Polyp sợi biểu mô là một dạng u lành tính
hiếm gặp ở người lớn. Từ khi được báo cáo lần
đầu tiên năm 1932(7), đến nay chỉ có gần 300
trường hợp được báo cáo. Ở trẻ em càng ít gặp
hơn(6). Trong trường hợp này polyp sợi biểu mô
kết hợp với bệnh thận đôi ở trẻ em thì càng
hiếm.
Nguyên nhân vẫn chưa chắc chắn nhưng có
một vài ý kiến cho rằng có hai nguyên nhân:
Bẩm sinh ở trẻ em và viêm mạn tính ở người
lớn(2).
Triệu chứng thường là tiểu máu tái đi tái lại
hoặc cơn đau hông lưng không đặc hiệu có thể
do xoắn polyp, lồng đoạn niệu quản chứa polyp,
hoặc do polyp gây tắc lòng niệu quản.
4 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 503 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân một trường hợp polyp sợi–biểu mô niệu quản trên bệnh nhi thận đôi không hoàn toàn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi 144
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP POLYP SỢI – BIỂU MÔ NIỆU QUẢN
TRÊN BỆNH NHI THẬN ĐÔI KHÔNG HOÀN TOÀN
Huỳnh Công Chấn*, Nguyễn Thị Trúc Linh**, Huỳnh Cao Nhân*, Lê Thanh Hùng*, Lê Công Thắng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Giới thiệu ca Polyp sợi ‐ biểu mô niệu quản hiếm gặp.
Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo một ca lâm sàng. Bé trai, 8 tuổi, với tiền căn đau bụng hông lưng trái tái đi
tái lại một năm. Trên siêu âm và UIV cho thấy hình ảnh tắc nghẽn hoàn toàn 1/3 giữa niệu quản trái. Kết quả phẫu
thuật cho thấy thận T có dạng đôi không hoàn toàn, có rất nhiều polyp trong 1/3 giữa niệu quản trái, gây tắc nghẽn
hoàn toàn. Phẫu thuật cắt đoạn niệu quản chứa polyp, nối lại niệu quản.
Kết quả: Kết quả giải phẫu bệnh là polyp sợi ‐ biểu mô (fibroepithelial polyp). Sau mổ tình trạng bé cải thiện
tốt, tái khám định kì cho kết quả tốt.
Kết luận: Polyp sợi ‐ biểu mô niệu quản trên bệnh nhi thận đôi là bệnh rất hiếm gặp. Việc cắt trọn khối polyp
tránh bỏ sót, giải phóng chỗ tắc sẽ cải thiện tốt tình trạng lâm sàng.
Từ khóa: Polyp sợi ‐ biểu mô niệu quản ở trẻ em.
ABSTRACT
URETERAL FIBROEPITHELIAL POLYPS ASSOCIATED WITH INCOMPLETE RENAL DUPLICATION: A
CASE REPORT
Huynh Cong Chan, Nguyen Thi Truc Linh, Huynh Cao Nhan, Le Thanh Hung, Le Cong Thang.
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 144 ‐ 147
Objective: Introduction rare ureteral fibroepithelial polyps cases.
Method: A case report. A boy, 8 years old, with recurring left flank pain in a recent year. The ultrasound and
UIV showed a complete obstruction on one third of left ureter right in the middle. The operation result showed left
incompletely renal complication, and there were many polyps in the middle third of the left ureter, causing complete
obstruction. Total modular removal within polyps, ureteral renewal.
Results: The result of pathology was fibroepithelial polyp. Postoperation health conditions have been much
improved. Follow up examinations after surgery gave good results.
Conclusions: Ureteral fibroepithelial polyps associated with incomplete renal duplication in children is very
rare. The total modular removal without remaining faulty polyps to release the obstruction will improve clinical
status.
Key words: Ureteral fibroepithelial polyps, ureteral fibroepithelial polyps in children.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 145
ĐẶT VẤN ĐỀ
Polyp sợi ‐ biểu mô niệu quản là một dạng
bướu lành tính của niệu quản hiếm gặp ở người
lớn càng hiếm gặp ở trẻ em. Ở trẻ em, nguyên
nhân thường do bẩm sinh, triệu chứng có thể
giống như một bệnh tắc nghẽn niệu quản. Bệnh
có thể đi kèm với hẹp khúc nối bể thận – niệu
quản, sỏi niệu quản. Tuy nhiên, Polyp sợi ‐ biểu
mô niệu quản kết hợp với thận đôi thì rất hiếm.
Chúng tôi xin báo cáo một trường hợp polyp sợi
‐ biểu mô niệu quản gây tắc nghẽn hoàn toàn kết
hợp với bệnh cảnh thận đôi không hoàn toàn ở
trẻ em.
Mục tiêu nghiên cứu
Báo cáo ca hiếm gặp.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Báo cáo ca lâm sàng.
Hành chính
Họ và tên: Nguyễn Văn H, nam, 8 tuổi.
Địa chỉ: Tổ 3, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
Ngày nhập viện: 29/ 11/ 2012.
Lâm sàng
Đau bụng hông lưng trái tái đi tái lại 1 năm,
không kèm ói, không sốt, tiêu tiểu bình thường.
Qua thăm khám không phát hiện gì lạ, ấn bụng
không đau, không sờ thấy mass bất thường.
Cận lâm sàng
Siêu âm: Thận phải (P) kích thước bình
thường, 81 × 33 mm, không ứ nước. Thận trái (T)
dạng đôi không hoàn toàn, kích thước 109 × 61
mm, 2 cực ứ nước độ II, dAP = 18 mm, bề dày
nhu mô: 20 mm, không sỏi, giãn niệu quản đoạn
đầu, d = 20 mm, không thấy giãn niệu quản
đoạn chậu.
UIV: Thận P bắt và thải thuốc bình thường.
Hình 1: Hình chụp UIV ở phút thứ tư. Hình ảnh
nghĩ thận đôi không hoàn toàn, hai thận bắt và thải
thuốc tốt, ứ nước độ II, dãn to 1/3 niệu quản trên,
thuốc cản quang không xuống được đoạn niệu quản
dưới
Thận T dạng đôi không hoàn toàn (dạng chữ
Y), 2 cực ứ nước độ II, 2 nhánh niệu quản nhập
lại ở 1/3 trên, dãn to 1/3 trên niệu quản, thuốc
không xuống được đoạn niệu quản dưới.
TPTNT, Ure, Cre, UCR: Bình thường.
Từ triệu chứng và kết quả cận lâm sàng,
nghĩ bị tắc hoàn toàn 1/3 giữa niệu quản trái và
có chỉ định mổ.
Tường trình cuộc mổ
Bé nằm nghiêng P, độn gối dưới hông P, mê
nội khí quản.
Rạch da đường chéo 3 cm, trên mào chậu P.
Bóc tách cân cơ vào khoang sau phúc mạc,
tìm thấy thận trái (T) dạng đôi không hoàn toàn,
niệu quản T hình chữ Y, chỗ tắc ở đoạn niệu
quản chung (1/3 trên). Trên chỗ tắc, các niệu
* Bệnh viện Nhi Đồng 1. ** Đại Học Y Dược TP HCM.
Tác giả liên lạc: Bs Huỳnh Công Chấn ĐT: 0938469945 Email: chan170486@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi 146
quản giãn to, d= 20 mm, dưới chỗ tắc niệu quản
teo nhỏ.
Mở niệu quản chỗ hẹp thấy chi chít các
polyp, đường kính khoảng 1 mm đến 3 mm,
chiều dài từ 2 – 10 mm, trên một đoạn 1 cm niệu
quản, gây tắc lòng niệu quản.
Cắt đoạn 2 cm niệu quản có chứa polyp Æ
gởi Giải phẫu bệnh, kiểm tra thấy đoạn dưới
thông, luồng feeding tube số 8 xuống bàng
quang không vướng, sờ đoạn niệu quản dưới
không thấy u cục.
Nối niệu quản tận – tận, 1 lớp bằng PDS 6.0,
có đặt stent (feeding tube số 8) xuyên miệng nối.
Dẫn lưu 1 penrose cạnh miệng nối.
Đóng bụng từng lớp bằng Vicryl 3.0,
khâu da bằng Catgut 4.0.
Hình 2: Hình ảnh khi mở niệu quản đoạn tắc. Chi
chít những polyp, kích thước từ 2 – 10 mm.
Hậu phẫu
Sau mổ bé được chuyển Hồi sức ngoại, nuôi
ăn tĩnh mạch, kháng sinh, giảm đau.
Bé được chuyển ra bệnh phòng 1 ngày sau
đó, tỉnh táo, ăn uống bình thường, còn tiểu nước
tiểu hồng, còn đau vết mổ. Bé được tiếp tục
kháng sinh tĩnh mạch, giảm đau đường uống,
thay băng mỗi ngày.
KẾT QUẢ
Kết quả giải phẫu bệnh lý: Fibroepithelial
polyp.
Hình 3: Hình ảnh giải phẫu bệnh của polyp phù hợp
với Fibroepithelial polyp: có mô đệm sợi mạch máu
lỏng lẻo, được phủ bởi lớp biểu mô chuyển tiếp lành
tính (hematoxylin và eosin, ×40)
Bé được rút stent ở ngày hậu phẫu thứ 8, ra
viện ở ngày hậu phẫu thứ 9 trong tình trạng tỉnh
táo, ăn uống, tiêu tiểu bình thường, hết đau vết
mổ, không đau bụng, vết mổ lành tốt.
Tái khám sau 1 tuần, bé hết đau bụng, tiểu
bình thường, nước tiểu trong, siêu âm: thận T
còn ứ nước độ II.
Tái khám sau 1 tháng: Bé không đau bụng,
tiểu trong, tăng 0,5 kg. Siêu âm: Thận T còn ứ
nước độ I.
Tái khám sau 6 tháng: Bé không đau bụng,
tiểu trong, tăng 3 kg. Siêu âm: Thận T còn ứ
nước nhẹ.
BÀN LUẬN
Polyp sợi biểu mô là một dạng u lành tính
hiếm gặp ở người lớn. Từ khi được báo cáo lần
đầu tiên năm 1932(7), đến nay chỉ có gần 300
trường hợp được báo cáo. Ở trẻ em càng ít gặp
hơn(6). Trong trường hợp này polyp sợi biểu mô
kết hợp với bệnh thận đôi ở trẻ em thì càng
hiếm.
Nguyên nhân vẫn chưa chắc chắn nhưng có
một vài ý kiến cho rằng có hai nguyên nhân:
Bẩm sinh ở trẻ em và viêm mạn tính ở người
lớn(2).
Triệu chứng thường là tiểu máu tái đi tái lại
hoặc cơn đau hông lưng không đặc hiệu có thể
do xoắn polyp, lồng đoạn niệu quản chứa polyp,
hoặc do polyp gây tắc lòng niệu quản.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 147
Về mặt giải phẫu bệnh, polyp sợi ‐ biểu mô
niệu quản có nguồn gốc trung mô, và được mô
tả có mô đệm sợi mạch máu lỏng lẻo, được phủ
bởi lớp biểu mô chuyển tiếp lành tính. Mặc dù
bản chất lành tính nhưng các trường hợp kết
hợp với dạng ác tính đã được báo cáo(3).
Polyp sợi – biểu mô thường được chẩn đoán
phân biệt với carcinoma tế bào chuyển tiếp, u
trung mô lành tính, các nguyên nhân không u
như: Cục máu đông, mảng mô bị bong, quả cầu
nấm, hoặc hiếm gặp hơn là nhiễm kí sinh trùng.
Về cận lâm sàng, polyp sợi biểu mô có thể
được phát hiện qua siêu âm dưới dạng một cấu
trúc echo kém, hình con giun, có bờ trơn lán,
vươn dài, mà thường dễ nhận thấy khi polyp
vươn vào bàng quang hoặc vào bể thận(5) Siêu
âm Doppler bổ sung giúp phân biệt với cục máu
đông, mô bong tróc, hoặc cầu nấm, là các dạng
di động hay gặp trong niệu quản. CT hệ niệu
cũng có thể phát hiện polyp niệu quản dưới
dạng một thực thể nằm kéo dài trong niệu quản,
có hình xoắn ốc(1).
Với trường hợp này, phương pháp điều trị là
cắt bỏ đoạn niệu quản chứa polyp, nối lại niệu –
niệu quản, phương pháp này mang lại hiệu quả
tốt(4) Việc chẩn đoán chính xác trước mổ rất quan
trọng vì nó hướng chúng ta mổ nội soi, ít xâm
lấn hơn mổ hở(3,8).
KẾT LUẬN
Polyp sợi ‐ biểu mô niệu quản trên bệnh nhi
thận đôi là một bệnh rất hiếm gặp. Nguyên
nhân nghĩ nhiều do bẩm sinh. Lâm sàng thường
giống với các bệnh tắc nghẽn niệu quản khác.
Việc cắt trọn khối polyp tránh bỏ sót, giải phóng
chỗ tắc sẽ cải thiện tốt tình trạng lâm sàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bellin MF, Springer O, Mourey‐Gerosa I (2002). CT diagnosis
of ureteral fibroepithelial polyps. Eur Radiol.;12: pp 125–128.
2. Bolton D, Stoller ML, Irby P (1994). Fibroepithelial ureteral
polyps and urolithiasis. Urology.;44: pp 582–587.
3. Faerber GJ, Ahmed MM, Marcovich R, Crisco CP, Belville
WD (1997). Contemporary diagnosis and treatment of
fibroepithelial ureteral polyp. J Endourol.;11: pp 349–351.
4. Karaca I, Şencan A, Mir E, Sayan A, Ortaç R (1997). Ureteral
fibroepithelial polyps in children. Pediatric Surgery
International, Volume 12, Issue 8, pp 603‐604.
5. Liddell RM, Weinberger E, Schofield DE, Pelman RS (1991).
Fibroepithelial polyp of the ureter in a child. AJR Am J
Roentgenol;157: pp 1273–1274.
6. Macksood MJ, Roth DR, Chang CH, Perlmutter AD (1985).
Benign fibroepithelial polyps as a cause of intermittent
ureteropelvic junction obstruction in a child: A case report
and review of the literature.J Urol Nov;134(5): pp 951‐2.
7. Melicow MM, Findlay HV (1932). Primary benign tumors of
ureter: review of literature and report of case. Surg Gynecol
Obstet, 54: pp 680‐689.
8. Yagi S, Kawano Y, Gotanda T (2001). Endoscopic treatment of
a long fibroepithelial ureteral polyp. Int J Urol.;8: pp 467–469.
Ngày nhận bài 15/07/2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo 20/07/2013.
Ngày bài báo được đăng: 15–09‐2013
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_mot_truong_hop_polyp_soibieu_mo_nieu_quan_tren_benh_nhi.pdf