Loại trừ áp dụng khoản 2 Điều 14
đối với các quy định giới hạn quyền ngay
tại Hiến pháp?
Mệnh đề chung giới hạn quyền con
người (khoản 2 Điều 14 Hiến pháp) chỉ áp
dụng cho những quy phạm pháp luật dưới
Hiến pháp. Do đó, trên nguyên tắc các giới
hạn đối với các quyền được quy định ngay
tại Hiến pháp đương nhiên không chịu sự
điều chỉnh của khoản 2 Điều 14. Lý do là
nguyên tắc giới hạn quyền có mục đích ngăn
ngừa những quy phạm vi hiến, vốn chỉ có
thể là những quy phạm dưới Hiến pháp.
Hiến pháp năm 2013 trực tiếp quy
định sự giới hạn đối với một số quyền sau:
- Giới hạn quyền được xét xử bởi một
cơ quan tài phán có năng lực: “Việc xét xử
sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm
tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục
rút gọn” (khoản 1 Điều 103); “Tòa án nhân
dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số,
trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”
(khoản 4 Điều 103).
- Giới hạn quyền được xét xử công
khai: “Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí
mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân
tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ
bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của
đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử
kín” (khoản 3 Điều 103).
- Giới hạn quyền khiếu nại và quyền
tố cáo: “Nghiêm cấm lợi dụng quyền
khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm
hại người khác” (khoản 3 Điều 30).
Tuy nhiên, cần lưu ý là những quy
phạm dưới Hiến pháp nhằm cụ thể hóa ba
giới hạn quyền được Hiến pháp quy định
trực tiếp nêu trên vẫn phải chịu sự điều
chỉnh của khoản 2 Điều 14.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc giới hạn quyền con người: Ý nghĩa, nhu cầu giải thích và định hướng áp dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ý NGHĨA, NHU CẦU GIẢI THÍCH VÀ ĐỊNH HƯỚNG ÁP DỤNG1
1 Bài viết có sử dụng kết quả nghiên cứu từ đề tài cấp bộ năm 2016-2017: “Quy định về hạn chế quyền con người, quyền
công dân - Thực trạng và giải pháp” của Viện Nghiên cứu Lập pháp, GS,TS. Phan Trung Lý là Chủ nhiệm.
NGUYÊN TẮC GIỚI HẠN QUYỀN CON NGƯỜI:
Tóm tắt:
Nguyên tắc giới hạn quyền con người theo khoản 2 Điều 14 Hiến pháp
năm 2013 đánh dấu sự thay đổi triết lý về quyền con người, đồng thời
là công cụ mạnh mẽ để kiểm soát quyền lực nhà nước và củng cố định
hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn
khá nhiều tranh luận về cách hiểu cũng như cách áp dụng nguyên tắc
này trên thực tế. Bài viết đánh giá nhu cầu giải thích nguyên tắc hiến
định về giới hạn quyền con người và đề xuất một số định hướng áp
dụng nguyên tắc này.
Abstract:
The human-rights-limitation principle as prescribed in Article 14(2)
of the Constitution of 2013 has marked a change of philosophical
conception of human rights in Vietnam. This principle is a powerful
tool for controlling the state powers and facilitating the rule of law.
However, there has been much debate about the understanding and
application of the principle. This paper evaluates a need for interpreting
this constitutional principle and presents recommendations for
implementation.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: nguyên tắc giới hạn quyền
con người; quyền con người; Hiến
pháp 2013
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 18/07/2017
Biên tập: 15/09/2017
Duyệt bài: 23/09/2017
Article Infomation:
Keywords: human-rights-limitation
principle; human rights, Constitution
of 2013
Article History:
Received: 18 Jul. 2017
Edited: 15 Sep. 2017
Appproved: 23 Sep. 2017
Bùi Tiến Đạt*
* TS, Giảng viên Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
1. Ý nghĩa của nguyên tắc giới hạn quyền
con người trong Hiến pháp năm 2013
Như chúng ta đã biết, những sửa đổi
về chế định quyền con người là một trong
những điểm sáng (thậm chí là điểm tiến bộ
đáng lưu ý nhất) của Hiến pháp năm 2013.
Trong đó, có thể thấy nguyên tắc hạn chế
(hay giới hạn) quyền con người là trung
tâm của những điểm tiến bộ đó. Thật vậy,
nguyên tắc này không chỉ thể hiện thay đổi
lớn về quan niệm, tư duy, triết lý về quyền
con người, mà còn có tác động mạnh mẽ đến
cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước theo
Hiến pháp năm 2013.
1.1 Nguyên tắc giới hạn quyền đánh
dấu sự thay đổi về triết lý về quyền con
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 19(347) T10/2017
người và củng cố định hướng xây dựng
Nhà nước pháp quyền
Nhiều nhà bình luận cho rằng công
thức “quyền do pháp luật quy định”, vốn
được sử dụng xuyên suốt trong Hiến pháp
1992, là dấu hiệu rõ rệt của nguyên tắc nhà
nước ban phát quyền thay vì nguyên tắc nhà
nước tôn trọng quyền tự nhiên.2 Hiến pháp
năm 2013 đánh dấu sự thay đổi lớn khi yêu
cầu Nhà nước phải tôn trọng các quyền vốn
có của con người. Thay vì có thể tùy tiện
giới hạn, cắt xén các quyền, khoản 2 Điều
14 Hiến pháp 2013 đòi hỏi Nhà nước phải
giải trình thỏa đáng cho mọi sự giới hạn
quyền con người.3 Điều này thể hiện “văn
hóa giải trình” (“culture of justification”)4
của nền pháp quyền hiện đại. Vì vậy, có thể
thấy, Hiến pháp năm 2013 đã từ bỏ nguyên
tắc quyền con người do Nhà nước quy định
(statist rights) và công nhận nguyên tắc
quyền con người phổ quát được Nhà nước
tôn trọng (universal rights)5.
Nguyên tắc giới hạn quyền củng cố
định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền
ở Việt Nam. Nhà nước pháp quyền (rule of
law) thượng tôn pháp luật, ở đó pháp luật
không phải là các quy định tùy tiện mà phải
thể hiện các giá trị như công lý (justice), lẽ
công bằng (fairness), lẽ phải (reason) và tính
hợp lý (reasonableness). Vì lẽ đó, suy cho
cùng, chế độ pháp quyền phải đề cao tính
2 Nhiều học giả chia sẻ quan điểm này, một trong số đó là: Nguyễn Đăng Dung, Cách tiếp cận hay là cách thức quy định
nhân quyền trong Hiến pháp. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 22/2011, tr. 45-46.
3 “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
4 Moshe Cohen-Eliya and Iddo Porat, 'Proportionality and the Culture of Justification' [463] (2011) 59 American Journal
of Comparative Law 463
5 Xem thêm: Bui Ngoc Son, 'The Global Origins of Vietnam's Constitutions: Text in Context' [525] 2017(2) University
of Illinois Law Review 525.
6 Tác phẩm học thuật đáng chú ý và quan trọng nhất về chủ đề này cho đến nay được xuất bản tại Việt Nam là sách
chuyên khảo “Giới hạn chính đáng đối với các quyền con người, quyền công dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam” (TS. Nguyễn Minh Tuấn chủ biên, NXB Hồng Đức, 2015)
7 Một số ví dụ: http://
vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/257184/bo-quy-dinh-dat-ten-khong-qua-25-chu-cai.html;
dinh-vi-hien-va-chuyen-cam-den-chay-truoc-luat-phap-20170121071759955.htm.
8 Ví dụ, xem:
9 Russell Hardin, 'Constitutionalism' in Barry R. Weingast and Donald Wittman (eds), Oxford Handbook of Political
Economy (Oxford University Press, 2008) tr. 289.
tối thượng của pháp luật, trong đó phải thể
hiện những giá trị này. Các cơ quan lập pháp
và lập quy không thể tùy tiện đặt ra luật lệ
nhằm giới hạn quyền con người.
Trong vài năm gần đây, nguyên tắc
giới hạn quyền đã thu hút sự quan tâm của
giới học giả và xã hội. Một số bài viết và sách
chuyên khảo đã tập trung nghiên cứu chủ đề
này6. Trên diễn đàn Quốc hội, các nhà lập
pháp thường xuyên viện dẫn khoản 2 Điều
14 Hiến pháp khi bàn về các quy định pháp
luật liên quan đến quyền con người7. Trên
các diễn đàn báo chí, nguyên tắc giới hạn
quyền cũng đã lan tỏa ngày càng rộng rãi8.
1.2 Nguyên tắc giới hạn quyền là
công cụ mạnh mẽ để kiểm soát quyền lực
nhà nước
Điểm mấu chốt của chủ nghĩa hiến
pháp/chủ nghĩa hợp hiến (constitutionalism)
là quyền lực nhà nước bị giới hạn (limited
government)9. Có thể chỉ ra ba dạng thức
của sự giới hạn quyền lực nhà nước: (i) giới
hạn quyền lực bởi cơ cấu tổ chức - kỹ thuật;
(ii) giới hạn quyền lực bởi thẩm quyền của
các cơ quan, cá nhân đại diện cho quyền lực
nhà nước; (iii) giới hạn quyền lực bởi cơ chế
bảo vệ quyền con người. Ở nhiều nước trên
thế giới (nổi bật là Hoa Kỳ), mệnh đề “due
process of law” (trình tự pháp luật đúng đắn/
công bằng) chính là trụ cột của cơ chế bảo vệ
quyền con người và đồng thời nhằm giới hạn
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 19(347) T10/2017
quyền lực nhà nước10. Học thuyết pháp luật
công bằng gồm hai khía cạnh: công bằng về
nội dung (substantive due process) và công
bằng về thủ tục (procedural due process)11.
Trong khi những đòi hỏi về công bằng thủ
tục chủ yếu kiểm soát quyền hành pháp và
tư pháp, những đòi hỏi về công bằng nội
dung hướng tới kiểm soát quyền lập pháp.
Dưới góc độ so sánh, nguyên tắc giới
hạn quyền con người, vốn được phát triển
bởi luật nhân quyền quốc tế12, khá tương
đồng với yêu cầu công bằng về nội dung
trong luật hiến pháp Hoa Kỳ. Nguyên tắc
này đòi hỏi cơ quan thực hiện quyền lập
pháp không được ban hành những quy phạm
nhằm hạn chế quyền con người một cách bất
hợp lý (hay nói cách khác là vi hiến). Do
đó, khi đặt ra những quy chuẩn trong việc
giới hạn quyền, nguyên tắc này cũng chính
là nền tảng cho sự giới hạn quyền lực của
cơ quan lập pháp. Bên cạnh đó, nguyên tắc
giới hạn quyền cũng giới hạn quyền lực của
các cơ quan hành pháp trong việc thực thi
lập pháp ủy quyền và quyền lập quy - những
hoạt động vốn có thể đặt ra quy phạm giới
hạn quyền. Hơn nữa, trong chừng mực nhất
định, nguyên tắc giới hạn quyền cũng có thể
kiểm soát quyền tư pháp. Chẳng hạn, đối với
những quốc gia thiết lập cơ quan tài phán
hiến pháp (thường là tòa án thường có chức
năng tài phán hiến pháp, hoặc tòa án hiến
pháp, hay hội đồng hiến pháp), việc đánh giá
tính hợp hiến của các đạo luật do cơ quan
này thực hiện phải tuân thủ các trình tự và
10 Tu chính án thứ 5 (năm 1791) của Hiến pháp Hoa Kỳ tuyên bố: “Không ai bị tước bỏ tính mạng, tự do và tài sản mà
không dựa trên trình tự pháp luật công bằng” (“No person shall be deprived of life, liberty or property without due
process of law ”). Tu chính án 14 (năm 1868) một lần nữa khẳng định: “không bang nào tước bỏ tính mạng, tự do và
tài sản của bất kỳ ai mà không dựa trên trình tự pháp luật công bằng” (“nor shall any State deprive any person of life,
liberty, or property, without due process of law”).
11 Xem thêm: Bùi Tiến Đạt, Học thuyết trình tự công bằng và việc bảo vệ quyền con người: Kinh nghiệm quốc tế và Việt
Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 11/2015.
12 Xem các Điều 29, 30 của Tuyên ngôn toàn thế giới về Quyền con người 1948.
13 Aharon Barak, Proportionality: Constitutional Rights and Their Limitations (Doron Kalir trans, Cambridge University
Press, 2012) tr. 102.
14 Robert Alexy phân biệt giữa các quy tắc (rules) và các nguyên tắc (principles) trong hiến pháp. Quy tắc là những quy
phạm nêu ra mệnh lệnh rõ ràng, ví dụ “Nghị viện do cử tri từ đủ 18 tuổi bầu ra”. Trong khi đó, nguyên tắc là những quy
phạm không đưa ra mệnh lệnh rõ ràng, mà đòi hỏi sự nhận thức cũng như thực thi hết mức có thể tùy thuộc vào hoàn
cảnh cụ thể, như trường hợp của việc diễn đạt các quyền hiến định (xem: Robert Alexy, A Theory of Constitutional
Rights, Julian Rivers dịch (Oxford: Clarendon Press, 2002), tr. 47-9.
phương pháp của nguyên tắc hiến định về
giới hạn quyền con người.
2. Nhu cầu giải thích và định hướng áp
dụng nguyên tắc giới hạn quyền
2.1 Thế nào là “hạn chế” quyền con
người?
Theo cách hiểu phổ biến trên thế giới,
sự hạn chế/giới hạn đối với một quyền con
người nào đó được hiểu là việc Nhà nước
không cho phép các chủ thể thụ hưởng quyền
có thể thực hiện quyền đó ở mức độ tuyệt
đối13. Nếu Nhà nước không đặt ra quy phạm
dưới Hiến pháp để giới hạn phạm vi áp dụng
một quyền hiến định nào đó, về nguyên tắc
chủ thể thụ hưởng có thể thực hiện quyền
đó một cách tuyệt đối, hay nói cách khác,
quyền đó không bị hạn chế. Quan điểm này
của Aharon Barak đã kế thừa quan niệm về
quyền hiến định của Robert Alexy, vốn rất
có tầm ảnh hưởng trong luật hiến pháp hiện
đại. Theo R. Alexy, một quyền hiến định
được hiểu như một nguyên tắc, theo đó việc
thực hiện quyền này chỉ hướng tới phạm vi
thực hiện lớn nhất có thể và mang tính “co
giãn” tùy thuộc vào những hoàn cảnh cụ
thể14. Phần lớn các quyền hiến định không
mang tính tuyệt đối, tức chúng hàm ý hướng
tới một chuẩn mực lý tưởng, nhưng trên thực
tế nhà nước nào cũng phải dùng những quy
phạm dưới hiến pháp để đặt ra một giới hạn
nhất định cho việc thực hiện các quyền đó.
Mặc dù sự hạn chế hay sự giới hạn
quyền con người là hai cụm từ đồng nghĩa
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 19(347) T10/2017
(dịch từ thuật ngữ tiếng Anh là limitation/
restriction on rights), chúng tôi nghiêng về
dùng thuật ngữ “sự giới hạn” hơn vì thuật
ngữ này không bị hiểu nhầm là “nhược
điểm”. Từ “hạn chế” vừa có nghĩa là “giới
hạn” vừa có nghĩa là “nhược điểm” - dễ gây
hiểu nhầm sang cách hiểu thứ hai.
2.2 Tranh luận về cách hiểu từ “luật”
trong cụm từ “theo quy định của luật”
Đa số các quan điểm học thuật cũng
như các nhà lập pháp hiểu thuật ngữ “luật”
trong cụm từ “theo quy định của luật” tại
khoản 2 Điều 14 theo nghĩa văn bản quy
phạm pháp luật có tên gọi là luật do Quốc
hội ban hành15. Tuy vậy, chúng tôi nghiêng
về hướng giải thích thuật ngữ “luật” theo
nghĩa rộng, mang nghĩa “pháp luật” hay
“quy phạm pháp luật” thay vì hiểu theo
nghĩa hẹp chỉ là luật của cơ quan lập pháp,
trên cơ sở những lập luận sau.
Lập luận thứ nhất, nhìn Chương II
một cách tổng thể, có thể thấy Hiến pháp
năm 2013 không khẳng định rõ ràng rằng
thuật ngữ “luật” chắc chắn dùng để chỉ văn
bản quy phạm pháp luật có tên gọi là luật
do Quốc hội ban hành trong mọi trường hợp
hạn chế quyền con người. Chương II không
nhất quán về cách dùng thuật ngữ “luật” và
“pháp luật”. Khi quy định về các quyền cụ
thể, Hiến pháp sử dụng ba cách diễn đạt liên
quan đến “luật” hay “pháp luật”.
Ở dạng thứ nhất, một số điều khoản
sử dụng thuật ngữ “luật”. Cụ thể là những
điều khoản sau: khoản 2 Điều 14; Điều
19 (“Không ai bị tước đoạt tính mạng trái
luật”); khoản 2 Điều 20 (“Việc bắt, giam,
giữ người do luật định”); khoản 3 Điều 20
(“Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận
cơ thể người và hiến xác theo quy định của
luật”); khoản 3 Điều 22 (“Việc khám xét chỗ
ở do luật định”); Điều 27 về quyền bầu cử
và ứng cử (“Việc thực hiện các quyền này
15 Ví dụ: Về bài viết học thuật, xem: Tường Duy Kiên, Cụ thể hóa các quy định mới về quyền con người, quyền công
dân trong Hiến pháp năm 2013. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 13/2016, tr. 8; Hoàng Hùng Hải, Bảo đảm quyền con
người: Tư tưởng chủ đạo của Hiến pháp năm 2013, trong cuốn: Thực hiện các quyền hiến định trong Hiến pháp năm
2013 (Trịnh Quốc Toản và Vũ Công Giao đồng chủ biên), NXB Lý luận Chính trị, 2017, tr. 66; Về quan điểm của nhà
lập pháp, xem:
do luật định”); khoản 2 Điều 31 (“Trường
hợp xét xử kín theo quy định của luật thì
việc tuyên án phải được công khai”); Điều
47 (“Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo
luật định); Điều 54 (khoản 3 “Nhà nước thu
hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng
trong trường hợp thật cần thiết do luật định
vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng”; khoản 4: “Nhà nước trưng dụng đất
trong trường hợp thật cần thiết do luật định
để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh
hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng
khẩn cấp, phòng, chống thiên tai”).
Ở dạng thứ hai, một số điều khoản sử
dụng thuật ngữ “pháp luật”, cụ thể là: Điều
23 về các quyền tự do đi lại và cư trú; Điều
25 về các quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu
tình (“Việc thực hiện các quyền này do pháp
luật quy định”); Điều 33 (“Mọi người có
quyền tự do kinh doanh trong những ngành
nghề mà pháp luật không cấm”).
Ở dạng thứ ba, việc diễn đạt một số
quyền không đi kèm với cụm từ “theo quy
định của luật/pháp luật” hay “do luật/pháp
luật quy định”. Có thể thấy mô típ này ở các
quyền: Điều 24 về quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo; Điều 28 về quyền tham gia quản
lý nhà nước và xã hội; Điều 29 về quyền
biểu quyết; Điều 36 về quyền kết hôn, ly
hôn; Điều 40 về quyền nghiên cứu khoa học
và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật,
quyền văn hóa; Điều 42 về quyền về dân
tộc, quyền về ngôn ngữ.
Từ ba cách diễn đạt trên, có thể đưa ra
ba phương án để giải thích về căn cứ pháp lý
hạn chế quyền:
Phương án 1: Quyền con người bị
giới hạn bởi văn bản “luật” của Quốc hội.
Cách hiểu này còn nhiều vướng mắc vì
chính Chương II Hiến pháp sử dụng cả từ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 19(347) T10/2017
“luật” và “pháp luật”, nên từ “luật” trong
khoản 2 Điều 14 chưa chắc là căn cứ hiến
định duy nhất cho toàn bộ các quy định về
hạn chế quyền. Nói cách khác, khó có thể
khẳng định Hiến pháp chỉ cho phép “luật”
chứ không phải “pháp luật” đưa ra những
quy tắc hạn chế quyền.
Phương án 2: Có ba nhóm quyền
tương ứng với ba cơ chế giới hạn: nhóm
quyền bị giới hạn bởi “luật” của Quốc hội
(nhóm thứ nhất nêu trên, chiếm phần lớn);
nhóm quyền bị giới hạn bởi “pháp luật” của
Quốc hội (nhóm thứ hai nêu trên, chiếm số
ít); và nhóm quyền “tuyệt đối”, không bị
giới hạn trong mọi trường hợp (nhóm thứ
ba nêu trên, chiếm số ít). Cách giải thích này
hoàn toàn dựa vào từ ngữ, lời văn của Hiến
pháp. Chúng tôi cho rằng, cách hiểu này
chứa đựng mâu thuẫn, rủi ro và gây nhiều
khó khăn khi áp dụng. Một loạt vấn đề hóc
búa có thể đặt ra: Căn cứ nào để phân chia ba
nhóm quyền như vậy? Có phải nhóm thứ ba
là những quyền quan trọng nhất nên không
bị giới hạn, nhóm quyền thứ nhất quan trọng
thứ hai nên chỉ bị giới hạn bởi luật của Quốc
hội và nhóm quyền thứ hai ít quan trọng
nhất nên có thể bị giới hạn bởi pháp luật nói
chung? v.v..
Phương án 3: Quyền con người bị
giới hạn bởi văn bản “pháp luật”. Chúng tôi
chia sẻ cách giải thích này. Hiến pháp không
có hàm ý phân biệt rạch ròi giữa “luật” và
“pháp luật”. Hiến pháp cũng không hàm ý
16 Xem thêm lý giải về vấn đề này ở: Bùi Tiến Đạt, Hiến pháp hóa nguyên tắc giới hạn quyền con người: Cần nhưng chưa
đủ, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 6/2015, tr. 6.
17 Xem: Phân cấp quản lý nhà nước (Phạm Hồng Thái, Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên), NXB
Công an nhân dân, 2011.
18 Chẳng hạn, xem Điều 19, khoản 1, điểm c và d. Theo đó, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thể “quyết định biện pháp bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, phòng, chống quan
liêu, tham nhũng trong phạm vi được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính mạng, tự
do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân trên địa bàn tỉnh” và “quyết định
biện pháp để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp”.
19 Ví dụ, vừa qua Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành Nghị quyết thông qua Đề án về tăng cường quản lý
phương tiện giao thông nhằm giảm ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường, giai đoạn 2017-2020 tầm nhìn 2030, trong
đó có việc cấm xe máy tại các quận (
ha-noi-3600875.html). Thành phố Hồ Chí Minh cũng đang có những cuộc thảo luận tương tự (
tin-tuc/thoi-su/tranh-bien-ve-y-tuong-cam-xe-may-o-tp-hcm-3613532.html).
20 Xem: Roger King, The Regulatory State in an Age of Governance: Soft Words and Big Sticks. PALGRAVE
MACMILLAN, 2007.
khoản 2 Điều 14 có thể đứng trên các điều
khoản khác trong Hiến pháp. Sự rắc rối có lẽ
chủ yếu do thiếu thống nhất về kỹ thuật lập
hiến cũng như do vấn đề giới hạn quyền còn
rất mới mẻ ở Việt Nam.
Lập luận thứ hai, dựa vào kinh nghiệm
quốc tế. Theo luật nhân quyền quốc tế cũng
như pháp luật ở nhiều nước trên thế giới, từ
“law” trong các mệnh đề giới hạn quyền con
người được giải thích theo nghĩa rộng, tức
bao gồm mọi hình thức chứa đựng các quy
phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước
ban hành16.
Lập luận thứ ba, dựa vào xu hướng
phát triển chức năng của nhà nước. Thật vậy,
các nhà nước hiện đại đề cao cơ chế phân
quyền theo cả chiều ngang lẫn chiều dọc17.
Tính tự chủ của chính quyền địa phương
ngày càng tăng, dẫn đến sự gia tăng tất yếu
của những văn bản pháp luật đặc thù, phù
hợp với tình hình địa phương (trong đó có
thể quy định những hạn chế quyền lớn hơn
so với văn bản của trung ương). Luật Tổ
chức Chính quyền địa phương năm 2015
cũng đã ghi nhận điều này18. Trên thực tế,
các cấp chính quyền địa phương đã và tiếp
tục ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp
luật mang tính đặc thù của địa phương19.
Ngoài ra, theo lý thuyết về nhà nước
điều tiết (regulatory/administrative state)20,
vốn đang rất phổ biến trên thế giới và Việt
Nam, cơ quan hành pháp trung ương (chính
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 19(347) T10/2017
phủ) cũng như chính quyền địa phương
ngày càng thực hiện nhiều hoạt động lập quy
(regulations) cũng như lập pháp ủy quyền
(delegated legislation). Theo đó, trong bối
cảnh Việt Nam, cần thừa nhận vai trò không
thể tránh khỏi của các nghị định, thông tư
của cơ quan hành chính trung ương và các
nghị quyết, quyết định của chính quyền địa
phương trong việc đưa ra các quy tắc hạn
chế các quyền con người ở mức độ cao hơn
so với văn bản của cơ quan lập pháp. Các
nhà nước hiện đại thực hiện việc kiểm soát
chặt chẽ cơ chế lập pháp ủy quyền và lập
quy thay vì cấm đoán chúng.
2.3 Lợi ích công là lý do chính đáng
để giới hạn quyền?
Năm 2015, đề xuất hạn chế đặt tên
người không quá 25 ký tự trong dự thảo Bộ
luật Dân sự sửa đổi đã gây ra tranh luận thú
vị trên diễn đàn Quốc hội cũng như trong
dư luận xã hội. Dư luận phần lớn phản đối
dự thảo quy định này vì cho rằng, việc đặt
tên là quyền tự do mang tính cá nhân của
mỗi người (được xếp vào quyền nhân thân
trong Bộ luật Dân sự) và không ảnh hưởng
tiêu cực gì tới xã hội. Quan điểm của Ủy ban
Pháp luật của Quốc hội cho rằng, việc hạn
chế quyền đặt tên không có cơ sở hiến định
vì khoản 2 Điều 14 Hiến pháp chỉ cho phép
hạn chế quyền con người “trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe của cộng đồng”. Theo quan điểm
này, “chưa xác định rõ được cơ sở hợp lý của
việc giới hạn này và cũng không phù hợp
với quy định của Hiến pháp”21 vì việc đặt
tên không ảnh hưởng gì đến “quốc phòng,
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Ủy
ban thường vụ Quốc hội đã bị thuyết phục
bởi quan điểm của Ủy ban Pháp luật và dư
luận xã hội, và do đó chấp thuận bỏ quy định
không được đặt tên người dài quá 25 chữ
cái.
Lập luận bác bỏ dự luật nêu trên có vẻ
21
rất thuyết phục nếu dựa vào câu chữ trong
Điều 14 Hiến pháp. Chúng tôi cho rằng, đây
là một thiếu sót của Điều 14 khi bỏ sót yếu
tố hạn chế quyền vì lợi ích chung của xã
hội. So sánh với Tuyên ngôn toàn thế giới
về Quyền con người năm 1948, Điều 29
quy định “Trong việc thực thi các quyền và
tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn
chế do luật định, nhằm mục tiêu bảo đảm sự
thừa nhận và tôn trọng quyền, và quyền tự
do của những người khác, cũng như nhằm
thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về đạo
đức, trật tự công cộng, và nền an sinh chung
trong một xã hội dân chủ” (phần in nghiêng
do tác giả nhấn mạnh). Cần lưu ý thuật ngữ
“nền an sinh chung” (general welfare) đồng
nghĩa với lợi ích chung của xã hội.
Chúng tôi cho rằng, không thể coi
khoản 2 Điều 14 là căn cứ duy nhất để đánh
giá vấn đề hạn chế quyền mà cần xem xét
nó trong mối liên hệ tổng thể với các điều
khoản khác của Hiến pháp. Theo cách tiếp
cận này, thiếu sót trên của khoản 2 Điều 14
có thể được bổ khuyết bằng khoản 4 Điều
15 Hiến pháp: “Việc thực hiện quyền con
người, quyền công dân không được xâm
phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác”. Dường
như các chuyên gia pháp luật khá lệ thuộc
vào lời văn của khoản 2 Điều 14 mà bỏ sót
khoản 4 Điều 15 này. Áp dụng cách tiếp cận
tổng thể vào ví dụ nêu trên, việc hạn chế
quyền đặt tên vì “lợi ích quốc gia, dân tộc”,
hay nói cách khác là vì lợi ích chung của
xã hội, là một quy định chính đáng và phù
hợp với Hiến pháp năm 2013 cũng như pháp
luật quốc tế. Ngoài Điều 15, Hiến pháp năm
2013 cũng đề cập đến “lợi ích quốc gia, công
cộng” khi hạn chế quyền sở hữu tại khoản 3
Điều 54: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức,
cá nhân đang sử dụng trong trường hợp
thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc
phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì
lợi ích quốc gia, công cộng”. Ngoài ra, có
thể thấy một số văn bản pháp luật dưới Hiến
pháp ghi nhận lợi ý công là lý do hạn chế
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 19(347) T10/2017
quyền. Chẳng hạn, Luật Tiếp cận thông tin
2016 cho phép giới hạn quyền bí mật đời tư,
bí mật kinh doanh vì “lợi ích công cộng”22.
Quay trở lại lịch sử lập hiến, có thể
nhận thấy lợi ích chung của xã hội (mặc dù
có thể được xem xét tách biệt với các khái
niệm “lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng”) luôn luôn là lý do
chính đáng khiến các quyền con người có
thể bị giới hạn. Ngay từ Hiến pháp 1980,
chúng ta có thể thấy đòi hỏi về sự “hài hòa”
giữa quyền công dân và lợi ích chung như
sau: “Quyền và nghĩa vụ của công dân thể
hiện chế độ làm chủ tập thể của nhân dân
lao động, kết hợp hài hoà những yêu cầu của
cuộc sống xã hội với tự do chân chính của
cá nhân, bảo đảm sự nhất trí về lợi ích giữa
Nhà nước, tập thể và cá nhân theo nguyên
tắc mỗi người vì mọi người, mọi người vì
mỗi người.
Quyền của công dân không tách rời
nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước bảo đảm các quyền của
công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ
của mình đối với Nhà nước và xã hội” (Điều
54, Chương V “Quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân”, phần in nghiêng do tác giả
nhấn mạnh).
2.4 Loại trừ áp dụng khoản 2 Điều 14
đối với các quyền tuyệt đối?
Như đã liệt kê ở mục 2.2, Hiến pháp
diễn đạt một số quyền có vẻ như là các
quyền tuyệt đối, tức không đi kèm với cụm
từ giới hạn “theo quy định của luật/pháp
luật”. Không rõ Hiến pháp có hàm ý các
quyền này là quyền tuyệt đối hay không? Và
việc áp dụng khoản 2 Điều 14 đối với các
quyền đó có thể gây tranh cãi.
22 Theo khoản 3 Điều 7 Luật Tiếp cận thông tin 2016, “người đứng đầu cơ quan nhà nước quyết định việc cung cấp thông
tin liên quan đến bí mật kinh doanh, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trong trường hợp cần thiết vì lợi
ích công cộng , sức khỏe của cộng đồng theo quy định của luật có liên quan mà không cần có sự đồng ý theo quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều này” (phần in nghiêng do tác giả nhấn mạnh). Xem thêm những quy định liên quan tại điểm
n khoản 1 Điều 17, điểm h khoản 1 Điều 19, và điểm g khoản 1 Điều 34 của Luật này.
23 Stefan Sottiaux, Terrorism and the Limitation of Rights - The ECHR and the US Constitution (Hart Publishing 2008)
56.
Chúng tôi cho rằng, các quyền được
diễn đạt có vẻ tuyệt đối nêu trên (quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tham gia
quản lý nhà nước và xã hội; quyền biểu
quyết; quyền kết hôn, ly hôn) không
phải là quyền tuyệt đối. Cần lưu ý là trên
cơ sở pháp luật Việt Nam hiện hành, cũng
như tham khảo nhiều nước trên thế giới, các
quyền này thuộc về nhóm quyền tương đối.
Chẳng hạn, quyền tự do tôn giáo cũng như
phần lớn các quyền khác theo Hiến pháp
Hoa Kỳ, được diễn đạt như quyền tuyệt đối,
nhưng các tòa án, thông qua chức năng giải
thích hiến pháp đã xác nhận các quyền này
có thể bị giới hạn23. Việc xác định một quyền
là tương đối nhiều khi không phụ thuộc hiến
pháp có khẳng định nó là tương đối hay lời
văn hiến pháp có quy định thực hiện quyền
“theo quy định của pháp luật” hay không,
mà do cơ quan tài phán hiến pháp giải thích.
Ở nhiều quốc gia, hiếm khi lời văn
hiến pháp minh định một quyền nào đó là
quyền tuyệt đối hay quyền tương đối. Thay
vào đó, một quyền tuyệt đối được xác định
qua hai dấu hiệu: thứ nhất, cơ quan có thẩm
quyền giải thích hiến pháp xác nhận một
quyền tuyệt đối một cách rõ ràng; thứ hai,
bất kỳ một quy phạm giới hạn phạm vi cá
nhân được thụ hưởng quyền đó đều không
được chấp nhận và bị coi là vi hiến.
Thực tiễn cho thấy, chỉ có một số ít
quyền tuyệt đối, tức không bị xâm phạm
trong bất kỳ trường hợp nào. Quyền được
tôn trọng về nhân phẩm (trong đó bao gồm
quyền không bị làm nô lệ, quyền không bị
tra tấn và đối xử một cách tàn ác) được phần
đông thừa nhận mang tính tuyệt đối, không
thể bị hạn chế. Việc xác định các quyền
tuyệt đối quan trọng ở chỗ nguyên tắc giới
hạn quyền bị loại trừ áp dụng đối với những
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 19(347) T10/2017
quyền đó vì luôn luôn không có lý do chính
đáng cho việc giới hạn đó.
2.5 Loại trừ áp dụng khoản 2 Điều 14
đối với các quy định giới hạn quyền ngay
tại Hiến pháp?
Mệnh đề chung giới hạn quyền con
người (khoản 2 Điều 14 Hiến pháp) chỉ áp
dụng cho những quy phạm pháp luật dưới
Hiến pháp. Do đó, trên nguyên tắc các giới
hạn đối với các quyền được quy định ngay
tại Hiến pháp đương nhiên không chịu sự
điều chỉnh của khoản 2 Điều 14. Lý do là
nguyên tắc giới hạn quyền có mục đích ngăn
ngừa những quy phạm vi hiến, vốn chỉ có
thể là những quy phạm dưới Hiến pháp.
Hiến pháp năm 2013 trực tiếp quy
định sự giới hạn đối với một số quyền sau:
- Giới hạn quyền được xét xử bởi một
cơ quan tài phán có năng lực: “Việc xét xử
sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm
tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục
rút gọn” (khoản 1 Điều 103); “Tòa án nhân
dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số,
trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”
(khoản 4 Điều 103).
- Giới hạn quyền được xét xử công
khai: “Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí
mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân
tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ
bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của
đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử
kín” (khoản 3 Điều 103).
- Giới hạn quyền khiếu nại và quyền
tố cáo: “Nghiêm cấm lợi dụng quyền
khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm
hại người khác” (khoản 3 Điều 30).
Tuy nhiên, cần lưu ý là những quy
phạm dưới Hiến pháp nhằm cụ thể hóa ba
giới hạn quyền được Hiến pháp quy định
trực tiếp nêu trên vẫn phải chịu sự điều
chỉnh của khoản 2 Điều 14.
2.6 Mệnh đề giới hạn riêng đối với
đối với một số quyền
Bên cạnh mệnh đề chung giới hạn
quyền con người tại khoản 2 Điều 14, Hiến
pháp còn chứa đựng ba mệnh đề giới hạn
riêng đối với một số quyền như sau:
- Giới hạn quyền sở hữu bằng trưng
mua, trưng dụng tài sản: “Trường hợp thật
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc
vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp,
phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua
hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ
chức, cá nhân theo giá thị trường” (khoản 3
Điều 32).
- Giới hạn quyền sử dụng đất bằng
thu hồi, trưng dụng đất: “Nhà nước thu hồi
đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong
trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục
đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh
tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng”
(khoản 3 Điều 54); “Nhà nước trưng dụng
đất trong trường hợp thật cần thiết do luật
định để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh,
tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai”
(khoản 4 Điều 54).
Sở dĩ có quy định điều kiện giới hạn
riêng vì Hiến pháp muốn đặt tiêu chuẩn cao
hơn về lý do chính đáng để giới hạn các
quyền trên, ở hai khía cạnh sau: thứ nhất,
phải có lý do “thật cần thiết” cho việc giới
hạn quyền (so với lý do “cần thiết” trong
khoản 2 Điều 14); thứ hai, mục đích hạn chế
quyền được nêu cụ thể hơn so với khoản 2
Điều 14.
3. Thay lời kết: Giải thích khoản 2 Điều
14 trong mối quan hệ với các điều khoản
khác
Do sự phức tạp vốn có của vấn đề
cũng như những thiếu sót về kỹ thuật lập
hiến, chúng tôi cho rằng, nhu cầu giải thích
nguyên tắc hạn chế quyền con người mang
tính cấp thiết. Từ phân tích nêu trên, có
thể rút ra một số định hướng để giải thích
khoản 2 Điều 14: thứ nhất, không nên hiểu
nguyên tắc giới hạn quyền con người theo
khoản 2 Điều 14 một cách biệt lập với các
điều khoản khác của Hiến pháp (đặc biệt các
điều khoản trong chương II); thứ hai, cần
giải thích nguyên tắc giới hạn quyền con
người theo khoản 2 Điều 14 trên cơ sở tiếp
thu kinh nghiệm của pháp luật quốc tế và
pháp luật của các quốc gia khác về quyền
con người
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 19(347) T10/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen_tac_gioi_han_quyen_con_nguoi_y_nghia_nhu_cau_giai_thi.pdf