Nhân 2 trường hợp ung thư họng miệng và hạ họng
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Ở 2 trường hợp trên đều được đặt ống nuôi
ăn qua mũi dạ dày và được mở khí quản, quá
trình hậu phẫu không ghi nhận máu tụ vùng cổ.
Sau 1 tuần, 2 trường hợp được nội soi họng
thanh quản kiểm tra: thấy không dấu hiệu xì dò,
phản xạ đóng nắp thanh môn và chức năng dây
thanh hoạt động tốt tiến hành rút canulle mở
khí quản, sau rút bệnh nhân thở bình thường,
không có dấu hiệu khó thở.
Sau 10 ngày, 2 trường hợp được rút ống nuôi
ăn qua mũi dạ dày và bắt đầu tập ăn uống qua
đường tự nhiên, không ghi nhận rối loạn phản
xạ nuốt và viêm phổi hít.
Sau 2 tuần hậu phẫu, bệnh nhân ổn định,
được hội chẩn với khoa Ung bướu lập kế hoạch
điều trị và xạ trị hỗ trợ.
Sau 1 tháng phẫu thuật: bệnh nhân ăn uống
được, không sặc, không còn khạc máu, không
dấu hiệu dò họng ra da.
Ở trường hợp ung thư đáy lưỡi: các cực của
đáy lưỡi tái tạo với thân xương móng lành tốt và
phản xạ đóng nắp thanh môn bình thường.
Ở trường hợp ung thư thành sau họng:
mảnh ghép da ở thành sau họng có màu trắng
hồng, các bờ liền lạc với niêm mạc còn lại của
thành sau họng, không có hiện tượng hoại tử
một phần hoặc toàn phầu qua 1 tuần, 2 tuần, 1
tháng.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 137 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân 2 trường hợp ung thư họng miệng và hạ họng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 340
NHÂN 2 TRƯỜNG HỢP UNG THƯ HỌNG MIỆNG VÀ HẠ HỌNG
Nguyễn Thị Mộng Bình*, Trần Phan Chung Thủy*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật mổ lấy ung thư vùng họng miệng và hạ họng.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu trên 2 trường hợp ung thư vùng họng miệng và hạ họng điều trị
tại khoa Tai Mũi Họng, Bệnh viện Chợ Rẫy: 1 trường hợp ung thư vùng đáy lưỡi, 1 trường hợp ung thư thành
sau họng được phẫu thuật lấy u tại khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Chợ Rẫy tháng 10/2012 và tháng 1/2013. Cả 2
trường hợp nhập viện vì nuốt khó và khạc máu, kết quả giải phẫu bệnh lý carcinoma tế bào gai biệt hóa trung
bình, chẩn đoán giai đoạn T3N0M0.
Kết quả và bàn luận: Sau mổ, bệnh nhân không còn khạc máu, không khó thở khi gắng sức, ăn uống được.
Kết luận: Ung thư vùng họng miệng và hạ họng có thể được tiến hành bằng phẫu thuật mổ lấy u qua đường
mở họng.
Từ khóa: Ung thư họng miệng, ung thư hạ họng, mở họng bờ trên xương móng, da đùi.
ABSTRACT
OROPHARYNGEAL AND HYPOPHARYNGEAL CANCER: TWO CASES
Nguyen Thi Mong Binh, Tran Phan Chung Thuy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 340-346
Objective: Evaluate the results of taking out the oropharyngeal and hypopharyngeal cancer by
pharyngotomy.
Materials and method There are 2 methods in treating the oropharyngeal and hypopharyngeal cancer:
either chemo-radiotherapy or resection of tumour and chemo-radiotherapy after that. Several authors in the world
agree with resection of the tumour first. We present two cases: one cancer of the base of tonge, one cancer of the
posterior hypopharyngeal at the ENT Department of Cho Ray Hospital on November 2012 and January 2013.
The chief complaints of these patients are recurrent hemoptysis, dysphagya. The results of biopsy are squamous
cell carcinoma moderated diffrerentiation. Stage T3N0MX.
Result and discussion: Post-operation, the patients can eat and drink normally and stop expectorating
blood.
Conclusion: The oropharyngeal and hypopharyngeal cancer can be resected by pharyngotomy.
Key words: Oropharyngeal cancer, hypopharyngeal cancer, pharyngotomy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc điều trị ung thư đáy lưỡi và ung thư
thành sau họng hiện vẫn còn nhiều quan điểm.
Một số tác giả ghi nhận hướng lấy khối u bằng
phương pháp phẫu thuật đem lại khả năng sống
còn cao hơn và cho bệnh nhân có được chất
lượng cuộc sống tốt hơn: về chức năng nuốt,
chức năng nói sau phẫu thuật.
Qua nghiên cứu về lịch sử mở họng bờ trên
xương móng, tác giả Blassingame ghi nhận rằng
nhà giải phẫu học Vital de Cassis đã mô tả
đường vào đáy lưỡi qua thành trước họng vào
năm 1826. Malgaine, vào năm 1834, đã đề xuất
hướng tiếp cận thanh thiệt và đáy lưỡi qua
đường bờ trên xương móng qua nghiên cứu trên
xác. Jeremitsch (1895) là phẫu thuật viên đầu tiên
* Khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Nguyễn Thị Mộng Bình; ĐT: 0913652248; Email: mongbinhdr@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 341
sử dụng đường tiếp cận này. Quyết định này của
Jeremitsch dựa trên lần quan sát một bệnh nhân
rạch cổ tự tử. Đường rạch cổ này gần tương tự
như đường mở họng qua bờ trên xương móng.
Jeremitsch nhận thấy với đường rạch này: máu
chảy ít, không có thần kinh bị tổn thương, đường
thở và vết thương lành tốt(1,4,5).
Những năm đầu 1900, Hoffmann sử dụng
đường tiếp cận này và báo cáo thành công. Tuy
nhiên, Grũnwald, một trong những tác giả có
tầm ảnh hưởng lớn thời đó, đã không ghi nhận
lại thành công này. Do đó, kỹ thuật này không
được áp dụng thời điểm này.
Tới tận năm 1974, Barbosa, nước Brazil, mô
tả kỹ thuật mở họng bờ trên xương móng trong
cuốn sách của ông. Moore và Calcaterra đã báo
cáo sử dụng phương pháp này thành công trên
bệnh nhân ung thư đáy lưỡi T3 (2,1).
Trong nghiên cứu của tác giả Myers, 13 cas
ung thư tế bào gai đáy lưỡi T1/T2 đều được phẫu
thuật qua đường bờ trên xương móng. Nếu bệnh
nhân có di căn hạch sẽ được kết hợp nạo vét
hạch cổ và xạ trị hoặc hóa trị hỗ trợ. Kết quả của
lô nghiên cứu này: các bệnh nhân được rút
canule trước 3 tuần sau phẫu thuật. 13 bệnh
nhân có thể ăn bình thường sau 2 tháng. Theo
dõi lâu dài, cân nặng các bệnh nhân được ổn
định, không ghi nhận di chứng nuốt sặc mạn
tính cần cắt thanh quản toàn phần. Bệnh nhân
phát âm người nghe có thể hiểu được. Kết quả
này tương tự với kết quả nghiên cứu của tác giả
Zeitels và cs ở những bệnh nhân được điều trị
tổn thương còn giới hạn ở đáy lưỡi qua đường
trên xương móng(1,5).
Kỹ thuật mổ qua đường trên xương móng
còn được áp dụng để lấy những ung thư tuyết
nước bọt ở đáy lưỡi cũng như ung thư tế bào gai
giai đoạn sớm ở thành sau họng. Việc lấy khối u
thành sau họng và hạ họng có thể sử dụng bởi
kỹ thuật này. Việc đóng niêm mạc thành sau
họng ngay thì đầu tiên bằng cân trước cột sống
hoặc mảnh ghép da(5,1).
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi trình bày 2 trường hợp ung thư
họng miệng được điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy
10/2012 và 01/2013. Trong đó có 1 trường hợp
ung thư đáy lưỡi, một trường hợp ung thư thành
sau họng.
Ung thư đáy lưỡi
BN nam, 65 tuổi, nhập viện vì khạc ra máu.
Triệu chứng cơ năng: nuốt khó và khó thở
khi gắng sức.
Triệu chứng thực thể: giọng ngậm hạt thị, u
vùng đáy lưỡi kích thước 5 x 6 x 8 cm, mật độ
chắc, bề mặt gồ ghề, dễ chảy máu. Hạch cổ 2 bên
chưa sờ thấy.
Hình 1: Hình ảnh nội soi u đáy lưỡi lấp gần đầy eo họng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 342
Hình ảnh nội soi: u to vùng đáy lưỡi đè xép
nắp thanh quản.
Kết quả MRI: một khối choán chỗ lớn ở 1/3
sau đáy lưỡi khoảng 6 x7 x8 cm.
Xạ hình giáp: Tuyến giáp có hình dạng và vị
trí bình thường, kích thước không to, phân bố
phóng xạ tương đối đồng đều, không thấy vùng
hấp thu phóng xạ bất thường
Xét nghiệm T3, T4, TSH: bình thường
Giải phẫu bệnh: carcinoma tế bào gai biệt
hóa trung bình
Chẩn đoán: ung thư đáy lưỡi T3 N0 M0
Phương pháp phẫu thuật: mở khí quản (hình
3), nạo vét trên cơ vai móng 2 bên (hình 4), mổ
lấy u qua đường mở họng xuyên bờ trên xương
móng (hình 5).
Hình 2: Hình ảnh MRI khoán choán chỗ ở đáy lưỡi đè lên nắp thanh thiệt
Hình 3: Mở khí quản
Hình 4: Nạo vét hạch cổ 2 bên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 343
Hình 5: mở họng đường giữa
Hình 6: Kết quả sinh thiết lạnh các biên phẫu thuật
Hình 7: Khâu phần còn lại của đáy lưỡi vào thân
xương móng
Hình 8: Tạo hình phần trước của lưỡi
Kết quả: Bệnh nhân sau mổ không còn khạc
máu, hết khó thở khi gắng sức, ăn uống được,
phát âm bình thường.
Phương pháp mổ lấy u đáy lưỡi qua mở
họng đường bờ trên xương móng có thể áp dụng
để phẫu thuật cắt bỏ ung thư đáy lưỡi T1, T2, T3
Ung thư thành sau họng:
Bệnh nhân nam, 41 tuổi, nhập viện vì nuốt
vướng.
Triệu chứng cơ năng: nuốt vướng, khạc máu
Triệu chứng thực thể: không hạch cổ
Soi thành sau họng: u sùi, dễ chảy máu, kích
thước 6 x4 x2cm
Hình 9: Hình ảnh nội soi u thành sau họng.
MRI: khối choán chỗ thành sau họng 7x 5 x 2
cm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 344
Hình 10: hình ảnh MRI u thành sau họng
Giải phẫu bệnh: carcinoma tế bào gai biệt
hóa trung bình xếp độ 2 mô học.
Chẩn đoán: Ung thư thành sau họng T3 N0
M0 (giai đoạn 3).
Phương pháp phẫu thuật: mở khí quản (hình
12), nạo vét hạch cổ chức năng 2 bên, mở họng
bên lấy u, tái tạo thành sau họng bằng ghép da
đùi (hình 13, hình 14).
Hình 11: kết quả giải phẫu bệnh u thành sau
họng
Hình 12: Mở họng bên
Hình 13: mảnh ghép da đùi
Hình 14: Cố định mảnh ghép mảnh da đùi vào thành
sau họng bằng chỉ khâu monocryl 4-0
Sau mổ, bệnh nhân được sử dụng kháng
sinh phổ rộng tĩnh mạch trong 2 tuần lễ, thời
gian trung bình rút ống dẫn lưu sau 4 ngày, rút
canulle sau 10 ngày, rút ống nuôi ăn qua mũi dạ
dày sau 2 tuần.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 345
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Ở 2 trường hợp trên đều được đặt ống nuôi
ăn qua mũi dạ dày và được mở khí quản, quá
trình hậu phẫu không ghi nhận máu tụ vùng cổ.
Sau 1 tuần, 2 trường hợp được nội soi họng
thanh quản kiểm tra: thấy không dấu hiệu xì dò,
phản xạ đóng nắp thanh môn và chức năng dây
thanh hoạt động tốt tiến hành rút canulle mở
khí quản, sau rút bệnh nhân thở bình thường,
không có dấu hiệu khó thở.
Sau 10 ngày, 2 trường hợp được rút ống nuôi
ăn qua mũi dạ dày và bắt đầu tập ăn uống qua
đường tự nhiên, không ghi nhận rối loạn phản
xạ nuốt và viêm phổi hít.
Sau 2 tuần hậu phẫu, bệnh nhân ổn định,
được hội chẩn với khoa Ung bướu lập kế hoạch
điều trị và xạ trị hỗ trợ.
Sau 1 tháng phẫu thuật: bệnh nhân ăn uống
được, không sặc, không còn khạc máu, không
dấu hiệu dò họng ra da.
Ở trường hợp ung thư đáy lưỡi: các cực của
đáy lưỡi tái tạo với thân xương móng lành tốt và
phản xạ đóng nắp thanh môn bình thường.
Ở trường hợp ung thư thành sau họng:
mảnh ghép da ở thành sau họng có màu trắng
hồng, các bờ liền lạc với niêm mạc còn lại của
thành sau họng, không có hiện tượng hoại tử
một phần hoặc toàn phầu qua 1 tuần, 2 tuần, 1
tháng.
Hình 15: hậu phẫu soi họng sau 1 tuần
Hình 16: hậu phẫu soi họng sau 1 tháng
So sánh với nghiên cứu của tác giả Myers (1),
13 cas ung thư tế bào gai đáy lưỡi T1/T2 đều
được phẫu thuật qua đường bờ trên xương
móng. Nếu bệnh nhân có di căn hạch sẽ được kết
hợp nạo vét hạch cổ và xạ trị hoặc hóa trị hỗ trợ.
Kết quả của lô nghiên cứu này: các bệnh nhân
được rút canule trước 3 tuần sau phẫu thuật. 13
bệnh nhân có thể ăn bình thường sau 2 tháng.
Theo dõi lâu dài, cân nặng các bệnh nhân được
ổn định, không ghi nhận di chứng sặc mạn tính
cần cắt thanh quản toàn phần. Bệnh nhân phát
âm người nghe có thể hiểu được. Kết quả này
tương tự với kết quả nghiên cứu của tác giả
Zeitels và cs (2) ở những bệnh nhân được điều trị
tổn thương còn giới hạn ở đáy lưỡi qua đường
trên xương móng.
KẾT LUẬN
Ung thư thành sau họng và ung thư đáy lưỡi
ở giai đoạn 3 trở xuống có thể được phẫu thuật
lấy u qua đường mở họng.
Ung thư đáy lưỡi còn khu trú ở T1, T2, T3 có
thể mổ lấy u và đóng họng ngay được mà vẫn
duy trì được chức năng nuốt và nói của lưỡi.
Mảnh ghép da đùi có thể được xem là 1
trong những phương pháp tái tạo mất chất
thành sau họng.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 346
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Babin R, Calcaterra TC (1976): The lip- splitting approach to
resection of oropharyngeal cancer. J Surg Oncol 8: 433-436.
2. DeSanto LW, Thawley SE (1987): Treatment of tumors of the
oropharynx. In Thawley S. Panje W (eds): Comprehensive
Management of Head and Neck Tumors. Philadelphia, WB
Saunders, pp 699-755.
3. Gopalan KN, Primuharsa Putra SH, Kenali MS (2003):
Suprahyoid pharyngotomy for base of tongue carcinoma. Med J
Malaysia 58: 617-620.
4. Moore DM, Calcaterra TC (1990): Cancer of the tongue base
treated by a transpharyngeal approach. Ann Otol Rhinol
Laryngol 99: 300-303.
5. Sessions DB(1983) : surgical resection and reconstruction for
cancer of the base of the tongue. Otolaryngol Clin North Am 16:
309-329.
Ngày nhận bài: 14/03/2013
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 25/08/2013
Ngày bài báo được đăng: 30/05/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_2_truong_hop_ung_thu_hong_mieng_va_ha_hong.pdf