Bên cạnh đó, sự tác động của số con hiện có
và tiền sử phá thai cũng là yếu tố dẫn đến sự
thất bại của phương pháp tránh thai bằng thuốc
vỉ ngừa thai uống này. Đây cũng là nhận xét của
tác giả Wang và cộng sự (2004)(10,12): vì do số con
đông khiến cho người phụ nữ phải lo lắng
nhiều, mất nhiều thời gian cho con, dễ quên sử
dụng thuốc viên tránh thai hàng ngày. Tương
tự, nhóm phụ nữ bỏ thai nhiều lần cũng là nhóm
phụ nữ không hoặc chưa muốn sinh thêm và
hiểu biết chưa tốt về các biện pháp tránh thai
cũng như thực hành không đúng phương pháp
nên dễ thất bại. Phần lớn họ cho rằng việc điều
hòa kinh nguyệt hay uống thuốc phá thai nội
khoa cũng là một biện pháp tránh thai hữu hiệu,
cho nên không cần quan tâm đến việc tuân thủ
sử dụng thuốc tránh thai theo đúng hướng dẫn,
từ đó làm tăng nguy cơ thai ngoài ý muốn. Kết
quả chúng tôi tìm thấy được, ở nhóm phụ nữ có
tiền sử bỏ thai nhiều lần, họ có nguy cơ có thai
ngoài ý muốn do thất bại sử dụng thuốc viên
ngừa thai cao gấp 4,4 lần (ORa=4,4, [KTC 95%
1,34-14,18], p = 0,014) cao hơn những phụ nữ
không thuộc nhóm này, và đây là yếu tố nguy
cơ có ý nghĩa thống kê.
Tóm lại, để hạn chế sự thất bại khi sử dụng
viên thuốc tránh thai uống, đặc biệt là ở những
huyện vùng xa, việc hướng dẫn tường tận cách
sử dụng thuốc viên uống là điều quan trọng
nhất. Chính vì thế, công tác tư vấn tại các đơn vị
y tế càng không thể thiếu được. Nên chăng thiết
lập thêm một đường dây nóng tại các trung tâm
y tế huyện hoặc các trạm y tế xã để giải đáp
ngay những thắc mắc của khách hàng liên quan
đến việc sử dụng thuốc viên tránh thai uống nói
riêng và các dịch vụ ngừa thai khác nói chung.
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 577 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên nhân thất bại của sử dụng thuốc tránh thai ở phụ nữ tại bệnh viện đa khoa khu vực Hậu Nghĩa, Long An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 153
NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI CỦA SỬ DỤNG THUỐC TRÁNH THAI
Ở PHỤ NỮ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA KHU VỰC HẬU NGHĨA, LONG AN
Phạm Thị Lánh*, Nguyễn Duy Tài**
TÓM TẮT
Mục đích: Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu nguyên nhân thất bại của việc sử dụng viên thuốc tránh thai tại
bệnh viện đa khoa khu vực Hậu Nghĩa, Long An.
Phương pháp: Nghiên cứu bệnh chứng được thực hiện từ 04/2009-07/2010 trên các phụ nữ đến khám tại
phòng khám phụ khoa và kế hoạch hóa gia đình của bệnh viện. Nhóm bệnh gồm 61 phụ nữ đang dùng thuốc viên
tránh thai bị có thai dưới 3 tháng và nhóm chứng gồm 61 phụ nữ đang dùng thuốc viên tránh thai, không có
thai. Các yếu tố nguy cơ như tuổi, tiền sử sản phụ khoa, trình độ học vấn, mối quan hệ hôn nhân, cách thức sử
dụng thuốc tránh thai được bắt cặp để so sánh nguy cơ giữa 2 nhóm bệnh và nhóm chứng để tìm ra được yếu tố
nguy cơ dẫn đến thất bại khi sử dụng thuốc viên tránh thai uống.
Kết quả: Những phụ nữ mang thai nhiều lần và/hoặc phá thai nhiều lần, không sống chung với chồng, sử
dụng thuốc viên tránh thai không đúng cách là nguyên nhân dẫn tới thất bại của phương pháp tránh thai này
(OR lần lượt 4,4; 2,0; 10,6). Trong các yếu tố nguy cơ này, việc dùng thuốc ngừa thai không đúng cách có liên
quan mật thiết nhất đối thai ngoài ý muốn với OR=10,2, KTC95% 2,8-40,6) và liên quan này thật sự có ý nghĩa
thống kê.
Kết luận: Rất cần có một chương trình tư vấn thường xuyên và liên tục về cách sử dụng viên thuốc tránh
thai uống cho các phụ nữ lựa chọn biện pháp này để tránh thai.
Từ khóa: thuốc tránh thai, nguyên nhân thất bại.
ASBTRACT
THE FAILED CAUSES OF USING CONTRACEPTIVE PILL IN WOMEN IN THE HAU NGHIA
HOSPITAL, IN LONG AN PROVINCE
Pham Thi Lanh, Nguyen Duy Tai
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 153 - 157
Aims: This study was carried out to looking for the failed causes of using contraceptive pill in the Hau
Nghia hospital.
Methods: A case-study was used for all women who came to the family room from 04/2009-07/2010. 61
women who were using a contraceptil pill had been pregnant (3 months) in the case group and 61 women who
were using a pill had not been pregnant. The risk factors that included the women’s age, the obstetrical history,
the educational level, the marriage relation and the habit of contraceptive using were matched for comparing the
risks in two groups in order to find out the failed causes.
Results: The factors that were a low education, a complex obstetrical history, separation of their partners,
wrong using contraceptive pill showed the principle causes of unintended pregnancy (OR 4.4, 2.0, 10.6,
respectively). The wrong using of contraceptive pill was found a significantly relation with unintended
pregnancy (OR=10.6, 95%CI 2.8-40.6, p < 0.05).
*Bệnh viện Đa khoa khu vực Hậu Nghĩa, Long An, ** Bộ môn Sản, Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: GS.TS Nguyễn Duy Tài ĐT: 0903856439 Email: dr.nguyenduytai@yds.edu.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 154
Conclusion: It’s necessary to buil a consultal program for training the using of oral pills to all the women
who chose this contraceptive method.
Key words: failed causes, contraceptive pill.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một trong nước có tỷ lệ nạo phá
thai cao nhất thế giới. Số bỏ thai hàng năm
chiếm gần 50% số trường hợp sanh sống(1,2).
Theo thống kê tại bệnh viện đa khoa khu vực
Hậu Nghĩa, thất bại do thuốc viên tránh thai
trong năm 2006: 18,5%, năm 2007: 23,4%, năm
2008: 26,2%. Tỷ lệ này tăng lên ở mỗi năm, cao
hơn tỷ lệ cho phép của Bộ Y tế (1-8%)(1,2). Trước
nhu cầu cần có những chứng cứ chính xác, cụ
thể về những nguyên nhân thất bại khi sử dụng
thuốc viên tránh thai của phụ nữ tai huyện Đức
Hòa nói chung và phụ nữ thực hiện dịch vụ kế
hoạch tại bệnh viện Đa khoa Hậu Nghĩa nói
riêng, là một việc làm rất thiết thực. Từ đó có
những định hướng trong việc lập kế hoạch,
giám sát chương trình kế hoạch hóa gia đình và
tư vấn truyền thông cho các phụ nữ dự định
dùng và đang dùng thuốc viên tránh thai để hạn
chế có thai ngoài ý muốn. Câu hỏi nghiên cứu
của chúng tôi là nguyên nhân nào dẫn đến việc
thất bại trong cách sử dụng thuốc viên tránh thai
của các phụ nữ được tư vấn tai bệnh viện đa
khoa khu vực Hậu Nghĩa, Long An?
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Những phụ nữ đang dùng thuốc viên
tránh thai đến khám tại phòng khám phụ khoa
và KHHGĐ của Bệnh viện đa khoa khu vực
Hậu Nghĩa từ tháng 04 năm 2009 đến tháng 07
năm 2010.
Nhóm bệnh
Những phụ nữ đang dùng thuốc viên tránh
thai, có thai < 3 tháng đến tự nguyện xin bỏ thai
tại Khoa KHHGĐ, Bệnh viện đa khoa khu vực
Hậu Nghĩa từ tháng 04/2009 – 07/2010.
Nhóm chứng
Những phụ nữ đang dùng thuốc viên tránh
thai, không có thai đến khám phụ khoa tại phòng
khám phụ khoa, Bệnh viện đa khoa khu vực
Hậu Nghĩa từ tháng 04/2009 – 07/2010.
Cỡ mẫu
Giả thuyết nghiên cứu: những phụ nữ đến
khám tại Bệnh viện đa khoa khu vực Hậu Nghĩa
- Long An, không có thói quen sử dụng đúng
TVTT sẽ làm tăng nguy cơ TNYM gấp 3 lần (OR
= 3) khi đang sử dụng TVTT.
Dựa vào công thức:
}{
2
21
2
2211)1(22)2/1(
)(
)]1()1([)]1(2[
PP
PPPPZPPZ
n
−
−+−+−
=
−− βα
Với: α= 0,05 (KTC 95%); Z(1-α/2) = 1,96; β= 0,2 → Z(1-β)
= 0,84; Lực của mẫu: 1- β = 80%; P1 = OR.P2/OR.P2 + (1-
P2); P1: tỷ lệ phụ nữ có các nguyên nhân làm tăng tình
trạng TNYM khi đang sử dụng TVTT ở nhóm bệnh (có
thai); P2: tỷ lệ phụ nữ có các nguyên nhân làm tăng tình
trạng TNYM khi đang sử dụng TVTT ở nhóm chứng
(không có thai).
Theo nghiên cứu trước của Lê Trung: nhóm
không có thai (đang sử dụng TVTT), thực hành
không đúng theo hướng dẫn sử dụng: 33,33%
(yếu tố phơi nhiễm). Dựa theo số liệu này để
tính cỡ mẫu:
Vậy: P2 = 0,33 ; OR = 3 → P1 = 0,60
Tính ra cỡ mẫu n = 61. Như vậy hai nhóm cỡ
mẫu là 122 (Chọn theo tỉ số 1: 1).
Tiêu chuẩn nhận bệnh
Tiêu chí chung
- Phụ nữ đang dùng TVTT ≥ 3 tháng, nhằm
mục đích tránh thai.
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Nhóm bệnh
- Hiện đang có thai ngoài ý muốn.
Nhóm chứng
- Hiện không có thai.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Những phụ nữ đến bỏ thai hoặc khám phụ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 155
khoa mà hiện tại không áp dụng TVTT.
- Những phụ nữ sử dụng TVTT không
nhằm mục đích để tránh thai.
- Những phụ nữ có sử dụng BPTT này
nhưng dưới 3 tháng.
- Những phụ nữ không đồng ý tham gia vào
nghiên cứu.
Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu tiếp liền nhau đến khi đủ số mẫu.
Cách tiến hành nghiên cứu:
+ Soạn bảng câu hỏi phỏng vấn và hỏi trước
10 người để chỉnh sửa. Sau khi bảng câu hỏi
hoàn thành, tập huấn cho 20 NHS ở 20 trạm y tế
trong 2 giờ.
+ 20 NHS trạm y tế (đã được tập huấn) đến
nhà phỏng vấn theo bảng câu hỏi, trung bình
mỗi ngày 1 NHS phỏng vấn 1 người.
Xử lý số liệu:
Dùng phần mềm Epi data để nhập, quản lý
và phân tích số liệu bằng phần mềm Stata 10.
- Các số liệu thống kê mô tả được tính theo
tỷ lệ phần trăm (dùng phép kiểm Chi Square).
Sử dụng biểu đồ cột, đĩa, bảng để mô tả các
biến số.
- Phân tích đơn biến: tỉ số số chênh (OR) và
khoảng tin cậy (KTC) 95%.
- Phân tích tìm mối liên quan các biến (có p <
0,05) với thai ngoài ý muốn bằng Logistic
regresson.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Năm 2009, tại Bệnh viện Đa khoa Hậu
Nghĩa, tổng số nạo phá thai: 601 (48,78% tổng số
sinh). Trong đó TNYM do thất bại trong việc sử
dụng TVTT là 31,30%.
Từ tháng 4/2009 đến tháng 7/2010, qua 122
trường hợp đang sử dụng thuốc viên tránh thai,
trong đó 61 trường hợp có thai (nhóm bệnh) và
61 trường hợp không có thai (nhóm chứng),
chúng tôi thu được các kết quả như sau:
+ 49,2% phụ nữ trong nhóm tuổi từ 30-39
tuổi, 82% là công nhân và nông dân, không có
người nào mù chữ. 86% không theo tôn giáo nào
và tập trung sinh sống chủ yếu ở xã, và không
thuộc hộ nghèo (96%) (Bảng 1).
Bảng 1:. Phân bố tần số và tỷ lệ theo đặc điểm nhân
khẩu của 2 nhóm nghiên cứu
Nhóm bệnh
(n = 61)
Nhóm chứng
(n = 61) Đặc điểm
n % n %
Giá trị
p*
Tuổi
- < 20
- 20-29
- 30-39
- ≥ 40
1
29
27
4
(1,64)
(47,54)
(44,26)
(6,56)
1
14
33
13
(1,64)
(22,95)
(54,10)
(21,31)
0,014
Nơi cư ngụ
- Thị trấn
- Xã
12
49
(19,67)
(80,3)
16
45
(26,27)
(73,77)
0,389
Nghề nghiệp
- Công nhân
- Nông dân
- Công nhân viên
- Khác
25
28
7
1
(40,98)
(45,90)
(11,48)
(1,64)
24
23
13
1
(39,34)
(37,70)
(21,31)
(1,64)
0,510
Tôn giáo
- Không
- Có
56
5
(91,80)
(8,20)
49
12
(80,33)
(19,67)
0,067
Văn hóa
- Mù chữ:
- Cấp 1
- Cấp 2
- ≥ Cấp 3
0
27
21
13
(44,26)
(34,43)
(21,31)
0
7
22
32
(11,48)
(36,07)
(52,45)
0,001
Kinh tế
- Nghèo
- Không nghèo
6
55
(9,84)
(90,16)
1
60
(1,64)
(98,36)
0,052
Những phụ nữ mang thai nhiều lần (≥ 3lần)
và nạo phá thai nhiều lần (≥ 2 lần), có thời gian
dùng thuốc viên tránh thai ngắn (< 12 tháng)
thường bị có thai ngoài ý muốn hơn những phụ
nữ khác. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p
< 0,05) (Bảng 2).
Bảng 2: Tiền sử sản khoa và phụ khoa của phụ nữ ở
2 nhóm nghiên cứu
Nhóm bệnh
(n = 61)
Nhóm chứng
(n = 61) Đặc điểm
n % n %
Giá trị
p
Số lần mang thai
0 lần
1 lần
2 lần
≥ 3 lần
7
4
27
33
(11,48)
(6,56)
(27,87)
(54,10)
5
15
26
15
(8,20)
(24,59)
(42,62)
(24,59)
0,002
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 156
Nhóm bệnh
(n = 61)
Nhóm chứng
(n = 61) Đặc điểm
n % n %
Giá trị
p
Số con hiện có
0 con
1 con
2 con
≥ 3 con
8
19
19
15
(13,11)
(31,15)
(31,15)
(24,59)
5
22
27
7
(8,20)
(36,06)
(44,26)
(11,48)
0,157
Số lần phá thai
0 lần
1 lần
≥ 2 lần
15
26
20
(24,58)
(42,62)
(32,80)
46
10
5
(75,41)
(16,39)
(8,10)
0,001
Các yếu tố làm tăng nguy cơ thai ngoài ý
muốn
Bảng 3 cho thấy các yếu tố về tuổi (20-29),
trình độ văn hóa ở cấp 1, không có chồng, hoặc
chung sống với chồng không liên tục có nguy
cơ thai ngoài ý muốn từ 3,0-6,1 lần so với các
phụ nữ khác trong nghiên cứu của chúng tôi
(p < 0,05).
Bảng 3: Đặc điểm dịch tễ học với nguy cơ thai ngoài
ý muốn
Đặc điểm
Nhóm
bệnh
(61)
Nhóm
chứng
(61)
OR KTC 95% Giá trị p
Tuổi
<20
20- 29
30-39
≥ 40
1
30
27
4
1
15
33
13
1
2,96
0,67
0,25
0,06-15,98
1,30-7,20
0,31-2,46
0,05-0,92
0,005
0,014
Văn hóa
Cấp 1
Cấp 2
≥ Cấp 3
27
21
13
7
22
32
6,12
0,93
0,24
2,25-18,28
0,41-2,03
0,10-0,57
0,001
0,001
Hôn nhân
Không chồng
Có chồng
12
49
44
17
4,73
0,21
1,17-27,23
0,36-0,85
0,013
0,013
Thời gian chung
sống với chồng
Không liên tục
Liên tục
17
44
7
54
2,98
0,33
1,04-9,22
0,10-0,95
0,023
0,023
Khi đưa các yếu tố nguy cơ này vào phân
tích hồi quy đa biến, chúng tôi nhận thấy những
phụ nữ bỏ thai nhiều lần và không sống chung
thường xuyên với chồng lại dễ bị thất bại vơi
thuốc tránh thai hơn (OR lần lượt 4,4 và 2,0).
Tương tự, chúng tôi nhận thấy phụ nữ càng lớn
tuổi, càng có trình độ học vấn cao thì càng ít
nguy cơ thất bại với thuốc viên tránh thai uống
(p < 0,05) (Bảng 4).
Bảng 4: Đánh giá các yếu tố nguy cơ của thất bại
dùng thuốc viên tránh thai theo phương trình hồi quy
đa biến
TNYM OR Hệ số KTC 95% Giá trị p
Trình độ văn hóa 0,33 2,50 0,14-0,79 0,012
Hôn nhân 2,04 0,75 0,31-13,34 0,450
Số lần mang thai 1,37 0,66 0,53-3,51 0,509
Số lần phá thai 4,36 2,45 1,34-14,18 0,014
Thời gian sử dụng 0,59 1,15 0,24-1,43 0,250
Tuổi 0,20 3,19 0,07-0,53 0,001
Thói quen sử dụng 10,62 3,45 2,77-40,61 0,001
BÀN LUẬN
Thuốc viên tránh thai là biện pháp tránh thai
hiệu quả nhất, tuy nhiên, cần sự hiểu biết đầy
đủ và thói quen dùng thuốc đúng, đều đặn thì
mới phát huy được tối đa hiệu quả của nó.
Nguyên nhân đưa đến sự thất bại của việc
sử dụng thuốc viên tránh thai ở phụ nữ đến
khám tại BVĐK Hậu Nghĩa – Long An là do thói
quen sử dụng thuốc chưa đúng (ORa: 10,62,
KTC 95% 2,77 - 40,61, p = 0,001). Những yếu tố
cần lưu ý như thời điểm bắt đầu uống thuốc cho
vỉ ngừa thai kế tiếp, hoặc thường quên thuốc và
không biết cách uống bù, cũng như ngưng thuốc
đột ngột khi có tác dụng phụ là những yếu tố
gây ra sự thất bại trong quá trình sử dụng thuốc
viên ngừa thai uống. Kết quả nghiên cứu này
của chúng tôi đồng thuận với nghiên cứu của
các tác giả Wang, Rasch, Vũ Tuyết Ánh Sao(10,
9,10,12) với 30-87,4% nguyên nhân thất bại của
thuốc viên tránh thai là do quên thuốc
Thói quen sử dụng thuốc không đúng cũng
chính là hệ lụy do sự tác động bởi trình độ học
vấn của người phụ nữ. Mặc dù, nghiên cứu của
tác giả Lê Trung và cs cho rằng trình độ học vấn
không là yếu tố liên quan đưa đến sự thất bại
khi sử dụng viên thuốc tránh thai(6), nhưng thực
tế mà nói, những phụ nữ có trình độ học vấn cao
sẽ tuân thủ đúng hơn chế độ uống thuốc để đạt
được hiệu quả tránh thai cao nhất. Song song
đó, sẽ tự giác thiết lập được thói quen uống
thuốc đúng và nếu có quên thì biết cách xử lý
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 157
ngay. Nhờ thế, nên khó xảy ra thai ngoài ý
muốn ở nhóm đối tượng này. Nghiên cứu của
chúng tôi đã chứng minh được điều đó: đối với
những phụ nữ có trình độ học vấn từ cấp 3 trở
lên, nguy cơ thất bại thuốc tránh thai ở nhóm
bệnh thấp hơn ở nhóm chứng (OR=0,24, [KTC
95% 0,10-0,57], p = 0,001).
Đời sống hôn nhân không ổn định cũng là
một yếu tố ảnh hưởng mật thiết với sự thất bại
khi sử dụng thuốc viên tránh thai. Các nghiên
cứu tại BV Từ Dũ(4), của tác giả Faghihzadeh và
cộng sự(4), và của tác giả Rasch (2002)(9, 10,12) đều
cho thấy nhóm phụ nữ ly hôn hoặc sống độc
thân dễ bị thất bại trong việc sử dụng thuốc viên
tránh thai uống hơn phụ nữ có chồng bên cạnh
thường xuyên. Nghiên cứu của chúng tôi cũng
tìm thấy cùng nhận định như vậy với OR=4,8.
Có thể do những phụ nữ này nghĩ rằng khả
năng thụ thai khả năng thụ thai khó xảy ra, khi
thỉnh thoảng mới quan hệ tình dục; cho nên việc
uống thuốc không được quan tâm tích cực,
không trở thành thói quen, từ đó gây ra tình
trạng có thai ngoài ý muốn.
Bên cạnh đó, sự tác động của số con hiện có
và tiền sử phá thai cũng là yếu tố dẫn đến sự
thất bại của phương pháp tránh thai bằng thuốc
vỉ ngừa thai uống này. Đây cũng là nhận xét của
tác giả Wang và cộng sự (2004)(10,12): vì do số con
đông khiến cho người phụ nữ phải lo lắng
nhiều, mất nhiều thời gian cho con, dễ quên sử
dụng thuốc viên tránh thai hàng ngày. Tương
tự, nhóm phụ nữ bỏ thai nhiều lần cũng là nhóm
phụ nữ không hoặc chưa muốn sinh thêm và
hiểu biết chưa tốt về các biện pháp tránh thai
cũng như thực hành không đúng phương pháp
nên dễ thất bại. Phần lớn họ cho rằng việc điều
hòa kinh nguyệt hay uống thuốc phá thai nội
khoa cũng là một biện pháp tránh thai hữu hiệu,
cho nên không cần quan tâm đến việc tuân thủ
sử dụng thuốc tránh thai theo đúng hướng dẫn,
từ đó làm tăng nguy cơ thai ngoài ý muốn. Kết
quả chúng tôi tìm thấy được, ở nhóm phụ nữ có
tiền sử bỏ thai nhiều lần, họ có nguy cơ có thai
ngoài ý muốn do thất bại sử dụng thuốc viên
ngừa thai cao gấp 4,4 lần (ORa=4,4, [KTC 95%
1,34-14,18], p = 0,014) cao hơn những phụ nữ
không thuộc nhóm này, và đây là yếu tố nguy
cơ có ý nghĩa thống kê.
Tóm lại, để hạn chế sự thất bại khi sử dụng
viên thuốc tránh thai uống, đặc biệt là ở những
huyện vùng xa, việc hướng dẫn tường tận cách
sử dụng thuốc viên uống là điều quan trọng
nhất. Chính vì thế, công tác tư vấn tại các đơn vị
y tế càng không thể thiếu được. Nên chăng thiết
lập thêm một đường dây nóng tại các trung tâm
y tế huyện hoặc các trạm y tế xã để giải đáp
ngay những thắc mắc của khách hàng liên quan
đến việc sử dụng thuốc viên tránh thai uống nói
riêng và các dịch vụ ngừa thai khác nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ y tế -Vụ khoa học và đào tạo (2006), Dân số-kế hoạch hóa
gia đình, Nhà xuất bản y học Hà Nội, tr. 84-118.
2. Bộ Y tế (2003), Chiến lược quốc gia về Chăm sóc sức khỏe
sinh sản giai đoạn 2001-2010, Nhà xuất bản Quân đội, Hà
Nội, tr. 24 - 27.
3. Bùi Thị Thu Hà (2009), Sức khỏe sinh sản, Nhà xuất bản giáo
dục Việt Nam, tr. 74-88.
4. Faghihzadeh S, Babace Rochee G, Lmyian M, Mansourian F,
Rezasoltani P (2003), Factore associated with unwanted
pregnancy-J Sex Marital ther, 29(2), pp. 157-64.
5. Lê Tự Phương Chi, Nguyễn Ngọc Phượng (2004), “Các yếu tố
quyết định nạo phá thai tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Nội
san sản phụ khoa (số đặc biệt), Hội phụ sản Việt Nam, tr. 297-
304.
6. Lê Trung (2008), Mối liên quan giữa kiến thức – thực hành
thuốc viên ngừa thai với tình trạng có thai ngoài ý muốn ở
phụ nữ đến trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản Thành phố
Hồ Chí Minh năm 2008, Luận văn thạc sĩ y học, tr. 36-49
7. Le LC, Magnani R, Rice J, Bertrand W (2004), “Reassessing the
levl of unintended prgnancy and its corrlates in Vietnam”,
StudFam Plann, 35(1)- pp.15-26.
8. Nguyễn Đỗ Nguyên (2006), Phương pháp nghên cứu khoa
học trong y khoa, tr. 39.
9. Rasch V (2002), "Contraceptive Failure-Results from a study
conducted among women with accepted an un accepted
pregnancies in Denmark", Contraception 66, pp. 109-116.
10. Vũ Tuyết Ánh Sao (2007), “Tìm hiểu nguyên nhân thất bại
của một số biện pháp tránh thai ở người đến phá thai” tại
bệnh viện Hùng Vương năm 2005, Luận văn Thạc sĩ y học, tr.
42 – 46.
11. Wang D (2002), "Contraceptive failure in China",
Contraception 66, pp 173-178.
12. Wang D (2004), Abortion as a backup method for
contraceptive failure in China, 36(3) 279-87.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen_nhan_that_bai_cua_su_dung_thuoc_tranh_thai_o_phu_nu_t.pdf