Phân quyền cho chính quyền địa phương
Phân quyền, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm đang là xu hướng tất yếu trong việc tổ
chức chính quyền địa phương trên thế giới48.
Nguyên tắc này cũng đã được ghi nhận tại
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015. Sự tự chủ này phải nằm trong khuôn
khổ cơ quan nhà nước trung ương cho phép.
Luật Thủ đô năm 2012 là một minh chứng,
trong đó Hội đồng nhân dân (HĐND) thành
phố Hà Nội được được quy định tiền phạt
VPHC ở mức cao hơn tối đa hai lần mức do
Chính phủ quy định49.
Vậy, liệu chính quyền địa phương
được phân quyền và tự chủ mà không được
đưa ra những quy phạm giới hạn quyền ở
mức độ khác với quy định của trung ương?
Chúng tôi cho rằng, phân quyền về nhiệm
vụ, quyền hạn tất yếu phải đi kèm sự tự chủ,
tự chịu trách nhiệm trong việc ban hành các
quy phạm pháp luật đảm bảo quyền cũng
như giới hạn quyền. Do đó, sẽ bất hợp lý nếu
không cho phép chính quyền địa phương
được ban hành quy định giới hạn quyền50.
HĐND cấp tỉnh có thể ban hành nghị quyết
để quy định về các “biện pháp có tính chất
đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương”51. Nhiều học giả
đã phân tích, sự thiếu vắng các địa phương
với quy chế đặc thù, tự chủ cao trong việc
tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta
đã dẫn đến hậu quả tất yếu là “tình trạng ‘xé
rào’ quy định vượt luật”52. Sự “xé rào” ở địa
phương tất yếu liên quan đến việc bảo đảm
cao hơn đối với một số quyền53 bên cạnh việc
hạn chế nhiều hơn đối với một số quyền54 so
với văn bản của cơ quan lập pháp.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận diện các mô thức giới hạn quyền con người trong pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM1
1 Bài viết là kết quả từ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2016 - 2017: “Quy định về hạn chế quyền con người,
quyền công dân - Thực trạng và giải pháp” của Viện Nghiên cứu Lập pháp, do GS.,TS. Phan Trung Lý làm Chủ nhiệm.
Bùi Tiến Đạt*
* TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tóm tắt:
Bài viết nhận định, theo kinh nghiệm phổ biến trên thế giới,
các quy phạm dưới hiến pháp có thể giới hạn các quyền hiến
định, vì vậy chúng ta phải nhận biết mức độ bảo vệ của quyền
trên cơ sở pháp luật. Tiếp đó, bài viết phân tích bốn mô thức
chính của việc giới hạn quyền con người trong pháp luật Việt
Nam. Cuối cùng, nghiên cứu này nêu ra các vấn đề cần quan
tâm trong việc ủy quyền quy định về giới hạn quyền trong thực
tiễn pháp luật hiện nay.
Abstract:
This article provides conclusions that, based on the popular
practices in the world, the infra-constitutional norms
may normally limit the rights under the constitutions. It
is necessary to recognize the extent of rights protection
according to the laws. Then, the article also provides the
analysis of four major types of the limitation on human
rights in Vietnam. Finally, the article identifies a number of
problems of delegated authority to prescribe limitation-on-
rights norms in current law-making practice.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền hiến định; giới hạn quyền; lập
pháp ủy quyền
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 10/09/2017
Biên tập: 21/09/2017
Duyệt bài: 28/09/2017
Article Infomation:
Keywords: constitutional rights; limitation
on rights; delegated legislation
Article History:
Received: 10 Sep. 2017
Edited: 21 Sep. 2017
Appproved: 28 Sep. 2017
NHẬN DIỆN CÁC MÔ THỨC GIỚI HẠN QUYỀN CON NGƯỜI
1. Quy phạm dưới Hiến pháp và việc giới
hạn các quyền hiến định
Một quyền hiến định được quan niệm
như một nguyên tắc pháp lý, theo đó việc thực
hiện quyền này chỉ hướng tới mức độ thực
hiện lớn nhất có thể và được nhận thức và
áp dụng tùy thuộc vào những hoàn cảnh
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 02(354) T01/2018
cụ thể2. Theo quan điểm này, mức độ thực
hiện một quyền hiến định thường hẹp hơn
phạm vi của quyền đó mà Hiến pháp nêu
ra. Hay nói cách khác, mức độ bảo vệ các
quyền hiến định thường bị giới hạn. Theo
cách hiểu phổ biến trên thế giới, sự hạn
chế/giới hạn đối với một quyền con người
nào đó được hiểu là việc Nhà nước không
cho phép các chủ thể thụ hưởng quyền có
thể thực hiện quyền đó ở mức độ tuyệt đối3.
Nếu Nhà nước không đặt ra quy phạm dưới
hiến pháp để giới hạn phạm vi áp dụng một
quyền hiến định nào đó, về nguyên tắc, chủ
thể thụ hưởng có thể thực hiện quyền đó một
cách tuyệt đối, hay nói cách khác, quyền đó
không bị hạn chế. Phần lớn các quyền hiến
định không mang tính tuyệt đối, tức chúng
hàm ý hướng tới một chuẩn mực lý tưởng,
nhưng trên thực tế nhà nước nào cũng phải
dùng những quy phạm dưới hiến pháp để đặt
ra một giới hạn nhất định cho việc thực hiện
các quyền đó.
Việc nhận thức các quyền hiến định
không chỉ dựa duy nhất vào lời văn hiến
pháp mà cần theo tư duy hai bước. Theo lý
thuyết này, một quyền hiến định được nhận
thức dựa vào phạm vi và mức độ bảo vệ.
Bước thứ nhất, hiến pháp ghi nhận phạm
vi của quyền; bước thứ hai, các quy phạm
dưới hiến pháp xác định mức độ bảo vệ
quyền bằng việc áp dụng giới hạn đối với
các quyền tương đối4. Các quy phạm dưới
hiến pháp này phản ánh khái niệm pháp luật
2 Robert Alexy, A Theory of Constitutional Rights, Julian Rivers dịch (Oxford: Clarendon Press, 2002), tr. 47-9. Ở Việt
Nam, một số quyền thường hay được xem xét như nguyên tắc (ví dụ, quyền giả định/suy đoán vô tội - xem: Đào Trí Úc,
Nguyên tắc suy đoán vô tội – nguyên tắc hiến định quan trọng trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015, Tạp
chí Kiểm sát, số 2/2017, tr. 37).
3 Aharon Barak, Proportionality: Constitutional Rights and Their Limitations (Doron Kalir dịch, Cambridge University
Press, 2012), tr. 102.
4 Aharon Barak, tlđd 2, tr. 19-21.
5 Nguyên văn tiếng Anh: “In the exercise of his rights and freedoms, everyone shall be subject only to such limitations
as are determined by law solely for the purpose of securing due recognition and respect for the rights and freedoms of
others and of meeting the just requirements of morality, public order and the general welfare in a democratic society”
(phần in nghiêng do tác giả nhấn mạnh).
6 Richard Clayton and Hugh Tomlinson (eds), The Law of Human Rights (2nd edn, Oxford University Press 2009), tr.
383.
7 “Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện” (khoản 1 Điều 3 Luật Ban hành
VBQPPL 2015).
tại khoản 2 Điều 29 của Tuyên ngôn toàn thế
giới về Quyền con người năm 1948: “Trong
việc thực thi các quyền và tự do, mọi người
chỉ phải chịu những giới hạn do pháp luật
quy định, nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa
nhận và tôn trọng quyền, và quyền tự do của
những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn
những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự
công cộng, và nền an sinh chung trong một
xã hội dân chủ”5.
Tòa án Nhân quyền Châu Âu đã luận
giải rằng, khái niệm pháp luật trong cụm từ
“determined by law” không chỉ là các đạo
luật của nghị viện (statute law) mà còn bao
gồm luật của Cộng đồng Châu Âu (European
Community law), các quy phạm phi đạo
luật của cơ quan hành chính (non-statutory
regulations), giải thích luật từ các bản án
của tòa án (common law) và các quy phạm
khác do cơ quan nhà nước đặt ra (rules of
a national body). Tòa án Nhân quyền Châu
Âu nêu ra ba yêu cầu của một quy phạm
được coi là pháp luật như sau: (1) sự hạn
chế quyền phải có căn cứ từ pháp luật quốc
nội; (2) pháp luật đó phải có thể tiếp cận
được; (3) pháp luật đó phải được thể hiện rõ
ràng để có thể dự đoán được6. Có thể thấy
rằng, khái niệm pháp luật của Tòa án Nhân
quyền Châu Âu tương đồng với khái niệm
pháp luật theo nghĩa “quy phạm pháp luật” ở
Việt Nam7. Theo đó, các quy phạm pháp luật
được chứa đựng bởi các VBQPPL không
chỉ của cơ quan lập pháp mà còn của các
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 02(354) T01/2018
cơ quan nhà nước khác8. Về bản chất, khái
niệm quy phạm pháp luật một mặt nhằm
bảo đảm các quyền cá nhân, mặt khác cũng
đặt ra các nghĩa vụ - tức là hạn chế quyền.
Do đó, Jean-Claude Ricci đã có lý khi cho
rằng “quy phạm pháp luật có mục đích là
đảm bảo sự cân bằng nội tại giữa quyền và
nghĩa vụ”9.
2. Các mô thức giới hạn quyền con người
trong pháp luật Việt Nam
Sự giới hạn các quyền con người vốn
đã diễn ra theo nhiều hình thức khác nhau
trong pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, cần
lưu ý rằng, cho đến nay các hình thức giới
hạn đó ít khi được tiếp cận từ lý thuyết giới
hạn quyền một cách tổng thể, mà thường
được xem xét từ các góc độ vi phạm pháp
luật (VPPL), trách nhiệm pháp lý, cưỡng
chế nhà nước, cấp phép, đăng ký v.v.. Vì lẽ
đó, phần này nhận diện và phân tích các mô
thức giới hạn quyền con người trong pháp
luật Việt Nam.
2.1. Pháp luật cấm thực hiện hành vi
VPPL và áp dụng trách nhiệm pháp lý
Một khi pháp luật đưa ra quy định cấm
thực hiện một hành vi, các chủ thể pháp lý
trong xã hội được yêu cầu phải kiềm chế thực
hiện hành vi đó. Đây chính là yêu cầu tuân
8 Xem: Điều 4 Luật Ban hành VBQPPL 2015 về hệ thống VBQPPL.
9 Jean-Claude Ricci, Nhập môn luật học, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 72.
10 Hoàng Thị Kim Quế, Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015, tr. 493.
11 Như trên, tr. 396.
12 Các tội phạm (vi phạm hình sự) và trách nhiệm hình sự được quy định tại BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung 2017).
13 Các VPHC và trách nhiệm hành chính được quy định tại các nghị định quy định về xử phạt VPHC trong những lĩnh vực
cụ thể (số lượng nghị định dạng này rất lớn, khoảng hơn 100 nghị định – con số năm 2007). Theo trang mạng www.
thuvienphapluat.vn, trong khoảng thời gian 4 năm kể từ ngày Luật Xử lý VPHC 2012 có hiệu lực đến nay (01/7/2013
đến 19/8/2017), Chính phủ đã ban hành 77 nghị định và các Bộ và cơ quan ngang Bộ đã ban hành 45 thông tư và 01
thông tư liên tịch về xử phạt VPHC.
14 Vi phạm kỷ luật và trách nhiệm kỷ luật được quy định tại Luật Cán bộ, công chức 2008, Luật Viên chức 2010 và các
văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết.
15 Vi phạm dân sự và trách nhiệm dân sự được quy định tại Bộ luật Dân sự 2015.
16 Điều 1 BLHS nêu: “Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật,
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”.
17 “Để đấu tranh phòng ngừa và chống VPHC, góp phần giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý
của Nhà nước”.
18 Ví dụ, Nghị định 81/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý VPHC nêu yêu cầu: “Hành vi
VPHC phải được mô tả rõ ràng, cụ thể để có thể xác định và xử phạt được trong thực tiễn”.
thủ pháp luật10. Các quy phạm cấm được thể
hiện rõ nét thông qua những hành vi bị coi
là VPPL (hành vi vi phạm quy phạm cấm
chính là VPPL), thường được xếp vào bốn
nhóm11: vi phạm hình sự,12 vi phạm hành
chính (VPHC),13 vi phạm kỷ luật,14 vi phạm
dân sự15.
Lý do chính đáng của quy phạm cấm
Việc Nhà nước đặt ra các quy phạm
cấm đoán phải có lý do chính đáng. Nhiệm
vụ của Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS)
thể hiện lý do chính đáng của việc giới hạn
các quyền con người16. Lý do chính đáng
để hạn chế quyền cũng được nêu trong lời
nói đầu của Pháp lệnh Xử lý VPHC năm
2002 trước đây17. Mục đích này tuy không
còn được trực tiếp quy định tại Luật Xử lý
VPHC năm 2012, nhưng vẫn được xác nhận
trong chính sách xây dựng luật. Các văn bản
pháp luật khác, dù có thể không nêu lý do,
mục đích chính đáng của các quy phạm cấm,
vẫn luôn gián tiếp xác định tính chính đáng
này trong quá trình xây dựng chính sách.
Những VPPL là sự giới hạn quyền
mang tính cụ thể
Phần lớn các hành vi vi phạm hình
sự, VPHC và vi phạm kỷ luật thể hiện sự
hạn chế quyền mang tính cụ thể18. Tức là về
cơ bản, sự diễn đạt của quy phạm pháp luật
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 02(354) T01/2018
trong các lĩnh vực này giúp chúng ta có thể
nhận biết được những hành vi nào không
được phép thực hiện. Qua đó, chúng ta có
thể biết quyền và tự do cá nhân bị giới hạn
trong chừng mực nào.
Những VPPL là sự giới hạn quyền
mang tính trừu tượng
Trong khi pháp luật hình sự và pháp
luật xử phạt VPHC có thể định ra từng
vi phạm hình sự và VPHC cụ thể, trong
lĩnh vực pháp luật dân sự, Bộ luật Dân sự
(BLDS) thường chỉ ghi nhận những nguyên
tắc chung trong việc thực hiện và giới hạn
quyền dân sự vì lợi ích chung của xã hội (bao
hàm cả đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác). Trong thực tiễn ở nhiều
quốc gia, tòa án có vai trò rất quan trọng khi
đưa ra những án lệ giải thích các trường hợp
mà quyền dân sự bị giới hạn vì lợi ích chung
của xã hội. Vì lẽ đó, phán quyết của tòa án
cũng là một dạng quy phạm pháp luật dưới
hiến pháp được phép giới hạn quyền, như
giải thích của Tòa án Nhân quyền Châu Âu
nêu trên.
BLDS năm 2015 đã thể hiện tinh thần
của chế định quyền con người, quyền công
dân trong Hiến pháp năm 2013. Theo đó,
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự
không được đi ngược lại lợi ích công cộng.
BLDS năm 2015 khẳng định các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật dân sự, trong số đó có
hai nguyên tắc thể hiện khá rõ tinh thần của
Hiến pháp là: “việc xác lập, thực hiện, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm
phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích
công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác” (Khoản 4 Điều 3) và “mọi cam
kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực
thực hiện đối với các bên và phải được chủ
thể khác tôn trọng” (Khoản 2 Điều 3).
Đặc biệt, BLDS năm 2015 dành
riêng một điều (Điều 10) quy định về giới
19 Các quy phạm cấm dạng này xuất hiện rất phổ biến trong các VBQPPL. Ví dụ: các ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh
(Điều 6 Luật Đầu tư); ngành nghề tư nhân không được kinh doanh (Nghị định 94/2017/NĐ-CP về hàng hóa, dịch vụ,
địa bàn thực hiện độc quyền nhà nước trong hoạt động thương mại); các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động trợ
giúp pháp lý (Điều 6 Luật Trợ giúp pháp lý 2017).
hạn việc thực hiện quyền dân sự: “cá nhân,
pháp nhân không được lạm dụng quyền dân
sự của mình gây thiệt hại cho người khác,
để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực
hiện mục đích khác trái pháp luật” (khoản
1). Như vậy, có thể thấy Điều 3 và Điều 10
BLDS đã thẩm thấu nguyên tắc giới hạn
quyền con người của Hiến pháp năm 2013.
Tiếp đó, BLDS nêu ra điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự trong mối liên hệ với
lợi ích chung của xã hội, bao gồm yêu cầu:
“mục đích và nội dung của giao dịch dân sự
không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội” (điểm c khoản 1 Điều 117).
BLDS quy định “giao dịch dân sự có mục
đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật,
trái đạo đức xã hội thì vô hiệu” (Điều 123).
Ở đây, vi phạm điều cấm của pháp luật và
trái đạo đức xã hội thể hiện sự xâm phạm
đến lợi ích công cộng. Ngoài những hạn chế
đối với quyền dân sự vì lợi ích công nêu
trên, “bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa
vụ” cũng bị hạn chế quyền của mình ở chỗ
“phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có
quyền” (khoản 1 Điều 351). Đây chính là sự
hạn chế quyền con người do xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Các hành vi bị cấm khác
Bên cạnh các hành vi bị cấm theo dạng
VPPL, pháp luật còn quy định các hành vi bị
cấm và theo đó việc thực hiện các hành vi
này có thể dẫn tới VPPL19.
Áp dụng các biện pháp trách nhiệm
pháp lý
Như đã nêu trên, khi pháp luật quy
định về các VPPL, quyền và tự do của các
chủ thể trong xã hội đã bị giới hạn - thể hiện
ở khía cạnh họ phải kiềm chế không thực
hiện những hành vi bị cấm đó. Các chủ thể
thực hiện hành vi VPPL sẽ bị áp dụng các
biện pháp trách nhiệm pháp lý - tức quyền
và tự do của họ lại bị giới hạn theo một cách
khác, gồm các biện pháp thuộc ba nhóm:
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 02(354) T01/2018
(i) buộc thực hiện hành vi;20 (ii) cấm thực
hiện hành vi;21 (iii) tước đoạt toàn bộ hoặc
hạn chế một phần quyền và tự do. Đây cũng
là ba nhóm biện pháp mang tính áp đặt của
cưỡng chế nhà nước22. Những biện pháp này
là các giới hạn quyền mang tính cụ thể vì
pháp luật nêu rõ các chế tài được áp dụng.
Cần lưu ý, các biện pháp tước đoạt toàn bộ
hoặc hạn chế một phần quyền và tự do có
thể là sự kết hợp giữa bắt buộc và cấm đoán
thực hiện hành vi23. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, các biện pháp này không nhất
thiết mang tính chất bắt buộc hoặc cấm đoán
thực hiện hành vi (ví dụ: hình phạt tử hình
tước đoạt quyền sống).
2.2 Pháp luật về các biện pháp cưỡng
chế nhà nước mang tính phòng ngừa và
ngăn chặn
Bên cạnh việc áp dụng các biện pháp
trách nhiệm pháp lý, cưỡng chế nhà nước
mang tính phòng ngừa và cưỡng chế nhà
nước mang tính ngăn chặn cũng là hai nhóm
cưỡng chế nhà nước khá phổ biến. Cưỡng
chế nhà nước mang tính phòng ngừa được
sử dụng phổ biến trong luật hành chính như
kiểm tra (giấy tờ, hàng hóa, sức khỏe, hộ
tịch, cư trú) và phong tỏa (khu vực dịch
bệnh, tai nạn)24 v.v.. Các biện pháp cưỡng
20 Ví dụ hình thức phạt tiền, các biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt VPHC.
21 Ví dụ: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm đi khỏi nơi cư trú.
22 Trần Minh Hương chủ biên, Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, 2017, tr. 137.
23 Ví dụ về tước đoạt toàn bộ: Tước quyền bầu cử, ứng cử đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước (Điều 104 Luật Thi hành
án hình sự 2010). Ví dụ về hạn chế một phần quyền và tự do: quyền tự do đi lại (hình phạt quản chế, khoản 8 Điều 3
Luật Thi hành án hình sự 2010), tự do cư trú (hình phạt cấm cư trú); quyền kinh doanh (tước quyền sử dụng giấy phép
- Điều 25 Luật Xử lý VPHC); quyền lao động (tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề - Điều 25 Luật Xử lý VPHC;
tước quyền làm việc trong cơ quan nhà nước - Điều 105 Luật Thi hành án hình sự 2010; tước quyền phục vụ trong lực
lượng vũ trang nhân dân - Điều 106 Luật Thi hành án hình sự 2010; quyền riêng tư: công bố công khai việc xử phạt
VPHC trên các phương tiện thông tin đại chúng - Điều 72 Luật Xử lý VPHC; quyền về danh dự, nhân phẩm: hình thức
xử phạt cảnh cáo trong xử phạt VPHC - Điều 22 Luật Xử lý VPHC; quyền tự do cá nhân: phạt tù có thời hạn.
24 Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013, tr. 504-506.
25 Ví dụ: khi thực hiện quyền tự do kinh doanh, doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ (Điều 8 và các điều khoản khác có
liên quan của Luật Doanh nghiệp 2014).
26 Nghị định 158/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch.
27 Nghị định 78/2015 về đăng ký doanh nghiệp.
28 Xem: Luật Cư trú 2006 (sửa đổi, bổ sung 2013).
29 Theo báo cáo gần đây của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), pháp luật hiện hành quy định: 7
ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh; 243 ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện; 19 hàng hóa cấm kinh doanh,
05 dịch vụ cấm kinh doanh; 7 hàng hóa hạn chế kinh doanh và 1 dịch vụ hạn chế kinh doanh; 92 loại hàng hóa, dịch
vụ kinh doanh có điều kiện; 20 loại hàng hóa, dịch vụ độc quyền nhà nước. Tổng số các điều kiện đầu tư kinh doanh
tương ứng với 243 ngành nghề vào khoảng 4.284, tồn tại ở hơn 230 VBQPPL khác nhau, nhiều nhất là ở nghị định với
162 văn bản. Có 15 Bộ có ban hành quy định về các điều kiện kinh doành này (xem:
doanh-nghiep-nan-long-truoc-nui-4200-dieu-kien-kinh-doanh-2017082221000941. htm).
chế nhà nước mang tính ngăn chặn thể hiện
rõ nét nhất ở chế định các biện pháp ngăn
chặn trong tố tụng hình sự và chế định các
biện pháp ngăn chặn và đảm bảo việc xử
phạt trong xử phạt VPHC.
2.3 Pháp luật đặt điều kiện, nghĩa vụ
khi thực hiện quyền
Trong việc thực hiện quyền tự do, các
chủ thể pháp lý được yêu cầu thực hiện các
nghĩa vụ pháp lý. Điều này thể hiện nguyên
lý là trừ một số trường hợp, việc thực hiện
một quyền đi kèm những nghĩa vụ nhất
định25. Những nghĩa vụ này khá đa dạng:
đăng ký (hộ tịch26, kinh doanh27, tạm trú);
khai báo (lưu trú, tạm vắng)28, thông báo
(biểu diễn, xây dựng), báo cáo (báo cáo tài
chính), làm thủ tục xin giấy phép; nộp lệ phí,
nộp hồ sơ, giấy tờ v.v..
Thực trạng về quyền tự do kinh doanh
cung cấp khá nhiều dạng giới hạn đối với
quyền này: cấm kinh doanh, hạn chế kinh
doanh, kinh doanh có điều kiện29. Chẳng
hạn, Điều 7 Luật Đầu tư 2014 quy định về
các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều
kiện. Luật cũng nêu lên mục đích chính đáng
của quy định này: “Ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện là ngành, nghề mà việc
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 02(354) T01/2018
thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong
ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý
do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng” (khoản 1 Điều 7).
Trên thực tế, các cơ quan nhà nước
đôi khi lạm dụng các lý do trên để hạn chế
quyền tự do kinh doanh. Các cơ quan nhà
nước chỉ “đơn thuần viện dẫn lý do trên để
thuyết minh sự cần thiết phải quy định về
điều kiện đầu tư kinh doanh mà không có sự
đánh giá, phân tích thêm về quy mô, mức độ
rủi ro; đánh giá, so sánh các giải pháp khác
nhau từ đó chứng minh sự cần thiết phải can
thiệp bằng quy định pháp luật”30. Xét về
phương pháp lập luận về tính cân xứng của
việc giới hạn quyền con người, các cơ quan
đó mới chỉ xem xét bài kiểm tra thứ nhất
(mục đích chính đáng) mà đã bỏ qua ba bài
kiểm tra còn lại (sự phù hợp của việc hạn
chế quyền với mục đích cần đạt được; sự
cần thiết của biện pháp hạn chế quyền nhằm
đạt mục đích; và sự cân bằng giữa lợi ích thu
được và thiệt hại từ việc hạn chế quyền)31.
2.4 Khoảng trống pháp lý
Quyền không được hiến định
Hiến pháp năm 2013 mặc dù đã có
những tiến bộ lớn trong việc hiến định về
quyền con người, quyền công dân, vẫn còn
30 Ý kiến của TS. Nguyễn Đình Cung, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng (xem:
lam-dung-tieu-chi-quoc-phong-an-ninh-de-lap-dieu-kien-kinh-doanh-20170823093835553.htm)
31 Ý kiến nêu trên của TS. Nguyễn Đình Cung liên quan đến bài kiểm tra thứ 4. Về các bài kiểm tra để đánh giá tính cân
xứng của việc giới hạn quyền con người, xem: Bùi Tiến Đạt, Hiến pháp hóa nguyên tắc giới hạn quyền con người: Cần
nhưng chưa đủ, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 6/2015.
32 PGS.TS. Vũ Công Giao đã đề xuất nghiên cứu bổ sung một số quyền vào Hiến pháp: quyền tự do tư tưởng, quyền tự do
giữ quan điểm, cấm chế độ nô lệ, nô dịch hoặc cưỡng bức lao động, quyền không bị xét xử hồi tố, quyền được yêu cầu
xem xét lại việc bắt giữ mình, quyền được im lặng hoặc không phải tự chứng minh là mình vô tội, quyền được kháng
cáo, quyền được tại ngoại chờ xét xử, quyền được sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình trong tố tụng, quyền được có và
thẩm vấn nhân chứng, quyền không bị bỏ tù vì không hoàn thành được nghĩa vụ theo hợp đồng, quyền thay thế nghĩa
vụ quân sự vì lý do lương tâm, quyền tự quyết dân tộc.
(Xem: Vũ Công Giao, Chương II – Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong cuốn “Bình luận
khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013” (Nguyễn Đăng Dung, Trịnh Quốc Toản, Đặng Minh
Tuấn đồng chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, 2016), tr. 120.
33 Một số hiến pháp khẳng định: “Việc liệt kê một số quyền trong Hiến pháp không có nghĩa là phủ nhận hay hạ thấp
những quyền khác của người dân” (Tu chính án thứ 9, Hiến pháp Hoa Kỳ); “Việc liệt kê các quyền và tự do cơ bản
trong Hiến pháp Liên bang Nga không có nghĩa vụ là phủ nhận hoặc xem nhẹ các quyền và tự do khác của con người
và công dân đã được thừa nhận rộng rãi (khoản 1 Điều 55 Hiến pháp Liên bang Nga).
34 Đây là một trong những lập luận quan trọng khiến chế định nhân quyền chưa được đưa vào Hiến pháp Australia (Hiến
pháp này mới chỉ chính thức hiến định một số quyền ít ỏi).
35 Đôi khi có những quan điểm cho rằng một quyền không tồn tại vì Hiến pháp và pháp luật không ghi nhận cụ thể (chẳng
hạn, quan điểm “Quyền im lặng không phải quyền con người” của đại biểu Quốc hội Đỗ Văn Đương (
vn/thoi-su/quyen-im-lang-co-phai-la-quyen-con-nguoi-499306.html)).
thiếu một số quyền cơ bản khi so sánh với
luật nhân quyền quốc tế và một số Hiến
pháp trên thế giới32. Một số Hiến pháp trên
thế giới đã ghi nhận nguyên tắc mặc nhiên
công nhận các quyền cơ bản: việc không
hiến định một quyền không có nghĩa quyền
đó không được pháp luật bảo vệ33. Thật vậy,
trước Hiến pháp năm 2013, quyền sống
vẫn được bảo vệ ở Việt Nam mặc dù không
được hiến định. Đồng thời, ở chiều ngược
lại, quyền sống vẫn bị hạn chế thông qua
các văn bản pháp luật dưới Hiến pháp, mà
rõ rệt nhất là BLHS đã cho phép Nhà nước
tước đoạt quyền sống thông qua hình phạt
tử hình. Do đó, việc không hiến định một
số quyền không hẳn là một vấn đề nghiêm
trọng vì suy cho cùng, các Hiến pháp không
thể hiến định đầy đủ mọi quyền con người
cơ bản, trong khi các quan niệm về quyền
con người tiếp tục phát triển34.
Tuy vậy, ở những quốc gia mà vai
trò giải thích Hiến pháp của Tòa án còn
rất hạn chế như Việt Nam, việc không hiến
định các quyền cơ bản có thể làm giảm khả
năng quyền đó được công nhận và bảo vệ
trên thực tế. Bản thân việc không hiến định
một quyền không phải là sự giới hạn quyền
đó, mà việc không hiến định có thể dẫn tới
sự giới hạn quyền tùy tiện của lập pháp (vì
không có cơ sở hiến định để đối chiếu)35.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 02(354) T01/2018
Việc thiếu vắng nguyên tắc mặc nhiên công
nhận các quyền cơ bản trong các Hiến pháp
Việt Nam từ trước tới nay làm tăng những
nguy cơ vừa nêu.
Quyền hiến định không được luật hóa
Tình trạng không có luật cụ thể hóa
quyền hiến định cũng có thể được coi là một
dạng giới hạn quyền đó. Có những quyền
hiến định không thể được bảo đảm đầy đủ
nếu không được xây dựng hành lang pháp lý
từ các quy phạm dưới hiến pháp. Hiện tượng
này có thể được so sánh với quan niệm về “lỗ
hổng pháp luật”36. Nhiều nghiên cứu đã chỉ
ra rằng: “Chỉ khi được quy định trong pháp
luật, việc tuân thủ và thực hiện các quyền con
người mới mang tính bắt buộc với mọi chủ
thể trong xã hội. Ở đây, pháp luật đóng vai
trò là công cụ giúp Nhà nước bảo đảm sự tuân
thủ, thực thi các quyền con người của các chủ
thể khác nhau trong xã hội, đồng thời cũng
là công cụ của các cá nhân trong việc bảo vệ
các quyền con người của chính họ thông qua
việc vận dụng các quy phạm và cơ chế pháp
lý quốc gia và quốc tế có liên quan”37.
Thật vậy, việc thực hiện một số quyền
hiến định (như quyền khiếu nại, quyền tố
cáo, quyền khởi kiện hành chính, quyền
tiếp cận thông tin) phụ thuộc vào sự đáp
ứng của chính các cơ quan nhà nước. Ví dụ,
trước khi Luật Tiếp cận thông tin năm 2016
và các văn bản hướng dẫn có hiệu lực pháp
luật, cơ quan nhà nước không có cơ sở pháp
lý để đáp ứng các yêu cầu cung cấp thông
tin của công dân. Vì lẽ đơn giản là các cơ
quan nhà nước chỉ được thực hiện những
việc pháp luật cho phép.
36 B. Đ. Perevalop, Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Norma, Matxcơva, 2005, tr. 244 (Dẫn theo Hoàng Thị Kim Quế,
tlđd 9, tr. 501).
37 Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con
người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 47-8.
38 Barak, tlđd 2, tr. 110-118.
39 Nguyên tắc này được áp dụng ở nhiều nước như Hoa Kỳ, Đức, Canada, Ấn Độ, và Israel (Xem: Barak, tlđd 2, tr. 112).
40 “Điều 11: Văn bản quy định chi tiết
1. VBQPPL phải được quy định, cụ thể để khi có hiệu lực thì thi hành được ngay. Trong trường hợp văn bản có điều,
khoản, điểm mà nội dung liên quan đến quy trình, quy chuẩn kỹ thuật và những nội dung khác cần quy định chi tiết
thì ngay tại điều, khoản, điểm đó có thể giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chi tiết. Văn bản quy
định chi tiết chỉ được quy định nội dung được giao và không được quy định lặp lại nội dung của văn bản được quy
định chi tiết”.
2. Cơ quan được giao ban hành văn bản quy định chi tiết không được ủy quyền tiếp.
3. Ủy quyền quy định về giới hạn quyền
Quốc hội/ Ủy ban thường vụ Quốc
hội (UBTVQH) ủy quyền quy định về giới
hạn quyền
Pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều
quốc gia cho phép một số cơ quan nhà nước
được ban hành quy định giới hạn quyền
(không giới hạn ở các đạo luật của nghị
viện). Theo đó, giới hạn quyền hiến định
được chia thành hai loại: giới hạn quyền bởi
đạo luật (limitation by statute) và giới hạn
quyền theo đạo luật (limitation according to
statute)38. Việc giới hạn quyền theo đạo luật
chỉ được phái sinh từ sự giới hạn quyền bởi
đạo luật39.
Ủy quyền lập quy
Ở Việt Nam, vấn đề giao/ủy quyền
hướng dẫn và quy định chi tiết thi hành luật
vốn đã được áp dụng lâu nay. Quốc hội và
UBTVQH thực hiện việc ủy quyền này thông
qua các điều khoản ủy quyền trong các luật
và pháp lệnh mà các cơ quan này ban hành.
Hiện nay, các khái niệm “hướng dẫn thi
hành” và “quy định chi tiết thi hành” chưa
được phân biệt rõ ràng và nhiều khi tương
đồng. Do đó, thuật ngữ “quy định chi tiết
thi hành” nhiều khi mang cả hàm ý “hướng
dẫn thi hành”. Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2015 cho
phép việc giao thẩm quyền quy định chi tiết
các VBQPPL40. Chúng tôi cho rằng, sự ủy
quyền quy định chi tiết thi hành luật bao hàm
cả khía cạnh ủy quyền ban hành hoặc cụ thể
hóa quy phạm giới hạn quyền. Quyền quy
định chi tiết thi hành luật cũng thường gắn
với quyền lập quy của cơ quan hành chính
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 02(354) T01/2018
nhà nước. Về nguyên tắc, việc lập quy phải
được cơ quan quyền lực nhà nước ủy quyền
và phải dựa trên cơ sở các VBQPPL do cơ
quan quyền lực nhà nước ban hành41. Đã có
rất nhiều lo ngại về sự tùy tiện của việc lập
quy. Nếu chúng ta có cơ chế kiểm soát hữu
hiệu về tính hợp hiến và tính hợp pháp của
lập quy, việc cho phép văn bản lập quy được
giới hạn quyền sẽ phù hợp với xu thế chung
trên thế giới.
Ủy quyền lập pháp
Bên cạnh việc ủy quyền lập quy, Việt
Nam cho phép sự tồn tại của các “nghị định
tiên phát”42 - một dạng lập pháp uỷ quyền
(delegated legislation). Khoản 3 Điều 19
Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 quy
định: “Vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền
của Quốc hội, UBTVQH nhưng chưa đủ
điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp
lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước,
quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trước khi
ban hành nghị định này phải được sự đồng
ý của UBTVQH”. Với tư cách như một đạo
luật, nghị định tiên phát có thể đưa ra những
giới hạn quyền độc lập (tức không cần trên
cơ sở một đạo luật nào).
Ủy quyền vô hạn và ủy quyền hạn chế
về nội dung được quy định chi tiết thi hành
Trong một số trường hợp, các đạo luật
41 Trần Minh Hương (chủ biên), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, 2017, tr. 122.
42 Nguyễn Cửu Việt, tlđd 22, tr. 143.
43 “Điều 87. Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
UBTVQH, Chính phủ và các cơ quan khác có thẩm quyền quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được
giao trong Luật này; hướng dẫn những nội dung cần thiết khác của Luật này để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước”.
44 Nghị định 34/2011 quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức có quy định hạn chế quyền làm việc như sau:
“Nếu công chức bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc do tham nhũng, tham ô hoặc vi phạm đạo đức công vụ thì không được
đăng ký dự tuyển vào các cơ quan hoặc vị trí công tác có liên quan đến nhiệm vụ, công vụ đã đảm nhiệm trong thời gian
có hành vi VPPL” (điểm c khoản 2 Điều 23).
45 Ví dụ, Luật Xử lý VPHC 2012 ủy quyền cho Chính phủ:
“Điều 4. Thẩm quyền quy định về xử phạt VPHC trong các lĩnh vực quản lý nhà nước và chế độ áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính
Căn cứ quy định của Luật này, Chính phủ quy định hành vi VPHC; hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục
hậu quả đối với từng hành vi VPHC; thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh và thẩm quyền lập
biên bản đối với VPHC trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước; chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính và quy
định mẫu biên bản, mẫu quyết định sử dụng trong xử phạt VPHC”.
46 Ví dụ: Khoản 3 Điều 7 Luật Đầu tư 2014:
“Điều kiện đầu tư kinh doanh đối với ngành, nghề quy định tại khoản 2 Điều này được quy định tại các luật, pháp lệnh,
nghị định và điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên. Bộ, cơ quan ngang bộ, HĐND, Ủy ban nhân
dân các cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác không được ban hành quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh”.
47 Khoản 1 Điều 5 Luật Đầu tư 2014 xác định rõ các văn bản khác không được đưa ra các ngành bị cấm kinh doanh: “Nhà
đầu tư được quyền thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề mà Luật này không cấm”.
đã ủy quyền cho các cơ quan nhà nước khác
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
cách không giới hạn. Ví dụ, Điều 87 Luật
Cán bộ, công chức năm 200843. Theo đó, các
cơ quan nhà nước không chỉ được “quy định
chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản
được giao trong Luật” mà còn được “hướng
dẫn những nội dung cần thiết khác của Luật
này để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước”.
Trên cơ sở Điều 87, Chính phủ đã ban hành
nghị định, trong đó quy định về giới hạn đối
với quyền làm việc mà Luật Cán bộ, công
chức không quy định cụ thể44.
Trong khi ủy quyền vô hạn nêu trên
mang tính cá biệt, ủy quyền hạn chế là hiện
tượng phổ biến. Các luật thường ủy quyền
cho Chính phủ quy định chi tiết thi hành về
những nội dung xác định45. Hay nói cách
khác, các cơ quan được ủy quyền chỉ được
quy định chi tiết thi hành những vấn đề được
Quốc hội giao. Thậm chí, có những luật quy
định khá rõ cơ quan nhà nước nào được
phép và cơ quan nào không được phép quy
định chi tiết46. Các luật còn có thể xác định
những vấn đề mà các văn bản khác không
được đưa ra quy định giới hạn quyền; hay
nói cách khác, các luật đó xác định tư cách
độc quyền của mình trong việc đưa ra những
giới hạn quyền về vấn đề nào đó47.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 02(354) T01/2018
Ủy quyền rộng rãi và ủy quyền chọn
lọc đối với các cơ quan được quy định chi
tiết thi hành
Điều 87 Luật Cán bộ, công chức năm
2008 nêu trên là trường hợp tiêu biểu cho sự
ủy quyền rộng rãi. Điều 87 không chỉ trao
cho UBTVQH và Chính phủ mà còn “các
cơ quan khác” trong bộ máy nhà nước thẩm
quyền quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật. Còn lại, phần lớn các luật khác chỉ ủy
quyền cho một hoặc một vài cơ quan một
cách chọn lọc (chủ yếu giao cho Chính phủ).
Phân quyền cho chính quyền địa phương
Phân quyền, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm đang là xu hướng tất yếu trong việc tổ
chức chính quyền địa phương trên thế giới48.
Nguyên tắc này cũng đã được ghi nhận tại
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015. Sự tự chủ này phải nằm trong khuôn
khổ cơ quan nhà nước trung ương cho phép.
Luật Thủ đô năm 2012 là một minh chứng,
trong đó Hội đồng nhân dân (HĐND) thành
phố Hà Nội được được quy định tiền phạt
VPHC ở mức cao hơn tối đa hai lần mức do
Chính phủ quy định49.
Vậy, liệu chính quyền địa phương
được phân quyền và tự chủ mà không được
đưa ra những quy phạm giới hạn quyền ở
mức độ khác với quy định của trung ương?
Chúng tôi cho rằng, phân quyền về nhiệm
vụ, quyền hạn tất yếu phải đi kèm sự tự chủ,
tự chịu trách nhiệm trong việc ban hành các
quy phạm pháp luật đảm bảo quyền cũng
48 Nguyễn Đăng Dung và Đặng Minh Tuấn (đồng chủ biên), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2014, tr. 698.
49 “HĐND thành phố Hà Nội được quy định mức tiền phạt cao hơn nhưng không quá 02 lần mức tiền phạt tối đa do Chính
phủ quy định đối với một số hành vi VPHC tương ứng trong các lĩnh vực văn hóa, đất đai và xây dựng” (Điểm a khoản
2 Điều 20 Luật Thủ đô 2012).
50 Đôi khi, các văn bản thể hiện tinh thần cơ quan hành chính được cụ thể hóa nhưng không được hạn chế quyền. Ví dụ,
điểm b Điều 4 Nghị định 31/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú nêu ra trách nhiệm
của các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp và công dân trong việc thực hiện các quy định về hộ khẩu là: “Ban hành
các VBQPPL, văn bản khác thuộc thẩm quyền có liên quan đến quy định về hộ khẩu phải không trái với Luật Cư trú và
các văn bản hướng dẫn Luật Cư trú; không được làm hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân”.
51 Khoản 4 Điều 27 Luật Ban hành VBQPPL 2015.
52 Nguyễn Đăng Dung và Đặng Minh Tuấn (đồng chủ biên), tlđd 47, tr. 735.
53 Thành phố Hồ Chí Minh vừa đề xuất thực hiện cơ chế đặc thù cho ngành giáo dục và đào tạo (xem:
chinh-tri-xa-hoi/thoi-su-suy-nghi/20170823/giao-duc-cua-tphcm-dang-cho-doi-gi/1373494.html).
54 Ví dụ về ý tưởng cấm xe máy ở thành phố Hồ Chí Minh, xem:
ong-cam-xe-may-o-tp-hcm-3613532.html).
như giới hạn quyền. Do đó, sẽ bất hợp lý nếu
không cho phép chính quyền địa phương
được ban hành quy định giới hạn quyền50.
HĐND cấp tỉnh có thể ban hành nghị quyết
để quy định về các “biện pháp có tính chất
đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương”51. Nhiều học giả
đã phân tích, sự thiếu vắng các địa phương
với quy chế đặc thù, tự chủ cao trong việc
tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta
đã dẫn đến hậu quả tất yếu là “tình trạng ‘xé
rào’ quy định vượt luật”52. Sự “xé rào” ở địa
phương tất yếu liên quan đến việc bảo đảm
cao hơn đối với một số quyền53 bên cạnh việc
hạn chế nhiều hơn đối với một số quyền54 so
với văn bản của cơ quan lập pháp.
4. Kết luận
Việc cho phép các quy phạm dưới hiến
pháp giới hạn các quyền hiến định là xu thế
tất yếu và phổ biến trên thế giới. Các mô thức
giới hạn quyền con người và cơ chế ủy quyền
quy định về giới hạn quyền ở Việt Nam là
minh chứng cho xu hướng này. Điều này đặt
ra hai thách thức cần được các nghiên cứu
khác giải quyết: (1) cơ chế ủy quyền lập pháp
và lập quy; và (2) giám sát tính hợp hiến của
các quy phạm được ủy quyền
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 02(354) T01/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_dien_cac_mo_thuc_gioi_han_quyen_con_nguoi_trong_phap_lu.pdf