Mycoplasma pneumoniae là nguyên nhân gây 15
- 20% viêm phổi mắc phải cộng đồng. Khoảng 25%
bệnh nhân có biến chứng ngoài phổi bao gồm: viêm
màng ngoài tim, viêm cơ tim, thiếu máu tan máu
ngưng kết tố lạnh, viêm cầu thận, viêm não màng
não,.[9]. Kháng thể kháng phospholipid thường
được tìm thấy ở bệnh nhân nhiễm Mycoplasma
pneumoniae mặc dù những kháng thể này thường
hiếm liên quan đến tình trạng huyết khối.
Cơ chế của huyết khối sau nhiễm Mycoplasma
pneumoniae chưa được biết rõ nhưng có thể liên
quan đến cơ chế điều hòa miễn dịch. Biểu hiện
lâm sàng ngoài phổi của nhiễm Mycoplasma
pneumoniae nói chung được giải thích bởi một
trong ba cơ chế. Đầu tiên là cơ chế trực tiếp,
trong đó các cytokin gây viêm cục bộ gây ra bởi
lipoprotein chứa trong màng tế bào vi khuẩn.
Thứ hai là cơ chế gián tiếp liên quan đến điều
hòa miễn dịch như tự miễn dịch qua phản ứng
chéo giữa thành phần màng tế bào vi khuẩn với
màng tế bào người. Cơ chế thứ ba liên quan đến
tắc nghẽn mạch máu do viêm mạch hoặc huyết
khối có hoặc không có tình trạng tăng đông gây
ra bởi vi khuẩn. Các cơ quan trong cơ thể có thể
bị ảnh hưởng khi hệ thống miễn dịch phản ứng
quá mức [10]. Nhiều tài liệu đã đề cập đến việc
tìm thấy kháng thể kháng cardiolipin ở bệnh
nhân nhiễm Mycoplasma [2] [11]. Kháng thể
kháng cardiolipin là một tự kháng thể gắn vào
cardiolipin trên bề mặt tiểu cầu và tế bào nội
mô mạch máu (vessel endothelial cells - ECs).
Khi bị thương, những tế bào này sẽ hoạt hóa hệ
thống đông máu và phức hợp chống ly giải fibrin
(antifibrinolytic components) như là vWF, TXA3,
P-selectin and PAI-1. Ngoài ra, do sự tổn thương
tình trạng nguyên vẹn của tế bào nội mô mạch
máu, một vài chất ức chế đông máu sinh lý như
hệ thống protein C và yếu tố mô hoạt hóa theo
con đường khác có thể bị suy yếu thứ phát [10].
Ở ca bệnh này, chúng tôi đề cập đến huyết khối
mạch lách gây nhồi máu lách sau nhiễm trùng
đường hô hấp. Trong các xét nghiệm tìm kiếm căn
nguyên chỉ ra bệnh nhân có nhiễm Mycoplasma
pneumoniae trước đó và không có căn nguyên
nào được tìm thấy thêm. Hơn nữa, bệnh nhân
không có rối loạn đông máu, không có bệnh lý
tim mạch và rối loạn tự miễn cũng như không có
tiền sử chấn thương gần đây. Đặc biệt chúng tôi
không tìm thấy bằng chứng nhiễm khuẩn ở các
cơ quan khác ngoài đường hô hấp và kết quả xét
nghiệm cấy máu âm tính nên không nghĩ đến tình
trạng tăng đông trong nhiễm trùng huyết gây
nhồi máu ở bệnh nhân này. Do đó, chúng tôi xác
định tình trạng nhồi máu lách và tình trạng nhiễm
Mycoplasma có liên quan đến nhau.
Biểu hiện lâm sàng của nhồi máu lách có thể
không rõ ràng như buồn nôn, đau vùng dưới
sườn trái và chẩn đoán xác định bằng chụp CLVT
ổ bụng. Diện tích vùng tổn thương tùy vị trí mạch
máu có huyết khối. Nguyên nhân phổ biến nhất
của nhồi máu lách là do huyết khối từ tim di
chuyển đến. Cơ chế gây ra nhồi máu lách bao gồm
xoắn mạch lách, phẫu thuật động mạch chủ, tăng
áp lực tĩnh mạch cửa, chấn thương. Nhồi máu
lách có thể thứ phát sau các bệnh lý hệ thống như
bệnh đông máu nội quản rải rác (D.I.C), bệnh máu
ác tính, bệnh mạch máu collagen, viêm mạch,
tăng tiểu cầu, nhiễm trùng,.
Về việc theo dõi, cần chú ý nhiều hơn đến đến
biến chứng mạn tính thường gặp là hội chứng
hậu huyết khối. Hội chứng này đặc trưng bởi sự
phá hủy van tĩnh mạch và sự tắc nghẽn dòng
chảy dai dẳng.
Tình trạng tăng men gan của bệnh nhân
lúc vào viện có thể do dùng thuốc hạ sốt dạng
paracetamol dài ngày. Do đó, sau khi vào viện
bệnh nhân được kiểm soát thuốc và xét nghiệm
sau đó 2 tuần men gan về bình thường, GOT, GPT
lần lượt là 35,9 U/L và 36,9 U/L.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 18 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân một trường hợp nhồi máu lách ở bệnh nhi viêm phổi do Mycoplasma Pneumonia tại bệnh viện Nhi trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
69
phần nghiên cứu
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP NHỒI MÁU LÁCH Ở BỆNH NHI VIÊM PHỔI
DO MYCOPLASMA PNEUMONIA TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Phạm Thu Nga, Nguyễn Thị Yến, Lê Thị Hồng Hanh, Đào Thị Nguyệt
Bệnh viện Nhi Trung ương
TÓM TẮT
Mycoplasma là một tác nhân phổ biến gây nhiễm khuẩn đường hô hấp ở trẻ em, và biến
chứng mạch máu là một biến chứng ngoài phổi hiếm gặp nhưng để lại hậu quả nghiêm trọng.
Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhi nữ, 7 tuổi vào viện với triệu chứng ho khan, sốt và
đau bụng dữ dội sau đó. Bệnh nhi đã được chẩn đoán viêm phổi màng phổi do Mycoplasma và
tìm thấy biến chứng nhồi máu lách. Đây là ca bệnh đầu tiên biến chứng nhồi máu lách do huyết
khối mạch lách sau nhiễm Mycoplasma pneumonia chúng tôi gặp và thông báo tại khoa hô
hấp Bệnh viện nhi Trung ương, dựa trên cơ sở thăm khám lâm sàng và các cận lâm sàng đặc
biệt có ý nghĩa. Trẻ được bắt đầu điều trị với clarithromycin, vancomycin. Ngày thứ 3 trẻ vẫn sốt
cao liên tục, còn ho và được sử dụng thêm kháng sinh levofloxacin. Trẻ được chụp thêm MSCT ổ
bụng dựng hình tìm huyết khối ở các vị trí khác, hội chẩn chuyên gia huyết học dùng thêm thuốc
chống đông. Mặc dù cơ chế của huyết khối sau nhiễm trùng do Mycoplasma chưa được biết rõ
nhưng việc tìm thấy kháng thể kháng cardiolipin cũng như huyết khối đa vị trí gián tiếp gợi ý
nguyên nhân liên quan đến cơ chế miễn dịch. Huyết khối nên được tìm kiếm ở bệnh nhân tăng
cao protein phản ứng C sau nhiễm Mycoplasma.
Từ khóa: Nhồi máu lách, Mycoplasma pneumonia, kháng thể kháng cardiolipin.
ABSTRACT
A CASE REPORT OF SPLENIC INFARCTION IN A CHILD PNEUMONIA DUE TO MYCOPLASMA
PNEUMONIAE AT THE VIETNAM NATIONAL CHILDREN’S HOSPITAL
Mycoplasma pneumoniae is a common pathogen for respiratory infection in children, and vascular
complication is one of the rarest extrapulmonary complications but with serious consequences.
We report a seven-year-old female presenting with fever, dry cough, and abdomial pain after that. She
was diagnosed pneumonia due to Mycoplasma pneumoniae and was found splenic infarction. To our
knowledge, this is the first report describing complications of splenic infarction cause by thrombi
in arterial or venous spleen after Mycoplasma pneumoniae infection in Respiratory department
of Vietnam National children’s hospital based on the examination and special investigations. She was
treated with clarithromycin, vancomycin. By the third day, continuous fever and had cough, she was
treated with levofloxacin. A multi-slice computed tomography (MSCT) of her abdomen was performed
to search thrombo in other areas, consulted with hematologist treated with anticoagulation. Though
the mechanism of thrombosis after Mycoplasma pneumoniae infection remains unknown, the positive
finding in anticardiolipin antibody as well as multi-site thromboses gives a strong hint to immune
modulation. Thrombosis should be considered for those who have significantly increased C-reactive
protein after Mycoplasma pneumoniae infection.
Keywords: Splenic infarction, mycoplasma pneumoniae, anticardiolipin antibody.
Nhận bài: 25-5-2019; Thẩm định: 10-6-2019; Chấp nhận:15-6-2019
Người chịu trách nhiệm chính: Phạm Thu Nga
Địa chỉ: Bệnh viện Nhi Trung ương
Email: drphamnga@gmail.com
tạp chí nhi khoa 2019, 12, 3
70
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mycoplasma pneumonia là tác nhân chủ yếu
gây nhiễm trùng đường hô hấp ở trẻ em. Ngoài
biến chứng viêm phổi hay gặp, Mycoplasma
pneumonia còn gây nhiều biến chứng ngoài
phổi ở các cơ quan như hệ tiêu hóa, hệ tim mạch,
da, hệ thần kinh,.... Trong các biến chứng ngoài
phổi, biến chứng mạch máu tuy ít gặp nhưng để
lại nhiều hậu quả nghiêm trọng. Trên thế giới đã
báo cáo nhiều ca bệnh huyết khối mạch máu kết
hợp với viêm phổi do Mycoplasma pneumonia.
Tuổi hay gặp từ 4 - 40 với tuổi trung bình là 8 tuổi,
gặp nhiều ở nam hơn nữ. Trong đó mạch máu hay
gặp nhất là động mạch não giữa, sau đó là động
mạch chi dưới. Các mạch máu khác như là động
mạch mạc treo tràng trên cũng đã được báo cáo
[1]. Đặc biệt, có rất nhiều tác giả đã báo cáo các
trường hợp nhiễm Mycoplasma và thuyên tắc
mạch phổi [bảng 1]. Cơ chế của huyết khối sau
nhiễm Mycoplasma chưa được biết rõ nhưng có
thể liên quan với cơ chế điều hòa miễn dịch. Ở
đây chúng tôi báo cáo một trường hợp nhồi máu
lách sau nhiễm Mycoplasma.
Bảng 1. Đặc điểm các trường hợp huyết khối mạch phổi sau nhiễm Mycoplasma
Tác
giả
Năm
công
bố
Nước Giới Tuổi D-Dimer aLP CRP
Phương
pháp CĐ
Vị trí
thuyên
tắc
Chống
đông
Bakshi
M [2] 2006 Ấn Độ Nam 4 NA
aLP(+)
LA(-) NA
Siêu âm
tim Bên trái
Chống
đông
Brown
SM [3] 2008 Anh Nam 6 NA
ACA(+),
LA(+) NA CTA Bên phải UH
Graw-
Panzer
KD [4]
2009 Mỹ Nam 13 + ACA(+), LA(+) N CTA Bên phải UH +Waf
Xin Y [5] 2012 Trung quốc Nam 7 +
ACA (+),
β2GPI
(+), LA
(+)
NA CTA 2 bên UH + Waf
Liu Y [6] 2014 Trung quốc Nam 6 +
aLP (+),
LA (-) D CTA 2 bên
LMWH
+Waf
Wei HL
[7] 2015
Trung
quốc Nữ 9 +
ACA (+),
β2GPI
(+)
N CTA Bên phải LMWH +Waf
Ghi chú: aLP: Antiphospholipid antibody; ACA: Anticardiolipin antibody; LA: Lupus anticoagulant;
β2GPI: Anti-β2-glycoprotein I; CTA: Computed tomographic angiography; NA: Non-available; N:
Normal, D: Decrease; UH: Unfractionated heparin; LMWH: Low molecular weight heparin; Waf:
Wafarin; CĐ: Chẩn đoán.
2. BÁO CÁO CA BỆNH
Trẻ nữ 7 tuổi, tiền sử khỏe mạnh biểu hiện triệu
chứng ho khan chủ yếu về đêm, không đau ngực,
sau 2 ngày trẻ sốt cao liên tục, sốt nóng, nhiệt
độ cao nhất 39,30C, dùng hạ sốt 4 giờ/lần bằng
paracetamol, trẻ đi khám tại phòng mạch tư, dùng
kháng sinh nhưng không đỡ. Đến ngày thứ 5 trẻ
xuất hiện đau bụng vùng mạn sườn trái, đau liên
tục tăng dần, dùng thuốc giảm đau có đỡ, kèm trẻ
sốt rét run, không tím tái, không co giật, không nôn,
đi ngoài phân vàng. Tiền sử gia đình không ai mắc
bệnh lao, ho kéo dài. Trẻ nhập viện sốt 38,80C, SpO2
là 93%, mạch 121 lần/phút, và không co kéo cơ hô
hấp. Khám lâm sàng cho thấy thông khí phổi trái
giảm hơn so với bên phải, không ran, bụng mềm,
không có phản ứng thành bụng. Ngoài ra không có
phát hiện gì đặc biệt khi khám thực thể hệ thống.
Xét nghiệm cho thấy có tình trạng tăng bạch cầu là
71
phần nghiên cứu
12,1G/L, bạch cầu trung tính 87,6%, CRP (C-reactive
protein) tăng rất cao 170 mg/L, tiểu cầu bình thường,
men gan tăng với GOT là 155 U/L, GPT là 89 U/L, chức
năng thận bình thường, điện giải đồ bình thường,
PT, APTT bình thường, tuy nhiên có tình trạng tăng
đông với fibrinogen 5,38 g/L. Xquang phổi có hình
ảnh đám mờ tập trung thùy dưới phổi trái (hình 1),
siêu âm màng phổi thấy hình ảnh tràn dịch màng
phổi trái khoảng 10mm, đông đặc nhu mô thùy
dưới phổi trái.
Hình 1. Xquang bệnh nhân khi vào viện
Xét nghiệm nồng độ IgM Mycoplasma
trong máu bệnh nhi lúc vào viện (ngày thứ
7 của bệnh) là 105 UI/ml, PCR Mycoplasma
pneumoniae dịch tỵ hầu lúc vào viện dương
tính, nuôi cấy dịch tỵ hầu, nuôi cấy máu, nuôi
cấy nước tiểu âm tính. Trẻ được chẩn đoán viêm
phổi màng phổi do Mycoplasma pneumoniae.
Trẻ được điều trị bằng clarythromycin uống
trong 5 ngày và tiêm vancomycin đường tĩnh
mạch. Sau 3 ngày vào viện trẻ vẫn sốt cao
liên tục, còn ho và chụp lại Xquang thấy tổn
thương phổi tiến triển, mờ toàn bộ thùy dưới
phổi trái (hình 2). Trẻ được điều trị thêm kháng
sinh levofloxacin đường tĩnh mạch.
Hình 2. Xquang ngực bệnh nhân sau vào viện 3 ngày
Sau khi vào viện 2 ngày, trẻ thường xuyên đau
bụng vùng mạn sườn trái, dùng thuốc giảm đau
có đỡ, sau đó cơn đau thưa dần, thỉnh thoảng trẻ
đau bụng âm ỉ và đỡ dần. Đến ngày thứ 7, trẻ đau
bụng nhiều hơn vùng mạn sườn trái, đau liên tục,
không lan, không liên quan đến bữa ăn, không
nôn, đại tiện bình thường, vẫn sốt cao liên tục
kèm ho đờm trắng. Thăm khám bụng thấy bụng
tạp chí nhi khoa 2019, 12, 3
72
mềm, không chướng, không có phản ứng thành
bụng và cảm ứng phúc mạc. Siêu âm ổ bụng kết
quả bình thường, lách không to, nhu mô đều,
chụp CLVT lồng ngực có hình ảnh đông đặc thùy
dưới phổi trái. Một tuần sau đó, trẻ vẫn sốt cao
liên tục, thỉnh thoảng đau bụng âm ỉ, trẻ được
siêu âm ổ bụng lần 2 kiểm tra thấy hình ảnh dịch
ở douglas dày 15 mm và trẻ được chụp CLVT ổ
bụng với hình ảnh dịch tụ quanh lách 10mm,
theo dõi nhồi máu lách (hình 3).
Hình 3. Hình ảnh cắt lớp vi tính ổ bụng của bệnh nhân
Xét nghiệm thời điểm đó cho thấy tình trạng
đông máu bình thường với PT là 89%, APTT
là 37,7s, fibrinogen là 3,73 g/L, tiểu cầu bình
thường, D-Dimer 3460 ng/ml, anti thrombin III
là 96, định lượng kháng thể kháng phospholipid
IgG, IgM lần lượt là 1,0 và 2,1. Xét nghiệm cấy
máu tại thời điểm này âm tính. Khi đó, chúng
tôi chẩn đoán xác định tình trạng đau bụng của
bệnh nhân là do nhồi máu lách. Bệnh nhân được
chụp MSCT (multi-slice computed tomography)
dựng hình hệ thống mạch máu vùng bụng để
tìm ổ nhồi máu khác. Kết quả cho thấy không có
huyết khối mạch máu lớn trong ổ bụng (hình 4).
Hình 4. Hình ảnh MSCT ổ bụng của bệnh nhân
73
phần nghiên cứu
Dựa theo hướng dẫn của Hiệp hội các bác sĩ
chuyên lồng ngực Mỹ (American College of Chest
Physicians) và hội chẩn chuyên gia huyết học,
chúng tôi quyết định điều trị với heparin trọng
lượng phân tử thấp (lovenox) liều 2 mg/kg chia
2 lần trong ngày, tiêm dưới da cách mỗi 12 giờ
trong 11 ngày nhằm mục đích duy trì anti Xa từ
0,5 -1UI/ml. Anti Xa được định lượng 4-6 giờ sau
tiêm lovenox [8]. Anti Xa của bệnh nhân được
định lượng sau tiêm lovenox mũi thứ 3 và đạt giá
trị là 0,47 UI/ml.
Bệnh nhân của chúng tôi sau khi điều trị ho
giảm dần, cơn sốt thưa hơn, sốt nhẹ dần và cắt
sốt ở ngày 23 sau vào viện. Trẻ chụp lại Xquang
ngực sau điều trị 3 tuần, hình ảnh cải thiện rõ rệt
(hình 5), siêu âm màng phổi không có dịch, siêu
âm ổ bụng không có dịch.
Hình 5. Xquang ngực bệnh nhân sau điều trị 3 tuần
3. BÀN LUẬN
Mycoplasma pneumoniae là nguyên nhân gây 15
- 20% viêm phổi mắc phải cộng đồng. Khoảng 25%
bệnh nhân có biến chứng ngoài phổi bao gồm: viêm
màng ngoài tim, viêm cơ tim, thiếu máu tan máu
ngưng kết tố lạnh, viêm cầu thận, viêm não màng
não,...[9]. Kháng thể kháng phospholipid thường
được tìm thấy ở bệnh nhân nhiễm Mycoplasma
pneumoniae mặc dù những kháng thể này thường
hiếm liên quan đến tình trạng huyết khối.
Cơ chế của huyết khối sau nhiễm Mycoplasma
pneumoniae chưa được biết rõ nhưng có thể liên
quan đến cơ chế điều hòa miễn dịch. Biểu hiện
lâm sàng ngoài phổi của nhiễm Mycoplasma
pneumoniae nói chung được giải thích bởi một
trong ba cơ chế. Đầu tiên là cơ chế trực tiếp,
trong đó các cytokin gây viêm cục bộ gây ra bởi
lipoprotein chứa trong màng tế bào vi khuẩn.
Thứ hai là cơ chế gián tiếp liên quan đến điều
hòa miễn dịch như tự miễn dịch qua phản ứng
chéo giữa thành phần màng tế bào vi khuẩn với
màng tế bào người. Cơ chế thứ ba liên quan đến
tắc nghẽn mạch máu do viêm mạch hoặc huyết
khối có hoặc không có tình trạng tăng đông gây
ra bởi vi khuẩn. Các cơ quan trong cơ thể có thể
bị ảnh hưởng khi hệ thống miễn dịch phản ứng
quá mức [10]. Nhiều tài liệu đã đề cập đến việc
tìm thấy kháng thể kháng cardiolipin ở bệnh
nhân nhiễm Mycoplasma [2] [11]. Kháng thể
kháng cardiolipin là một tự kháng thể gắn vào
cardiolipin trên bề mặt tiểu cầu và tế bào nội
mô mạch máu (vessel endothelial cells - ECs).
Khi bị thương, những tế bào này sẽ hoạt hóa hệ
thống đông máu và phức hợp chống ly giải fibrin
(antifibrinolytic components) như là vWF, TXA3,
P-selectin and PAI-1. Ngoài ra, do sự tổn thương
tình trạng nguyên vẹn của tế bào nội mô mạch
máu, một vài chất ức chế đông máu sinh lý như
hệ thống protein C và yếu tố mô hoạt hóa theo
con đường khác có thể bị suy yếu thứ phát [10].
Ở ca bệnh này, chúng tôi đề cập đến huyết khối
mạch lách gây nhồi máu lách sau nhiễm trùng
đường hô hấp. Trong các xét nghiệm tìm kiếm căn
tạp chí nhi khoa 2019, 12, 3
74
nguyên chỉ ra bệnh nhân có nhiễm Mycoplasma
pneumoniae trước đó và không có căn nguyên
nào được tìm thấy thêm. Hơn nữa, bệnh nhân
không có rối loạn đông máu, không có bệnh lý
tim mạch và rối loạn tự miễn cũng như không có
tiền sử chấn thương gần đây. Đặc biệt chúng tôi
không tìm thấy bằng chứng nhiễm khuẩn ở các
cơ quan khác ngoài đường hô hấp và kết quả xét
nghiệm cấy máu âm tính nên không nghĩ đến tình
trạng tăng đông trong nhiễm trùng huyết gây
nhồi máu ở bệnh nhân này. Do đó, chúng tôi xác
định tình trạng nhồi máu lách và tình trạng nhiễm
Mycoplasma có liên quan đến nhau.
Biểu hiện lâm sàng của nhồi máu lách có thể
không rõ ràng như buồn nôn, đau vùng dưới
sườn trái và chẩn đoán xác định bằng chụp CLVT
ổ bụng. Diện tích vùng tổn thương tùy vị trí mạch
máu có huyết khối. Nguyên nhân phổ biến nhất
của nhồi máu lách là do huyết khối từ tim di
chuyển đến. Cơ chế gây ra nhồi máu lách bao gồm
xoắn mạch lách, phẫu thuật động mạch chủ, tăng
áp lực tĩnh mạch cửa, chấn thương. Nhồi máu
lách có thể thứ phát sau các bệnh lý hệ thống như
bệnh đông máu nội quản rải rác (D.I.C), bệnh máu
ác tính, bệnh mạch máu collagen, viêm mạch,
tăng tiểu cầu, nhiễm trùng,...
Về việc theo dõi, cần chú ý nhiều hơn đến đến
biến chứng mạn tính thường gặp là hội chứng
hậu huyết khối. Hội chứng này đặc trưng bởi sự
phá hủy van tĩnh mạch và sự tắc nghẽn dòng
chảy dai dẳng.
Tình trạng tăng men gan của bệnh nhân
lúc vào viện có thể do dùng thuốc hạ sốt dạng
paracetamol dài ngày. Do đó, sau khi vào viện
bệnh nhân được kiểm soát thuốc và xét nghiệm
sau đó 2 tuần men gan về bình thường, GOT, GPT
lần lượt là 35,9 U/L và 36,9 U/L.
4. KẾT LUẬN
Huyết khối sau nhiễm Mycoplasma
pneumoniae là một biến chứng ngoài phổi nên
được xem xét trong trường hợp tăng cao protein
phản ứng C. Mặc dù cơ chế điều hòa miễn dịch
chưa được biết rõ nhưng nó có thể đóng vai trò
quan trọng. Điều trị nhiễm trùng với kháng sinh
và chống đông bằng heparin trọng lượng phân
tử thấp (Lovenox) có hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Wilson ML., et al (2007). Mycoplasma
pneumoniae associated with hemolytic
anemia, cold agglutinins, and recurrent arterial
thrombosis. South Med J.
2. Bakshi M, et al (2006). Mycoplasma
pneumonia with antiphospholipid antibodies
and a cardiac thrombus. Lupus.
3. Brown SM, et al (2008). Mycoplasma
pneumonia and pulmonary embolism in a child
due to acquired prothrombotic factors. Pediatr
Pulmonol.
4. Graw-Panzer KD, et al (2009). Venous
thrombosis and pulmonary embolism in a child
with pneumonia due to Mycoplasmapneumoniae.
J Natl Med Assoc.
5. Xin Y, et al (2012). The value of detection
of antiphospholipid antibodies in the
thromboembolism event caused by mycoplasma
pneumonia in children. Proceedings of The
17th Chinese National Conference of Pediatric
Academic Symposium.
6. Liu Y, et al (2014). Clinical analysis of one
case of Mycoplasma pneumonia and pulmonary
embolism, venous thrombosis of lower limbs. J
Shanxi Med Univ.
7. Wei HL, et al (2015). A case report
of pulmonary embolism associated with
Mycoplasma pneumoniae pneumonia. Zhonghua
Er Ke Za Zhi.
8. Monagle P, et al (2012). Antithrombotic
therapy in neonates and children: Antithrombotic
Therapy and Prevention of Thrombosis, 9th ed:
American College of Chest Physicians Evidence-
Based Clinical Practice Guidelines.
9. Char M. Witmer, et al (2007). Mycoplasma
pneumoniae, Splenic infarct, and Transient
Antiphospholipid Antibodies: A New Association?
Pediatrics. 119 (1), e292 - 295.
10. Narita M, et al (2010). Pathogenesis of
extrapulmonary manifestations of Mycoplasma
pneumoniae infection with special reference to
pneumonia. J Infect Chemother.
11. Snowden N, et al (1990). Antiphospholipid
antibodies and Mycoplasma pneumoniae
infection. Postgrad Med J.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhan_mot_truong_hop_nhoi_mau_lach_o_benh_nhi_viem_phoi_do_my.pdf