Hình ảnh nội soi thanh quản Hình ảnh được thấy trên nội soi thanh quản là mảng màu trắng giống như giả mạc, bám trên dây thanh âm chủ yếu ở một bên (11/12 ca, 91, 66%) và hiếm khi ở hai bên (1/12 ca), đám giả mạc này chắc, dầy, nếu cố gắng bóc chúng khỏi dây thanh thì sẽ chảy máu, đôi khi đám giả mạc lại bở giống như một đám mô bị hoại tử. Hình ảnh trường hợp phải nhập viện do nhiễm nấm nhiều nơi cùng lúc Trong báo cáo của chúng tôi ghi nhận một trường hợp nhiễm nấm candida Albicans thanh quản mà phải nhập viện vì không đáp ứng với thuốc đường uống, phải nhập viện, nhưng cũng ghi nhận rằng ca này bị nhiễm nấm thực quản cùng lúc, trường hợp này thể trạng kém có tiên sử nhiễm lao đã điều trị. Theo chúng tôi trường hợp này phù hợp với y văn, tức là khi thể trạng kém vì một số bệnh khác thì nấm candida sẽ phát triển thành bệnh và có thể ở nhiều nơi khác nhau trên cơ thể. Thuốc kháng nấm Thuốc kháng nấm có nhiều loại và nhiều dạng khác nhau như dạng mỡ bôi (Griseofulvin, dùng cho da, móng và tóc), dung dịch (Axetyl salixylic axit 10%, dùng cho ngoài da), dạng uống (Ketoconazole và Terbinafine, chủ yếu cho da và móng, Fluconazole (chủ yếu dùng cho tiết niệu và phụ khoa và Itraconazole, loại phổ rộng được dùng chủ nhiếu cho nấm ở nông và sâu). Chúng tôi chọn Itraconazloe vì phổ rộng, có sẵn và dụng nạp tốt qua đường uống, kết quả cho thấy cho tính khả thi khi sạch bệnh tích ngay ở lần cho toa đầu tiên với liều Itraconazole 100mg x 2 lần x 14 ngày (11/12 ca).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 445 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân 12 trường hợp nấm thanh quản tại phòng khám tai mũi họng bệnh viện chợ Rẫy (5 năm, 5/2007 đến 5/2012), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng 99
NHÂN 12 TRƯỜNG HỢP NẤM THANH QUẢN 
TẠI PHÒNG KHÁM TAI MŨI HỌNG BỆNH VIỆN CHỢ RẪY 
(5 NĂM, 5/2007 ĐẾN 5/2012) 
Nguyễn Trọng Minh*, Đào Duy Khanh** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Nấm thanh quản là một loại nhiễm tương đối ít gặp, tổn thương nấm thường gặp tại dây thanh 
và một số nơi khác của vùng thanh môn, thực tế tổn thương nhiễm nấm thường gặp ở những bệnh nhân có có 
yếu tố thuận lợi như sức đề kháng yếu, hít hoặc uống corticoid hoặc dùng nhiều kháng sinh . . .rất ít trường hợp 
nhiễm nấm thanh quản được mô tả trong y văn, những chứng cứ y học về việc nhiễm nấm là rất cần thiết vì việc 
điều trị sẽ tùy thuộc rất nhiều vào việc chẩn đoán chính xác. Itraconazole được khuyến cáo sử dụng trong thời 
gian gần đây và có thể được dùng thay thế cho ketoconazole vì độc tính thấp của thuốc này. Mục tiêu: Chần đoán 
được trên nội soi với những hình ảnh nhiễm nấm đặc thù ở thanh quản kết hợp với sinh thiết mẫu mô ngay lúc 
soi (những giả mạc trắng trên dây thanh, hạ thanh môn). Chúng tôi có những nhận xét bước đầu về hiệu quả của 
thuốc điều trị nấm (ketoconazole, itraconazole) ở những trường hợp này. 
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp tiền cứu những trường hợp đã được chẩn đoán nhiễm nấm qua 
sinh thiết của khoa giải phẫu bệnh. Thực hiện tại phòng khám Tai Mũi họng – khoa khám bệnh – BVCR. 12 
trường hợp trong thời gian 5 năm (2007 - 2012) 
Kết quả: 12 trường hợp có triệu chứng khàn tiếng (100%), đau họng (100%) và ho (100%) được soi thanh 
quản kết hợp với sinh thiết và chẩn đoán dương tính nhiễm nấm. Tất cả những bệnh nhân này đều có tiền sử đã 
dùng thuốc kháng sinh và corticoids. Tuổi từ 22 đến 55. 1 trường hợp nhiễm HIV. 1 trường hợp bị bệnh thận và 
gan mãn tính. 10 nam và 2 nữ (83, 33% vs 16, 67%). 11/12 ca khỏi sau 6 tháng. 2 ca tái phát sau 9 tháng. 10 ca 
tái phát sau 3 năm (83, 33%). 1 ca không theo dõi được. Tất cả những bệnh nhân này đều được dùng Itraconazole 
trong vòng 2 tuần với liều 100mg x 2 lần/ngày. 1 trong số họ phải nhập viện vì thuốc kháng nấm đường uống 
không hiệu quả. 
Kết luận: Hầu hết trong số 12 bệnh nhân (11/12, 91, 66%) có hiệu quả chỉ với thuốc kháng nấm đường 
uống. Aspergillus và Candida là hai trong số họ nấm được thấy nhiều nhất trong số bệnh nhân này, với tỷ lệ 10 
nam và 2 nữ (83, 33% vs 16,67%). Trong hai trường hợp nhiễm nấm Candida là 1 nam và 1 nữ. 
Từ khóa: nhiễm nấm thanh quản, 
ABSTRACT 
FUNGAL INFECTION OF THE LARYNX (A REPORT 12 CASES) 
Nguyen Trong Minh, Đao Duy Khanh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 1 - 2014: 99 - 105 
Background: Fungal infection of the larynx is a relatively uncommon condition. The lesions may be confined 
to the vocal folds or may involve various other sites in the larynx. There is, invariably, a risk factor that 
predisposes to fungal infection via immune deficiency, inhaled or systemic steroids, antibiotic usage, etc.There 
have been very few cases of laryngeal thrush reported in the literature. Awareness of this entity is essential because 
the management depends on an accurate diagnosis. Ketoconazole has been proven efficacious in certain fungal 
* Khoa Tai Mũi Họng, BV Chợ Rẫy ** Khoa Khám Bệnh, BV Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: TS. BS. Nguyễn Trọng Minh ĐT: 0903677164; Email: drnguyentrongminh@gmail.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Tai Mũi Họng 100
infections. Itraconazole has recently been released for clinical use. Because of its lower incidence of toxic side 
effects, it may replace ketoconazole in the therapy of these diseases. Objectives: The diagnosis was based on 
endoscopy of the larynx with the own features of the fungal infection of this area and biopsy confirmed right after 
this. We first review the effectiveness of the newer azole drugs (ketoconazole, itraconazole) in these cases. 
Method: A prospective study in 12 cases who had been done by laryngoscopy and biopsy confirmed the 
diagnosis of Fungal infections of the larynx in five years term (2007 to 2012) at the ENT clinic of the Out patient 
Department of Chợ Rẫy hospital - HCM city. 
Results: We present 12 cases with hoarseness more than two weeks (100%), sore throat (100%) and Cough 
(100%) with direct laryngoscopy and biopsy confirmed the diagnosis of fungal infections of larynx. All of patients, 
who were infected, had been used antibiotic and steroid. Fungal laryngitis is usually seen in patient from 22 to 55 
years old. One of them was HIV infection. One of them was end stage renal disease and chronic liver disease 
together. 10 of them were males and 2 females (83.33% vs 16.67%). 2 cases had recurrent with their own 
symptoms after 9 months duration of treatment and 10 of them had recurrent after 3 years (83.33%). All of them 
was treated with oral Itraconazole, 100 mg x two times daily for 14 days. One of them had been hospitalised 
because of not benefit from oral Itraconazole. 
Conclusion: Most often, laryngeal fungus is effectively treated with oral antifungal medications and patient 
responded well to oral Itraconazole therapy. Aspergillus spp and Candida albican were caused laryngeal fungus 
infection (male vs female: 83.33% vs 16.67%). One male and 1 female was caused by Candida albicans 
Keywords: Laryngeal thrush, fungal laryngitis, Antifungal therapy, fungal infection of the larynx, 
Aspergillosis, Aspergillus spp, candidiasis, albicans species of Candida, clinical microbiology, laryngeal diseases, 
mycoses, fungal infection of the larynx 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nấm thanh quản là một loại bệnh lý hiếm 
gặp trong số các bệnh về thanh quản mà 
nguyên nhân thường do có sẵn trong niêm 
mạc miệng (Candida Albicans) hoặc hít phải 
các bào tử nấm trong không khí (Asperillus) 
và một số loài nấm khác như Histoplasma, 
Blastomyces(1,2,3,4). Triệu chứng của bệnh lý này 
thường rất giống nhau là thường ho kéo dài 
(100% kéo dài trên 2 tuần), khàn tiếng (100%), 
đặc tính của ho do nhiễm nấm là ho khan, ho 
do kích thích do phản ứng của cơ thể với bào 
tử nấm xâm nhập. Sau đó ho có đàm, thỉnh 
thoảng còn lẫn máu. Ngoài ra có thể kèm theo 
ngứa ra và đau họng. Đặc biệt các triệu chứng 
trên đều không giảm dù bệnh nhân đã dùng 
nhiều loại kháng sinh khác nhau (100% bệnh 
nhân đã dùng ít nhất hai loại kháng sinh khác 
nhau trước tới khám tại BVCR). Chẩn đoán 
được thực hiện bằng cách dùng que bông 
dùng để phết ở vùng thanh môn, lấy bệnh 
phẩm ở vùng thanh quản đem soi tươi tìm bào 
tử nấm hoặc nuôi cấy hoặc lấy huyết thanh 
thực hiện các xét nghiệm dịch thể để phát hiện 
kháng thể kháng nấm trong máu người bệnh, 
xét nghiệm này cho kết quả nhanh nhưng 
không có tính xác định cao(1,5,6). Theo chúng tôi 
thì việc lấy mô bệnh được xem là xét nghiệm 
cơ bản vì có độ chính xác tuyệt đối, bệnh 
phẩm lấy từ phần tổ chức bị bệnh có thể tìm 
thấy sợi nấm hay bào tử nấm, đó là sinh thiết 
trực tiếp từ mẫu giả mạc trắng trên bề mặt dây 
thanh để tìm tổn thương nhiễm nấm là chắc 
chắn và đảm bảo nhất cho chẩn đoán. Điều trị 
nhiễm nấm bằng thuốc kháng nấm toàn thân 
(như nystatin, fluconazol, flucytocin) hoặc tại 
chỗ, hoặc phối hợp cả hai phương pháp (như 
clotrimazol, nystatin, amphotericin B, 
fluconazol, Itraconazole...). Tuy nhiên điều trị 
kháng sinh chống nấm toàn thân chỉ được đưa 
ra khi có chẩn đoán chính xác (kết quả sinh 
thiết) vì độc tính cao của loại thuốc này. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng 101
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng 
Nghiên cứu tiền cứu trên 12 trường hợp 
nhiễm nấm thanh quản tại phòng khám tai mũi 
họng BV Chợ Rẫy (từ tháng 5/2007 đến 5 2012). 
Phương pháp nghiên cứu 
Phương pháp nghiên cứu mô tả từng ca có 
can thiệp 
Những trường hợp có các triệu chứng như 
ho, khàn tiếng kéo dài trên 2 tuần, sau đó được 
chỉ định nội soi thanh quản và có tổn thương giả 
mạc trên dây thanh, băng thanh thất, sụn phễu 
hoặc kết hợp. 
Kết quả sinh thiết những trường hợp trên 
khẳng định nhiễm nấm 
Dùng thuốc kháng nấm (Itraconazole) trong 
2 tuần với liều 200mg/ngày x 2 tuần. 
Đánh giá kết quả 
Tái khám và nội soi thanh quản mỗi 1,3, 6 
tháng và 1 năm 
Tiêu chí đánh giá: 
-Khỏi: Hết triệu chứng cơ năng (khàn tiếng, 
ho, đau và rát cổ) và thực thể (dây thanh trơn 
láng, không dạng giả mạc) khi nội soi 
-Tái phát: Sinh thiết trên tổn thương nghi 
ngờ ở dây thanh. 
KẾT QUẢ 
Tuổi, giới và dịch tễ 
Tuổi trung bình: 42. Tuổi thấp nhất: 22. 
Tuổicao nhất: 55. Tuổi thường gặp: 35 - 50, 7/12 
(58, 33%) 
Giới: Nam: 10 ca (83, 33%). Nữ: 2 ca (16, 66%). 
Thường xuyên tiếp xúc với môi trường có 
nấm: 4 ca là người chuyên bán hoa cảnh 
(thường xuyên tiếp xúc với môi trường có nấm 
ở hoa phong lan, bonsai và các loại cây, hoa 
khác) 
Suy giảm miễn dịch: 1 ca HIV 
Tiền sử hoặc đang bị nhiễm Lao: 3 ca (2 nữ 
và 1 nam) 
Thể trạng: 100% đàn ông có tiền sử hoặc 
đang dùng thuốc lá 
Tiền sử sử dụng kháng sinh: 100% 
Nghề nghiệp: 5 ca làm nghề nông, 4 ca làm 
nghề bán hoa và 3 ca ở thành phố 
Triệu chứng lâm sàng và cơ năng nổi bật 
Ho và khàn tiếng: 100% 
Rát, đau họng và nuốt vướng: 10/12 ca (83, 33%) 
Ngứa và khô họng: 6/12 ca (50%) 
Đau tai: 3/12 ca (25%) 
Nội soi thanh quản thấy đám giả mạc trắng 
trên dây thanh âm: 100% 
Hình 1. Tổn thương giả mạc trắng trên 1/3 giữa và 1/3 sau một bên dây thanh 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Tai Mũi Họng 102
Hình 2. Một khối nấm lớn 1/3 sau dây thanh (ngày 
soi 13.1.2009) 
Hình ảnh giải phẫu bệnh 
Nhiễm Asperillus spp (10 ca - 83, 33%) 
Hình 3. Nhiễm Candida albicans (2 ca - 16, 66%) 
Hình 4. Nhiễm nấm Candida albicans (ảnh chụp 
8.10.2008) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng 103
Kết quả cho thấy trên hình ảnh nội soi trước và sau dùng kháng nấm Itraconazole 
Hình 5. Hình ảnh nội soi trước và sau điều trị (1 tháng, 17.11 đến 17.12.2007) 
Hình 6. Hình ảnh nội soi trước và sau điều trị (1 tháng, 21.2 đến 25.2.2008) 
Hình 7. Hình ảnh nội soi trước và sau điều trị (3 tháng, 13.1 đến 25.4.2009) 
Hình 8. Hình ảnh nội soi trước và sau điều trị (6 tháng, 27.6.11 đến 28.1.2012) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Tai Mũi Họng 104
Tái phát 
11/ 12 ca cho thấy sạch nấm sau khi dùng 
kháng nấm với liều Itraconazole 100mg x 2 x 
14 ngày 
11/12 ca khỏi sau 6 tháng 
2 ca tái phát sau 9 tháng 
4 ca tái phát sau 1 năm 
5 ca tái phát sau 2 năm 
10 ca tái phát sau 3 năm (83, 33%) 
1 ca không theo dõi được 
1/12 không cải thiện ngay sau liều đầu tiên, 
trên bệnh nhân này có kết hợp tổn thương nấm 
ở thanh quản và ở thực quản mà phải nhập viện 
dùng kháng nấm theo đường tiêm chích. 
Hình ảnh trường hợp phải nhập viện do 
nhiễm nấm nhiều nơi cùng lúc 
Nhiễm nấm thanh quản và thực quản (ảnh chụp 
16.1.2008) 
BÀN LUẬN 
Tuổi và giới & dịch tễ 
Chúng tôi nhận thấy những trường hợp 
nhiễm nấm tập trung ở độ tuổi lao động (35 đến 
50), tỷ lệ nam nhiều gấp 5 lần so với nữ, chúng 
tôi không biết lý do chính xác nhưng có thể nam 
thường là lao động chính trong gia đình, tiếp xúc 
nhiều hơn với môi trường có thể có nấm (4 nam 
là chủ của cửa hàng cây kiểng, bonsai, hoa 
phong lan), kết hợp với thường xuyên dùng 
rượu, thuốc lá, thuốc kháng sinh, đặc biệt 1 
trường hợp nhiễm HIV và 1 ca khác nhiễm lao 
phổi kèm theo, liệu có thể những điều đó mà thể 
trạng, sức đề kháng của nam giới kém hơn và dễ 
nhiễm nhiều hơn nữ. 
Triệu chứng lâm sàng và cơ năng nổi bật 
Khàn tiếng và ho là triệu chứng cơ năng nổi 
bật nhất, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ là 100%, đặc 
điểm của ho trong nhiễm nấm là ho khan trong 3 
đến 5 ngày đầu, ho nhiều, thậm chí dữ dội, 
thường xuất hiện sau cảm cúm (5 ca, 41,66%), 
sau những ngày đầu thì ho có đàm trắng đục, 
thậm chí lẫn máu, từ những ngày này khàn tiếng 
ngày một nặng, thậm chí nói không ra tiếng, 
thường là khào khào, giọng yếu hẳn, ngoài ra 
những triệu chứng khác kèm theo như đau 
họng, rát họng, tức ngực và đau vùng ngực cũng 
xuất hiện. 
Giải phẫu bệnh của nhiễm nấm 
Trong chẩn đoán về nhiễm nấm thì có nhiều 
phương pháp và cách làm như phết họng, soi 
tươi tìm bào tử nấm hoặc nuôi cấy để định danh 
và đặc biệt là sinh thiết. Chúng tôi chọn phương 
pháp này vì khi nội soi rất khó lấy dịch hoặc 
phết trên niêm mạc để nuôi cấy và kết quả trong 
chẩn đoán thì thường không có nấm, (-), nhưng 
sinh thiết là phương pháp chắc chắn vì khi lấy 
thì lấy cả giả mạc thậm chỉ lấy cả phần mô 
nhiễm, kết quả thì chắc chắn. Nhiễm nấm 
Asperillus là chủ yếu trong báo cáo này, điều 
này cho thấy môi trường bị ô nhiễm nhiều, loại 
nấm này có trong môi trường, trong không khí, 
điều này ngược hẳn trong y văn là Candida 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng 105
Albicans mới là loại nhiễm nhiều nhất vì nấm 
Candida thường trú trong niêm mạc họng miệng 
và thành bệnh trên những những người có thể 
trạng, sức đề kháng kém hoặc cùng lúc nhiễm 
bệnh khác như lao, HIV, hút thuốc uống rượu 
thường xuyên và lạm dụng thuốc kháng sinh, 
nhiễm Candida là loại nhiễm nhiều nhất được 
ghi trong y văn nhưng trong báo này của chúng 
tôi thì Asperillus mới là loại nhiễm đa số (10 ca - 
83,33%). 
Hình ảnh nội soi thanh quản 
Hình ảnh được thấy trên nội soi thanh quản 
là mảng màu trắng giống như giả mạc, bám trên 
dây thanh âm chủ yếu ở một bên (11/12 ca, 91, 
66%) và hiếm khi ở hai bên (1/12 ca), đám giả 
mạc này chắc, dầy, nếu cố gắng bóc chúng khỏi 
dây thanh thì sẽ chảy máu, đôi khi đám giả mạc 
lại bở giống như một đám mô bị hoại tử. 
Hình ảnh trường hợp phải nhập viện do 
nhiễm nấm nhiều nơi cùng lúc 
Trong báo cáo của chúng tôi ghi nhận một 
trường hợp nhiễm nấm candida Albicans thanh 
quản mà phải nhập viện vì không đáp ứng với 
thuốc đường uống, phải nhập viện, nhưng cũng 
ghi nhận rằng ca này bị nhiễm nấm thực quản 
cùng lúc, trường hợp này thể trạng kém có tiên 
sử nhiễm lao đã điều trị. Theo chúng tôi trường 
hợp này phù hợp với y văn, tức là khi thể trạng 
kém vì một số bệnh khác thì nấm candida sẽ 
phát triển thành bệnh và có thể ở nhiều nơi khác 
nhau trên cơ thể. 
Thuốc kháng nấm 
Thuốc kháng nấm có nhiều loại và nhiều 
dạng khác nhau như dạng mỡ bôi (Griseofulvin, 
dùng cho da, móng và tóc), dung dịch (Axetyl 
salixylic axit 10%, dùng cho ngoài da), dạng 
uống (Ketoconazole và Terbinafine, chủ yếu cho 
da và móng, Fluconazole (chủ yếu dùng cho tiết 
niệu và phụ khoa và Itraconazole, loại phổ rộng 
được dùng chủ nhiếu cho nấm ở nông và sâu). 
Chúng tôi chọn Itraconazloe vì phổ rộng, có sẵn 
và dụng nạp tốt qua đường uống, kết quả cho 
thấy cho tính khả thi khi sạch bệnh tích ngay ở 
lần cho toa đầu tiên với liều Itraconazole 100mg 
x 2 lần x 14 ngày (11/12 ca). 
KẾT LUẬN 
Bệnh nấm thanh quản là bệnh tương đối ít 
gặp, triệu chứng nổi bật chiếm tuyệt đối (100%) 
là ho và khàn tiếng, thường gặp ở những người 
có tiếp xúc trực tiếp với môi trường có thể có 
nấm (nông dân, bán hoa, cây cảnh), thể trạng 
kém (bệnh, HIV, bệnh thận hoặc gan mãn tính), 
đa số trong số họ đã dùng nhiều thuốc kháng 
sinh uống và đặc biệt là thuốc có corticoids dưới 
dạng xịt họng thường xuyên. 
Có nhiều loại thuốc kháng nấm tuy nhiên 
đều có độc tính cao cho gan, vì vậy không dùng 
cho những bệnh nhân bị bệnh gan và phải kiểm 
tra chức năng gan mỗi từ 1 đến 3 tháng. Một 
trong những thuốc dùng đường uống có hiệu 
quả cho nhiễm nấm thanh quản là Itraconazole. 
TÀI LIÊU THAM KHẢO 
1. Mehanna H M., Kuo T, Chaplin J, Taylor G(2004): “Fungal 
laryngitis in immunocompetent patients” - The Journal of 
Laryngology & Otology / Volume 118 / Issue 05 / May, pp 379-
381 
2. Merati AL (2010), “Acute and chronic laryngitis”. Cummings 
“Otolaryngology: Head & Neck Surgery”. 5th ed. Philadelphia, 
PA: Elsevier Mosby; chap 63. 
3. Nguyên Diễn “Nguyên nhân bị nấm thanh quản” - 
4. Nguyễn Hữu Nghĩa (2012), “Bệnh nấm họng thanh quản và sử 
dụng thuốc điều trị” - Sức khỏe và đời sống, 
tri/benh-nam-hong-thanh-quan-va-su-dung-thuoc-dieu-tri 
5. Phạm Bích Đào (2008) “Nấm thanh quản - Bệnh của môi trường 
ô nhiễm”.  
nam-thanh-quan-benh-cua-moi-truong-o-nhiem.htm 
6. Ray S (2008), A Masood, J Pickles and I Moumoulidis: “ Severe 
laryngitis following chronic anabolic steroid abuse” - The 
Journal of Laryngology & Otology / Volume 122 / Issue 03, pp 
230 - 232 
Ngày nhận bài báo: 22/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 16/12/2013 
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nhan_12_truong_hop_nam_thanh_quan_tai_phong_kham_tai_mui_hon.pdf nhan_12_truong_hop_nam_thanh_quan_tai_phong_kham_tai_mui_hon.pdf