực thi các giải
pháp huy động vốn cho đầu tư xanh
(Soejachmoen, 2017). Các chương trình
cấp vốn xanh bao gồm cả nguồn vốn trong
nước và nguồn vốn nước ngoài, cụ thể:
Nguồn vốn trong nước: Chính phủ
Bangladesh giao nhiệm vụ cho Ngân hàng
Trung ương (NHTW) Bangladesh triển
khai các trương trình tài trợ vốn cho đầu
tư xanh. Nổi bật là các chương trình sau:
Chương trình tái cấp vốn cho các sản
phẩm xanh: Chương trình này được thực
hiện từ năm 2009 bằng tạo lập quỹ quay
vòng trị giá 2 tỷ Taka (đồng nội tệ của
Bangladesh, tương đương khoảng 27 triệu
USD) với 05 dòng sản phẩm xanh. Đến
năm 2016, NHTW Bangladesh đã tăng lên
50 sản phẩm, cho 11 lĩnh vực. Trên cơ sở
đó các ngân hàng thương mại (NHTM)
vay vốn từ NHTW với lãi suất 5%/năm và
cho vay lại theo quy định với mức lãi suất
9%/năm. Ngoài ra, NHTW Bangladesh
còn yêu cầu kiểm tra ngẫu nhiên quy trình
sử dụng vốn và thu hồi khoản vốn vay
kèm theo lãi suất phạt 5%/năm nếu sử
dụng vốn sai mục đích.
Quỹ chuyển đổi xanh của NHTW
Bangladesh: Quỹ chuyển đổi xanh có
nguồn từ Quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia,
với quy mô 200 triệu USD, áp dụng cho 9
tiêu chuẩn của Chuyển đổi Xanh đối với
ngành dệt và da. Đối tượng thụ hưởng là
các nhà sản xuất- xuất khẩu sản phẩm dệt
may cho xuất khẩu và ngành da để nhập
khẩu máy móc thiết bị nhằm áp dụng các
công nghệ và quy trình thân thiện môi
trường. Thời hạn khoản vay lên đến 5-10
năm, với 1 năm ân hạn.
Tái cấp vốn cho Ngân hàng Shariah và
các tổ chức tài chính: Năm 2014, NHTW
Bangladesh đã áp dụng một chương trình
tái cấp vốn cho đầu tư xanh từ nguồn
vốn thanh khoản dư thừa của các ngân
hàng Hồi giáo Islam Shariah (Islam et al.,
2014). Các NHTM được quy định cho vay
50 dòng sản phẩm.
Nguồn vốn nước ngoài: Năm 2012, Ngân
hàng Phát triển Châu Á (ADB) tài trợ 50
triệu USD qua «Dự án tài trợ nâng cao
hiệu quả lò nung gạch”. Các NHTM tham
gia phải cam kết cho vay sản xuất gạch
trên toàn quốc, đáp ứng yêu cầu về giảm
phát thải khí nhà kính, ô nhiễm hạt bụi từ,
xây dựng các khu vực gạch hiệu quả cao,
thân thiện môi trường bằng ứng dụng công
nghệ và năng lượng thích hợp.
Bangladesh được đánh giá thành công
ĐÀO THỊ THANH TÚ - VŨ THỊ ANH THƯ
67Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
trong cung vốn cho đầu tư xanh bởi cơ chế
chính sách rõ ràng và thực thi nhất quán
của NHTW như: Khung quản lý rủi ro môi
trường và xã hội của quốc gia được ban
hành và buộc các NHTM phải thực hiện
theo lộ trình 3 giai đoạn từ năm 2013; Có
hành động thiết thực trong quản lý, giám
sát các NHTM thực hiện thông qua cơ
chế tạo điều kiện thuận lợi nếu thực hiện
đúng và xử phạt khi vi phạm. Đây là kinh
nghiệm quý báu cho các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam.
2.1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Sau hơn 30 năm phát triển nhanh, Trung
Quốc phải đối mặt với vấn nạn ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng, gây ra những
hệ lụy về chính trị, an ninh, kinh tế và xã
hội. Do đó, Trung Quốc đã tạo nguồn vốn
cho đầu tư xanh bằng ưu tiên phát triển hệ
thống tài chính xanh, trong đó đặc biệt chú
trọng chính sách tín dụng xanh và phát
triển trái phiếu xanh (Peiyuan Guo, 2014).
Trung Quốc phát triển cả thị trường trái
phiếu xanh trong nước và quốc tế, chú
trọng phát triển thị trường trái phiếu xanh
nội địa. Tháng 10/2015, Ngân hàng Nông
Nghiệp Trung Quốc phát hành gần 1 tỷ
đồng trái phiếu xanh tại thị trường London
nhằm huy động vốn cho các dự án thân
thiện môi trường (MOF,2019). Ngày
22/12/2015, Ngân hàng Nhân dân Trung
Quốc (PBoC) đã thông báo kế hoạch phát
hành trái phiếu xanh trên thị trường liên
ngân hàng nhằm cho phép các tổ chức tài
chính tăng nguồn vốn tài trợ cho các dự án
xanh.
Trái phiếu tài chính xanh được phát hành
nhằm tài trợ cho các lĩnh vực công nghiệp
xanh, là loại trái phiếu được quyền mua
lại, lãi suất theo thỏa thuận của các bên.
Các tổ chức tài chính phát hành bao gồm
các ngân hàng phát triển, ngân hàng chính
sách, NHTM, công ty tài chính và các tổ
chức tài chính hợp pháp khác. Trong năm
2016, thị trường trái phiếu xanh Trung
Quốc đã có bước phát triển mạnh với giá
trị phát hành đạt 36,2 tỷ USD, chiếm 1/3
giá trị phát hành trái phiếu xanh toàn cầu,
đưa Trung Quốc trở thành quốc gia dẫn
đầu thị trường này.
Các kết quả đã đạt được của Trung Quốc
trong huy động nguồn vốn cho đầu tư
xanh là do một số nguyên nhân cơ bản
như: Hệ thống văn bản pháp luật đảm
bảo khả năng hội nhập giữa hệ thống tài
chính xanh trong nước và quốc tế; Các dự
án được tài trợ từ tín dụng và trái phiếu
xanh phải đáp ứng những tiêu chuẩn theo
từng ngành và lĩnh vực; Chính sách ưu
đãi phù hợp đã khuyến khích tín dụng và
thị trường trái phiếu xanh phát triển, ví dụ
được sử dụng trái phiếu xanh như là một
tài sản đảm bảo để hưởng các khoản vay
lãi suất thấp từ NHTW; Lồng ghép nân
cao nhận thức về môi trường, hoạt động
xã hội toàn quốc thông qua tín dụng và trái
phiếu xanh.
2.1.3. Kinh nghiệm của Indonesia
Cũng như Trung Quốc, Indonesia nhận
thấy để phát triển kinh tế bền vững cần
phải xử lý đồng thời các vấn đề về môi
trường sinh thái. Vì vậy, trong kế hoạch
phát triển quốc gia dài hạn giai đoạn 2005-
2025, Indonesia đã đặt mục tiêu trở thành
quốc gia xanh và phát triển bền vững (U.
Volz, 2015).
Tại Hội nghị thượng đỉnh Pittsburgh G20
năm 2009, Indonesia đã cam kết dùng
nguồn vốn trong nước để giảm khí nhà
kính xuống 26% vào năm 2020 hoặc 41%
Nguồn vốn cho đầu tư xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
68 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 215- Tháng 4. 2020
nếu có sự hỗ trợ quốc tế. Tháng 9 năm
2011, cam kết này được triển khai bởi Bộ
Kế hoạch và Đầu tư Indonesia thông qua
chương trình hành động quốc gia về giảm
khí thải nhà kính.
Tháng 12/2014, Cơ quan Dịch vụ tài chính
Indonesia đã ban hành chiến lược về tài
chính bền vững tại Indonesia, có mục tiêu
trung hạn 2015- 2019, dài hạn 2015- 2024
và những tiêu chuẩn để cải thiện tài chính
bền vững. Trong đó, các NHTM phải đảm
bảo tỷ lệ cho vay đối với khu vực tư nhân
kinh doanh công nghiệp, năng lượng, nông
nghiệp, các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ
và vừa, đồng thời gắn kết trách nhiệm của
các ngân hàng theo năng lực và ưu tiên
khu vực.
Chiến lược cũng đề cập đến vai trò của thị
trường vốn và các tổ chức phi tài chính
đối với tài chính xanh, xây dựng một chỉ
số cổ phiếu của các doanh nghiệp đảm
bảo tiêu chí xanh, cũng như khuyến khích
doanh nghiệp quan tâm đến hoạt động môi
trường khi sản xuất kinh doanh. Không
những thế các doanh nghiệp được khuyến
khích cam kết thực hiện kinh doanh trong
khuôn khổ giảm thiểu rủi ro đối với môi
trường và sản xuất những sản phẩm thân
thiện với môi trường.
Đánh giá về đầu tư xanh tại Indonesia,
Soejachmoen (2017) đã khảo sát qua
mạng, phỏng vấn nhân sự trong ngành
Ngân hàng. Tác giả cho rằng kết quả
đầu tư xanh kém hiệu quả là do thông tin
không hoàn hảo, quá tiết kiệm các chi phí
tiềm lực, đồng thời đánh giá quá cao các
rủi ro từ phía nhà cung cấp. Các ngân hàng
và các công ty tài chính đều không thiện
chí tiên phong đầu tư vào các dự án xanh.
Các ngân hàng không muốn tham gia vào
các dự án xanh nếu không bị bắt buộc,
trong khi các công ty tài chính không
muốn cho vay các dự án không gắn với
hoạt động của họ. Trợ cấp năng lượng quá
lớn của Chính phủ Indonesia cũng là một
nguyên nhân làm giảm động lực đầu tư
tư nhân vào các dự án năng lượng tái tạo.
Trên cơ sở đó, tác giả cho rằng chiến lược
về huy động vốn cho đầu tư xanh cần tập
trung vào 3 vấn đề: (i) Tăng nguồn cung
tài chính xanh; (ii) tăng cầu các sản phẩm
tài chính xanh; (iii) tăng cường đồng bộ
và phối hợp thực thi tài chính bền vững.
Ngoài ra để tăng thị phần tín dụng xanh,
các ngân hàng cần tạo động lực cho các
doanh nghiệp đi vay, cung cấp các khoản
cho vay linh hoạt, đảm bảo tín dụng, cho
vay tiêu dùng và tài trợ cho nhà cung cấp.
2.2. Bài học rút ra cho Việt Nam
Qua tìm hiểu kinh nghiệm của một số
quốc gia, bài học rút ra cho Việt Nam về
nguồn vốn cho đầu tư xanh tập trung vào
ba vấn đề lớn sau đây:
Về cơ chế, chính sách: Việc xây dựng
cơ chế chính sách cần rõ ràng, nhất quán
và có tham chiếu khuyến nghị của các tổ
chức quốc tế về khung quản lý rủi ro môi
trường và xã hội; phát triển đồng thời cả
kênh tín dụng xanh và thị trường tài chính
xanh.
Về quản lý giám sát: Cơ quan chuyên
trách cần xây dựng văn bản hướng dẫn
thực thi theo cơ chế có thưởng, có phạt
và yêu cầu các NHTM và các công ty tài
chính phải cung cấp đầy đủ thông tin về
hoạt động cho vay đối với đầu tư xanh.
Về thực thi: Chính phủ không trợ cấp
quá mức để tránh ảnh hưởng đến thu hút
vốn đầu tư tư nhân. Ngoài ra, các cơ quan
chuyên trách cần phối hợp để huy động tối
ĐÀO THỊ THANH TÚ - VŨ THỊ ANH THƯ
69Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
đa nguồn vốn cho đầu tư xanh. Trong thực
hiện dự án, các doanh nghiệp cần đánh giá
dự án phù hợp, tránh trường hợp tiết kiệm
quá mức hoặc đánh giá quá cao rủi ro từ
phía nhà cung cấp.
3. Thực trạng nguồn vốn cho đầu tư
xanh tại Việt Nam
3.1. Nguồn vốn trong nước
- Nguồn vốn đầu tư công: Trong bối cảnh
ngân sách thâm hụt nhưng Chính phủ Việt
Nam vẫn chỉ đạo các bộ, ngành và các địa
phương ưu tiên phân bổ nguồn lực cho
biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh ở
mức ổn định. Theo tính toán của Bộ Kế
hoạch và đầu tư, nhu cầu vốn cho thực
hiện chiến lược tăng trưởng xanh đến năm
2030 dự kiến lên tới 30 tỷ USD, trong đó
30% từ nguồn Ngân sách Nhà nước và
70% từ khu vực doanh nghiệp. Nguồn
ngân sách chủ yếu tập trung vào các
chương trình đầu tư giao thông công cộng
cho các thành phố lớn, dự án hỗ trợ Việt
Nam nâng cao năng lực, thể chế chính
sách giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, hỗ
trợ đầu tư tư nhân, dự án thí điểm. Trong
kế hoạch đầu tư công trung hạn, Thủ
tướng chính phủ đã phê duyệt Chương
trình mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu và
tăng trưởng xanh trong giai đoạn 2016-
2020 tại Quyết định 1670/QĐ-TTg ngày
31/10/2017, dự kiến phân bổ khoảng
15.866 tỷ đồng, trong đó 30% cho tăng
trưởng xanh, do Quỹ Thúc đẩy năng lượng
bền vững (SEPF), Quỹ Bảo vệ môi trường
Việt Nam (VEPF), Quỹ Hỗ trợ chiến lược
tăng trưởng xanh (GGSF) thực hiện.
Các quỹ bảo vệ môi trường có chức năng
hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường dưới
hình thức cho vay vốn với lãi suất ưu
đãi, tài trợ cho các hoạt động bảo vệ môi
trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Riêng VEPF có hỗ trợ lãi suất sau đầu
tư đối với các dự án bảo vệ môi trường
vay vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD)
khác. Tổng kết tại Hội nghị hỗ trợ tài
chính cho các hoạt động bảo vệ môi
trường, ứng phó với biến đổi khí hậu của
VEPF (2019) cho thấy: Tính đến hết năm
2018, Quỹ đã cho vay vốn 294 dự án môi
trường, với tổng số tiền là 2.522 tỷ đồng
tại 54 tỉnh, thành phố trên cả nước. Từ
năm 2016 đến nay, Quỹ đã mở rộng lĩnh
vực ưu tiên cho vay từ 5 lên 8 lĩnh vực ưu
tiên, đồng thời mở rộng phạm vi hỗ trợ
tài chính. Theo đó, lãi suất hỗ trợ cho vay
giảm, chỉ từ 2,6%/năm đến 3,6%/năm.
Ngoài ra, các điều kiện về đảm bảo tiền
vay, thời gian vay, quy trình và các thủ
tục cho vay được điều chỉnh theo hướng
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ tiếp
cận với nguồn vốn ưu đãi. Các quỹ bảo
vệ môi trường địa phương cũng triển khai
hoạt động cho vay với lãi suất ưu đãi, lĩnh
vực hỗ trợ chủ yếu là các dự án, công trình
xử lý ô nhiễm khí thải, nước thải công
nghiệp, thu gom, xử lý chất thải sinh hoạt.
Tuy nhiên cũng tại Hội nghị, Thứ trưởng
Võ Tuấn Nhân đánh giá trong quá trình
hoạt động, VEPF đã bộc lộ một số tồn tại,
vướng mắc về cơ chế huy động vốn, cơ
chế cho vay, hỗ trợ lãi suất Đồng thời,
số lượng các dự án bảo vệ môi trường
được hỗ trợ tài chính của Quỹ còn hạn
chế, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn
do nguồn vốn còn hạn hẹp.
- Nguồn vốn từ các NHTM: Trong kế
hoạch hành động tăng trưởng xanh của
Chính phủ, các TCTD được xem là những
mắt xích quan trọng. Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam (NHNN) đã ban hành hàng loạt
văn bản hướng dẫn các TCTD thực hiện
cung cấp tính dụng xanh như: Chỉ thị số
03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 về thúc đẩy
Nguồn vốn cho đầu tư xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
70 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 215- Tháng 4. 2020
tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi
ro môi trường và xã hội trong hoạt động
cấp tín dụng; Chỉ thị 01/2017/CT-NHNN
ngày 10/01/2017 có nội dung về việc triển
khai kế hoạch hành động của ngành Ngân
hàng thực hiện chiến lược quốc gia về
tăng trưởng xanh đến năm 2020; Quyết
định 1604/QĐ-NHNN ngày 15/8/2018
về việc phê duyệt “Đề án phát triển ngân
hàng xanh tại Việt Nam”. Theo đó, phấn
đấu đến năm 2025, 100% ngân hàng xây
dựng quy định nội bộ về quản lý rủi ro
môi trường và xã hội trong hoạt động cấp
tín dụng; 100% các ngân hàng thực hiện
đánh giá rủi ro môi trường xã hội trong
hoạt động cấp tín dụng; áp dụng các tiêu
chuẩn về môi trường cho các dự án được
ngân hàng cấp vốn vay; kết hợp đánh giá
rủi ro môi trường như một phần trong
đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Ít nhất 10-12 ngân hàng có đơn vị/ bộ
phận chuyên trách về quản lý rủi ro môi
trường và xã hội; 60% ngân hàng tiếp cận
được nguồn vốn xanh và triển khai cho
vay các dự án tín dụng xanh. Về kết quả
thực hiện, theo Vụ Tín dụng các ngành
kinh tế NHNN (2019), thời điểm cuối quý
4/2017 dư nợ tín dụng xanh đạt 180.121
tỷ đồng, cuối quý 4/2018 đạt 240.775 tỷ
đồng (tăng 34% so với cùng kỳ 2017).
Đến cuối quý 2 năm 2019, dư nợ tín dụng
xanh là 310.600 tỷ đồng (tăng 29% so với
thời điểm cuối quý 4 năm 2018); trong đó,
dư nợ trung dài hạn chiếm 76% dư nợ tín
dụng xanh. Các NHTM đã cho vay lĩnh
vực nông nghiệp xanh chiếm 46% tổng dư
nợ; năng lượng tái tạo, năng lượng sạch
chiếm 15%; quản lý nước bền vững tại
khu vực đô thị và nông thôn chiếm 11%
và lâm nghiệp bền vững chiếm 5%. Theo
thống kê của NHNN năm 2019, khoảng
24% dự án xanh được các ngân hàng xây
dựng quy trình thẩm định tín dụng, 17
NNHTM đã xây dựng quy trình thẩm định
rủi ro môi trường xã hội trong các quy
định nội bộ. Như vậy, các NHTM đã ngày
càng chú trọng hơn trách nhiệm xã hội và
bảo vệ môi trường, gia tăng các hoạt động
tài trợ dành cho các dự án xanh, tích cực
xây dựng bộ tiêu chí thẩm định rủi ro môi
trường xã hội trong hoạt động cho vay.
- Nguồn vốn chứng khoán xanh: Từ cuối
năm 2015, thông qua chương trình hợp tác
xây dựng Đề án phát triển thị trường trái
phiếu xanh giữa Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước, Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức
(GIZ) và Sở Giao dịch chứng khoán Hà
Nội, Việt Nam đã bắt đầu triển khai phát
triển trái phiếu xanh. Ngày 20/10/2016,
Bộ Tài chính đã phê duyệt Đề án phát
hành thí điểm trái phiếu xanh của chính
quyền địa phương, theo đó trái phiếu xanh
được triển khai thí điểm tại thành phố Hồ
Chí Minh và Bà Rịa- Vũng Tàu. Nguồn
vốn này được sử dụng cho các dự án quản
lý nguồn nước bền vững, thích ứng với
biến đổi khí hậu, các công trình hạ tầng
bền vững và các dự án xanh. Đầu năm
2017, Việt Nam đã ra mắt chỉ số phát triển
bền vững (VNSI), hướng đến hỗ trợ các
nhà đầu tư lựa chọn chứng khoán có đặc
tính xanh để đầu tư, chứng khoán đáp ứng
các thông lệ tốt nhất về môi trường, xã
hội và quản trị. Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước đang nghiên cứu sản phẩm tài chính
xanh và tập trung xây dựng hướng dẫn để
triển khai tiêu chuẩn về trái phiếu xanh
của ASEAN ở Việt Nam.
Thực tế này cho thấy Chính phủ Việt Nam
đang ưu tiên nguồn vốn đầu tư cho tăng
trưởng xanh. Tuy nhiên, quá trình thực
hiện cũng còn những vấn đề cần tiếp tục
giải quyết, cụ thể:
(i) Hướng dẫn về danh mục các ngành,
lĩnh vực xanh còn chung chung, chưa có
ĐÀO THỊ THANH TÚ - VŨ THỊ ANH THƯ
71Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
các tiêu chí cụ thể, các tiêu chuẩn đánh
giá, công cụ đo lường tác động đến môi
trường để các NHTM có căn cứ lựa chọn,
thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực
hiện cấp tín dụng xanh. Ngoài ra, để thu
hút các doanh nghiệp thực hiện các dự án
đầu tư xanh thì rất cần chính phủ và hệ
thống ngân hàng có những chính sách ưu
đãi hơn nữa về lãi suất, thuế, phí để các dự
án xanh tiết kiệm chi phí và hoạt động tài
chính hiệu quả.
(ii) Dư nợ tín dụng xanh còn rất khiêm tốn
trong tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng.
Dựa trên số liệu thống kê về dư nợ của hệ
thống ngân hàng công bố trên website của
NHNN, tác giả tính toán được dư nợ tín
dụng xanh cuối quý 4 năm 2018 chỉ chiếm
khoảng 3,34% tổng dư nợ toàn hệ thống
Ngân hàng. Nguồn vốn tín dụng xanh tại
các ngân hàng chủ yếu là ngắn, trung hạn
trong khi đầu tư cho dự án xanh lại đòi hỏi
dài hạn, thời gian hoàn vốn lâu, chi phí
đầu tư lớn, rủi ro cao. Các vấn đề phức tạp
về kỹ thuật thẩm định cũng là trở ngại lớn
để các NHTM mở rộng tín dụng xanh.
(iii) Nguồn vốn trái phiếu xanh của Chính
phủ và chính quyền địa phương còn đang
ở giai đoạn thử nghiệm. Trong thời gian
qua, tuy đã có một số đợt phát hành trái
phiếu xanh ở cấp chính quyền địa phương,
nhưng chỉ là giai đoạn thí điểm.
3.2. Nguồn công cộng nước ngoài
Chính phủ Việt Nam đã chủ động tiếp cận
các nguồn vốn ưu đãi từ các tổ chức quốc
tế đã, đang và dự kiến sẽ tài trợ cho các
dự án, chương trình thuộc lĩnh vực tăng
trưởng xanh và chống biến đổi khí hậu
như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB), Tập đoàn Tài
chính Quốc tế (IFC)
Thực tế nguồn vốn công cộng nước ngoài
được huy động dưới hình thức nguồn hỗ
trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn các
tổ chức quốc tế tài trợ cho các quỹ. Thủ
tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương
trình mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu
và tăng trưởng xanh trong giai đoạn 2016-
2020 tại Quyết định 1670/QĐ-TTg ngày
31/10/2017, trong đó vốn ODA thực hiện
theo cơ chế tài chính trong nước là 15.000
tỷ đồng và các nguồn vốn khác. Theo báo
cáo của Chính phủ (2018), nguồn vốn
ODA và vay ưu đãi đã huy động được cho
Chương trình này trong giai đoạn 2016-
2020 mới đạt khoảng 8.600 tỷ đồng và
đã phân bổ cho các địa phương thực hiện
các dự án chuyển tiếp là 4.478,21 tỷ đồng
(khoảng 30% tổng mức vốn của Chương
trình). Đối với dự án khởi công mới, số vốn
dự kiến phân bổ cho 75 dự án khởi công
mới là 10.521,797 tỷ đồng.
Ngoài ra, Việt Nam còn tham gia thỏa
thuận Paris về chống biến đổi khí hậu,
đây là cơ hội cho Việt Nam tiếp cận một
số nguồn vốn xanh quốc tế. Theo Bộ Kế
hoạch và Đầu tư (2018), Việt Nam là một
trong số 10 quốc gia Châu Á tiếp cận
thành công nguồn tài trợ của Quỹ khí hậu
xanh (GCF), nhận viện trợ không hoàn lại
từ GCF với tổng trị giá 116,1 triệu USD,
đã được phê duyệt và cung cấp viện trợ
không hoàn lại cho 03 dự án với tổng trị
giá 116,1 triệu USD.
Từ nay đến năm 2030, theo Cục Biến đổi
khí hậu Việt Nam, Quỹ đối tác đóng góp
quốc gia tự quyết định (NDC) là trọng tâm
của các hoạt động thực hiện thỏa thuận
Paris tại Việt Nam. Đối tác NDC được Bộ
Kinh tế và Phát triển và Bộ Môi trường,
Xây dựng, Bảo tồn thiên nhiên và An toàn
hạt nhân của Đức đồng sáng lập cùng
với Viện Tài nguyên Thế giới (World
Nguồn vốn cho đầu tư xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
72 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 215- Tháng 4. 2020
Resource Institute-WRI). Xây dựng kế
hoạch đối tác NDC sẽ giúp các quốc gia
thành viên của NDC tăng cường khả năng
tiếp cận với các chương trình hỗ trợ NDC
hiện có trên thế giới, qua đó các quốc gia
có thể huy động nguồn lực để thực hiện
các thỏa thuận Paris, hoàn thiện các chính
sách về biến đổi khí hậu.
Như vậy, huy động nguồn vốn ODA và từ
các quỹ quốc tế để thực hiện Chương trình
mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu và tăng
trưởng xanh cần phải được đẩy mạnh. Tuy
nhiên, để tận dụng các nguồn vốn này, Việt
Nam phải đảm bảo các quy định về môi
trường và xã hội rất chặt chẽ. Đây là một
thách thức không hề nhỏ đối với Việt Nam.
3.3. Nguồn vốn tư nhân trong và ngoài
nước
Chính phủ Việt Nam xác định nhu cầu vốn
tư nhân cho đầu tư xanh là rất lớn, trong đó
có cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn
tư nhân ngoài nước. Đặc biệt, hình thức
đầu tư công- tư kết hợp (PPP) đang được
khuyến khích để phát huy hiệu quả sử dụng
vốn Nhà nước và tư nhân cùng lúc.
Adelante & Hanh Le (2015) đã có bản
đánh giá về chi tiêu và đầu tư tư nhân về
khí hậu (PCEIR) tại Việt Nam năm 2015.
Đối với năng lượng tái tạo, PCEIR chỉ ra
rằng các khu vực tư nhân, trong giai đoạn
2011- 2015, đã dành khoảng 9,75 tỷ USD
cho các dự án chủ yếu trong thủy điện và
sự hấp thu ban đầu của năng lượng gió,
máy nước nóng năng lượng mặt trời và
sinh khối. PCEIR khẳng định rằng nhu
cầu đầu tư của tư nhân trong lĩnh vực
năng lượng tái tạo tại Việt Nam được dự
báo sẽ tăng đáng kể, khoảng 4,0 đến 4,8
tỷ USD vào năm 2020. Đối với hiệu suất
năng lượng, ước tính đầu tư của khu vực
tư nhân chiếm khoảng 630 triệu USD
trong giai đoạn 2011- 2015. Những con số
này là tương đối thấp, chủ yếu là do thiếu
sự hấp dẫn về giá năng lượng. PCEIR dự
đoán rằng các khoản đầu tư vào hiệu suất
năng lượng sẽ tăng trưởng đáng kể trong
những năm tới khi chính phủ tiếp tục
ban hành các chính sách ủng hộ cải cách
ngành năng lượng (ví dụ, giá năng lượng
nên được điều chỉnh để phản ánh giá thị
trường thực tế).
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, luỹ kế đến tháng 3/2018, tổng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào
Việt Nam là khoảng 319 tỷ USD, trong
đó tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công
nghệ chế biến chế tạo với 185,9 tỷ USD,
chiếm khoảng 58% tổng vốn FDI. Trong
số 110 dự án FDI sản xuất điện, khí đốt,
Việt Nam đã thu hút được 16 dự án FDI
trong lĩnh vực năng lượng xanh với tổng
số vốn đầu tư đăng ký là 778 triệu USD,
chiếm 14,5% về số dự án và 6% tổng số
vốn đăng ký trong ngành điện và khí đốt.
Như vậy, tỷ trọng vốn FDI cho lĩnh vực
năng lượng xanh vẫn còn hạn chế. Mặc dù
Việt Nam đã ban hành nhiều cơ chế chính
sách khuyến khích phát triển năng lượng
tái tạo, như ưu đãi về tín dụng đầu tư, thuế
nhập khẩu, thuế xuất khẩu, thuế thu nhập
doanh nghiệp, miễn giảm tiền sử dụng đất,
tiền thuê đất cho các dự án năng lượng
tái tạo... nhưng các nhà đầu tư vẫn chưa
mặn mà là do vẫn còn những bất cập trong
chính sách, liên quan đến hệ thống văn
bản pháp quy tạo môi trường kinh doanh
bình đẳng, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
đầu tư thông qua cơ chế một cửa, đảm bảo
các thủ tục liên ngành đồng bộ, thuận lợi.
4. Một số khuyến nghị
Dựa trên kinh nghiệm quốc tế về nguồn
ĐÀO THỊ THANH TÚ - VŨ THỊ ANH THƯ
73Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
vốn cho đầu tư xanh và những tồn tại ở
Việt Nam, bài viết đưa ra một số khuyến
nghị về ban hành cơ chế chính sách; quản
lý giám sát và thực thi, cụ thể:
○ Về ban hành cơ chế chính sách: Chính
phủ và các bộ ngành nên xem xét, triển
khai các nội dung sau:
- NHNN cần thiết lập một chính sách tín
dụng xanh có hướng dẫn rõ ràng các tiêu
chuẩn cho vay để hỗ trợ các NHTM tham
chiếu trước, trong và sau khi giải ngân.
Chính sách này dựa trên các tiêu chuẩn
hoạt động xã hội và môi trường của các
tổ chức quốc tế như WB, IFC, Liên hợp
quốc giúp các NHTM hiểu rõ các yêu
cầu về bảo vệ môi trường trong từng
ngành. Bên cạnh đó, NHNN cần ban hành
quy định khuyến khích các NHTM thực
hiện tốt hoạt động tín dụng xanh và có quy
định biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với
các NHTM vi phạm trong cho vay sai quy
định. NHNN cho phép trái phiếu xanh là
một tài sản bảo đảm để các doanh nghiệp
được vay lãi suất thấp từ các NHTM.
- Bộ Tài chính (BTC) cần tiếp tục dùng
chính sách thuế để ưu đãi cho các doanh
nghiệp hoạt động vì môi trường và xã hội.
Ngoài ra, BTC cần ban hành quy định đầy
đủ và chi tiết về phát hành trái phiếu chính
phủ và trái phiếu chính quyền địa phương
xanh, để góp phần phát triển kênh huy
động vốn qua thị trường trái phiếu xanh.
Ngoài ra, BTC cần có cơ chế khuyến
khích thành lập các quỹ đầu tư xanh, để bổ
sung thêm chứng chỉ quỹ đầu tư xanh làm
đa dạng bộ sản phẩm tài chính xanh của
Việt Nam. Xa hơn là kế hoạch triển khai
hợp đồng tương lai dựa trên các chỉ số
xanh, chứng khoán xanh.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần có hướng
dẫn đầy đủ và thống nhất với các bộ,
ngành khác về chính sách ưu đãi đầu tư để
doanh nghiệp đổi mới công nghệ xanh, tạo
nên thế mạnh cạnh tranh trên thị trường,
đồng thời bảo vệ môi trường. Đối với các
doanh nghiệp FDI cần quy định chặt chẽ
về tiêu chuẩn xanh trong đầu tư.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng cần
xây dựng kế hoạch thích ứng với biến đổi
khí hậu và chính sách để ứng phó hiệu quả
với rủi ro ngày càng tăng do biến đổi khí
hậu. Các kịch bản biến đổi khí hậu cũng
như các rủi ro và mối đe dọa nên được triển
khai cho tất cả các khu vực và tỉnh thành để
cùng xác định và hành động, nhằm chống
lại các đe dọa do biến đổi khí hậu. Quá
trình này nên được thể chế hóa để đảm bảo
rằng khả năng phục hồi luôn được đảm bảo,
tương ứng với nhiều kịch bản biến đổi khí
hậu khác nhau có thể xảy ra.
○ Về quản lý giám sát: Các bộ ngành cần
phối hợp để giám sát thực hiện đồng bộ
các giải pháp và tăng hiệu quả quản lý đối
với các NHTM và các doanh nghiệp thực
hiện dự án đầu tư xanh. Theo kinh nghiệm
của Indonesia, Việt Nam cần yêu cầu các
cơ quan liên quan cung cấp đầy đủ thông
tin về các nguồn vốn xanh, đặc biệt nguồn
từ ngân sách và quốc tế. Các trường hợp
vi phạm trong sử dụng nguồn vốn cho đầu
tư xanh cần phải xử lý nghiêm minh, đồng
thời tuyên truyền cho các đối tượng sử
dụng nguồn vốn quốc tế về tuân thủ quy
định sử dụng vốn tài trợ. Từ đó, Việt Nam
có thể thu hút thêm các nguồn vốn nước
ngoài, cả công và tư để bổ sung cho nguồn
vốn trong nước đang còn hạn chế.
○ Về thực thi:
- BTC cần tiếp tục ưu tiên ngân sách cho
đầu tư xanh và chủ động hợp tác với các
Nguồn vốn cho đầu tư xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
74 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 215- Tháng 4. 2020
nhà đầu tư tư nhân trong lĩnh vực này.
Hình thức hợp tác công tư phải dựa trên
mục tiêu các bên cùng có lợi và sau thời
gian thực hiện cần có đánh giá đầy đủ về
hiệu quả hợp tác. Ngoài ra Bộ nên chú
trọng đào tạo, nâng cao nhận thức về đầu
tư có trách nhiệm với môi trường và xã
hội cho tất cả các doanh nghiệp niêm yết
và các công ty chứng khoán hiện có trên
thị trường.
- Các NHTM nên xây dựng và đa dạng
hóa sản phẩm dịch vụ cho phù hợp với
từng đối tượng đầu tư xanh. Ngoài ra, quy
trình thẩm định, giám sát, đánh giá hiệu
quả đầu tư xanh tại các ngân hàng cũng
cần được hoàn thiện để đảm bảo các dự
án mang lại hiệu quả kinh tế dựa trên mô
hình sản xuất và tiêu thụ bền vững, thân
thiện với môi trường. Các ngân hàng cũng
cần chủ động xây dựng kế hoạch và lộ
trình tiếp cận các nguồn vốn xanh quốc tế.
- Các quỹ bảo vệ môi trường cần nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn để giảm áp lực lên
Ngân sách Nhà nước ■
Tài liệu tham khảo
1. Adelante & Hanh Le (UNDP), 2015, Climate public expenditure and institutional review, The Report of United
Nations Development Programme 2015.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Ngân sách cho ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam: Đầu tư thông minh vì
tương lai bền vững, Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2015.
3. G20 (2017), G20 Green Finance Synthesis Report.
4. Inderst et al. (2012), Defining and Measuring Green Investments: Implications for Institutional Investors Asset
Allocations, OECD Working Papers on Finance, Insurance and Private Pensions, No.24, OECD Publishing.
5. Islam et al. (2014), Green financing in Bangladesh: Challenges and opportunities – a descriptive approach. Int. J.
Green Economics, Vol. 8. No. 1, 2014.
6. L. Eyraud et al. (2013), Trends and Determinants of Green Investment, Energy Policy, Volume 60, September 2013,
852-865.
7. MOF (2019), Phát triển trái phiếu xanh, Bộ Tài Chính (Ministry of Finance, MOF). Tham khảo tại website https://
www.mof.gov.vn/webcenter/portal/tttc/r/o/nctd/nctd_chitiet?dDocName=MOFUCM149098&dID=155494&_afrLoop=
53624838935031866#!%40%40%3FdID%3D155494%26_afrLoop%3D53624838935031866%26dDocName%3DMO
FUCM149098%26_adf.ctrl-state%3Db3xvcsbt6_4
8. MPI (2018), Tăng cường mối quan hệ hợp tác song phương giữa Việt Nam và Úc về tăng trưởng xanh và biến đổi
khí hậu. Tham khảo tại website
9. Peiyuan Guo (2014), Financial policy innovation for social change: a case study of China’s green credit policy,
International Review of Sociology: Revue Inernationale Sociologie, 24:1, 69-76, DOi: 10.1080/03906701.2014.894347
10. Soejachmoen (2017), Financing the green transformation: How to make green finance work in Indonesia, Bulletin
of Indonesian Economic, 53:2, 222-224.
11. SBV (2019), Tín dụng ngân hàng với mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh, tham khảo tại website https://sbv.
gov.vn/webcenter/portal/m/menu/trangchu/ttsk/ttsk_chitiet?leftWidth=0%25&showFooter=false&showHeader=fal
se&dDocName=SBV401058&rightWidth=0%25¢erWidth=100%25&_afrLoop=32753595973925095#%40%
3F_afrLoop%3D32753595973925095%26centerWidth%3D100%2525%26dDocName%3DSBV401058%26leftW
idth%3D0%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-
state%3Dbzn09a8mm_58
12. U. Volz (2015), Towards a Sustainable Financial System in Indonesia, United Nations Environment Programme
(UNEP), UNEP Reporter: 2014/2015, Available at
Sustainable_Financial_System_in_Indonesia.pdf
13. Văn phòng chính phủ (2018), Trả lời chất vấn đại biểu quốc hội Trần Văn Minh, tham khảo tại website
chinhphu.vn/Home/Tra-loi-chat-van-Dai-bieu-Quoc-hoi-Tran-Van-Minh-Quang-Ninh/20189/24773.vgp.
14. VEPF (2019), Hội nghị hỗ trợ tài chính năm 2019 cho các hoạt động bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí
hậu. Tham khảo tại website https://www.vepf.vn/tin-tuc/tin-tuc-hoat-dong-cua-quy/tai-lieu-hoi-nghi-ho-tro-tai-chinh-
nam-2019-cho-cac-hoat-dong-bao-ve-moi-truong-ung-pho-bien-doi-khi-hau-833.html
15. World Economic Forum (2011), Green Investing 2011, Reducing the Cost of Financing.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguon_von_cho_dau_tu_xanh_kinh_nghiem_quoc_te_va_khuyen_nghi.pdf