KIẾN NGHỊ
Về phía trạm y tế
Trạm cần tìm hiểu và nắm các thông tin về
các khu nhà trọ có người Khmer sinh sống như
số hộ gia đình, tình trạng sức khỏe, nhu cầu hiện
tại thông qua các chi Hội và chi Đoàn đang phụ
trách các hoạt động sinh hoạt tại các khu nhà trọ,
tránh việc bỏ sót các khu nhà trọ đang có nhu
cầu.
Các buổi tư vấn sức khỏe cộng đồng thực
hiện tại khu nhà trọ, kết hợp với buổi sinh hoạt
văn nghệ của người dân vì người Khmer rất yêu
thích văn nghệ, hoặc kết hợp vào các buổi tiêm
chủng mở rộng. Tư vấn tại gia các gia đình
thường không tham gia vào các buổi tư vấn
cộng đồng.
Tuyên truyền việc sử dụng BPTT là chuyện
nên làm, bình thường, giúp bảo vệ sức khỏe,
nhất là BCS có thể phòng bệnh lây qua đường
tình dục, thay đổi quan niệm tiêu cực của người
dân về việc sử dụng BPTT.
Về phía chính quyền
Làm một bảng tin tức treo tại cổng khu nhà
trọ. Tại đây, ta có thể dán các thông tin, poster,
tờ rơi, hoặc là lịch hoạt động của trạm y tế.
Hỗ trợ trong việc kêu gọi người dân tham
gia các buổi tư vấn. Người kêu gọi là người có
uy tín, sức thuyết phục cao như ấp trưởng.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 112 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận thức về việc sử dụng biện pháp tránh thai của nữ công nhân Khmer có chồng tại xã Hưng Định, tỉnh Bình Dương năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 694
NHẬN THỨC VỀ VIỆC SỬ DỤNG BIỆN PHÁP TRÁNH THAI
CỦA NỮ CÔNG NHÂN KHMER CÓ CHỒNG TẠI XÃ HƯNG ĐỊNH,
TỈNH BÌNH DƯƠNG NĂM 2013
Trần Thị Mỹ Lệ*, Diệp Từ Mỹ*, Lê Nữ Thanh Uyên**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Mặc dù kế hoạch hóa gia đình(KHHGĐ) đã được lồng ghép vào dịch vụ y tế phổ thông nhưng
vẫn còn một số nhóm dân cư chưa tiếp cận được các thông tin và dịch vụ về sức khỏe tình dục, sức khỏe sinh sản
như người di cư và người dân tộc thiểu số (DTTS)(13). Nghiên cứu này giúp tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc
sử dụng biện pháp tránh thai (BPTT) của nữ công nhân (CN) Khmer đang sống di cư.
Mục tiêu: Tìm hiểu nhận thức về việc sử dụng BPTT của nữ CN Khmer có chồng tại xã Hưng Định, tỉnh
Bình Dương.
Phương pháp: Nghiên cứu định tính bằng phương pháp chọn mẫu có chủ đích với 3 TLN, 9 PVS nữ CN
Khmer sống tại khu nhà trọ (KNT) 509 xã Hưng Định, tỉnh Bình Dương. Thời gian nghiên cứu từ 08/04/2013
đến 06/05/2013.
Kết quả: Sự mong muốn có con trai, thiếu kiến thức về phương pháp tránh thai và nguồn cung cấp, tác
dụng phụ, sự bất tiện khi sử dụng và chương trình Dân số ‐ Kế hoạch hóa gia đình (DS – KHHGĐ) chưa tiếp
cận nhiều đến đối tượng là yếu tố hạn chế việc sử dụng BPTT. Điều kiện kinh tế gia đình và ý kiến của người
thân xung quanh thúc đẩy việc sử dụng BPTT.
Kết luận: Việc sử dụng BPTT bị ảnh hưởng bởi quan điểm về KHHGĐ, khả năng tiếp cận chương trình
DS – KHHGĐ, sự tiếp cận và việc lựa chọn BPTT.
Từ khóa: Biện pháp tránh thai, kế hoạch hóa gia đình
ABSTRACT
AWARENESS OF CONTRACEPTIVE USEAMONG KHMER FEMALE WORKERS
IN HUNG DINH COMMUNE, BINH DUONG PROVINCE IN 2013
Tran Thi My Le, Diep Tu My, Le Nu Thanh Uyen
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6 ‐ 2014: 695 ‐ 702
Background: Although family planning program has been integrated into national healthcare programs,
information and services related to sexual health, reproductive health is not always reaching migrants and ethnic
minorities (EM). This study aims to examine factors affecting contraceptive use of Khmer females who are
currently migrant workers in Binh Duong province.
Objectives: Examine awareness of using contraception’s among Khmer female workers who are married
migrating to Hung Dinh commune, Binh Duong province.
Method: Qualitative study was conducted with 3 focus groups and, 9 depth interviews on Khmer female
workers living in boarding house 509 Hung Dinh commune, Binh Duong province. The data collection was
carried out from 04/08/2013 to 05/06/2013.
Results: The desire to have a son, a lack of knowledge about contraception and supplies, side effects of
contraceptive methods, inconvenience while using contraception, and difficulty in accessing the population ‐
* bệnh viện Nhi Đồng 1 Thành phố Hồ Chí Minh ** Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: CN. Trần Thị Mỹ Lệ ĐT: 01225424133 Email: violettran1508@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 695
family planning program were factors having a negative effect on contraceptive use. Economic conditions and
suggestions from relatives were factors that may promote contraceptive use.
Conclusion: Suggestions from family members, accessibility to the population ‐ family planning program,
and choices of contraceptive methods are the factors effecting contraceptive use. .
Keywords: contraception, family planning
ĐẶT VẤNĐỀ
Tính đến năm 2012, dân số của thế giới là
7.057.075.000. Trong đó, dân số của các nước
chậm phát triển là 5.814.057.000 người(9). Điều
này cho thấy việc tăng dân số đang là một vấn
đề nghiêm trọng đối với các nước chậm phát
triển trong đó có Việt Nam. Vì thế, chương trình
KHHGĐ đã và đang được triển khai với công cụ
quan trọng để thực hiện là BPTT. Theo báo cáo
của Tổng cục dân số ‐ Kế hoạch hóa gia đình, ở
các nước đang phát triển có khoảng 57% phụ nữ
trong độ tuổi sinh đẻ muốn sử dụng BPTT để
tránh sinh con trong hai năm tới, khoảng 26%
phụ nữ chưa được tiếp cận chương trình
KHHGĐ, nhất là ở các nhóm trẻ vị thành niên,
người nghèo, người di cư và các dân tộc thiểu số.
Đáp ứng nhu cầu chưa được đáp ứng này sẽ
giúp giảm bớt 53 triệu lượt có thai không mong
muốn và khoảng 100.000 ca tử vong mẹ mỗi
năm(11).
Kết quả thực hiện DS‐KHHGĐ những tháng
đầu năm 2012 thấp hơn so với cùng kỳ năm
trước(10), nguyên nhân của việc sử dụng BPTT
giảm có thể là do mong muốn có thêm con, việc
phản đối sử dụng do vấn đề tôn giáo hay văn
hóa, thiếu kiến thức về phương pháp hoặc nơi
cung cấp BPTT(11). Bên cạnh đó vẫn còn một số
nhóm dân cư vẫn chưa tiếp cận được các thông
tin và dịch vụ về sức khỏe tình dục, sức khỏe
sinh sản như người di cư và người dân tộc thiểu
số (DTTS)(13).
Xã Hưng Định có gần một nữa là dân tạm
trú với 6013 nhân khẩu và đã thu hút không ít số
nữ CN Khmer có chồng đang sống tập trung tại
3 KNT. Trong đó, KNT 509 thuộc ấp Hưng Lộc
là một trong các khu tập trung nhiều công nhân
nữ người Khmer với 104 căn trọ gồm 327 người
Khmer đang sinh sống và phần lớn các căn ở trọ
tại khu này là các cặp vợ chồng công nhân, đã
sống tạm trú ở đây trên 2 năm và hiện đang làm
chủ yếu tại các công ty gốm sứ Minh Long và
Cường Phát. Theo như nhận xét của người phụ
trách hoạt động của khu nhà trọ 509: “Họ vừa là
người di cư, vừa là người thuộc DTTS cho nên
chương trình DS ‐ KHHGĐ chưa được tiếp cận
nhiều và các hoạt động của trạm y tế chưa được
thực hiện tại khu này”. Việc nghiên cứu sẽ giúp
tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức về
việc sử dụng BPTT của nữ CN Khmer.
Mục tiêu nghiên cứu
Thái độ của nữ CN Khmer có chồng về gia
đình và KHHGĐ.
Tìm hiểu ý kiến về chương trình KHHGĐ tại
xã Hưng Định, Thị xã Thuận An.
Tìm hiểu lý do sử dụng hoặc không sử dụng
BPTT.
Tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn trong
việc tiếp cận BPTT.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng đích
Nữ CN Khmer đang sống với chồng tại xã
Hưng Định, tỉnh Bình Dương được chọn vào
nghiên cứu.
Đối tượng liên quan
Đại diện gia đình, đại diện người cung cấp
BPTT và đại diện chính quyền địa phương.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu định tính với phương pháp
chọn mẫu có chủ đích với 03 TLN (mỗi nhóm từ
6‐8 người), 09 PVS.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 696
Phương pháp thu thập số liệu: phỏng vấn
bán cấu trúc.
Tiêu chí chọn vào
Nữ CN Khmer đang sống cùng chồng tại
KNT 509 (15‐49 tuổi).
Đàn ông có vợ là nữ CN Khmer, đang sống
cùng vợ tại KNT 509.
KNT 509 là một trong 3 khu tập trung nhiều
nữ CN Khmer với 104 căn trọ gồm 327 người
Khmer đang sinh sống và đây là khu tập trung
nhiều nhất các cặp vợ chồng CN Khmer, đã sống
tạm trú trên 2 năm
Tiêu chí loại ra
Đối tượng bỏ ngang cuộc phỏng vấn, không
trả lời được 4 mục tiêu mà phỏng vấn viên đề ra
(đối với PVS).
Đối tương không nghe hiểu được Tiếng Việt,
không đảm bảo về mặt sức khỏe như khiếm
thính, câm.
Phương pháp phân tích số liệu
Bảng ghi chép do thư ký tổng hợp lại từ sau
buổi phỏng vấn khoảng 12‐24 tiếng.
Bảng giải băng do nghiên cứu viên thực hiện
đánh thành văn bản dưới dạng word, cắt các câu
trả lời theo các mục tiêu nghiên cứu và dán vào
ma trận số liệu được tạo trên Excel.
Phân tích các thông tin qua ma trận và trình
bày báo cáo kết quả bằng phần mềm Word.
Công cụ thu thập
Bảng ghi chép của thư kí ghi lại những gì
quan sát được trong quá trình nghiên cứu.
Bảng hướng dẫn phỏng vấn phù hợp với
từng đối tượng:
Thảo luận nhóm dành cho đối tượng nữ CN
người Khmer và chồng của nữ CN người
Khmer.
Phỏng vấn sâu dành cho đối tượng nữ CN
người Khmer và chồng của nữ CN người
Khmer.
Phỏng vấn sâu dành cho đối tượng CBYT.
Phỏng vấn sâu dành cho đối tượng đại diện
chính quyền.
Máy ghi âm, bút, giấy ghi chép.
Các dụng cụ trực quan khác như máy chụp
hình, quay phim.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Bảng 1: Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Phương pháp Đối tượng Số lượng Tuổi
TLN
Nữ CN Khmer có chồng có ≤1 con 6 người 19 - 38
Nữ CN Khmer có chồng có ≥2 con 6 người 26 – 48
Chồng của nữ CN Khmer 6 người 20 - 47
PVS
Nữ CN Khmer có chồng có ≤1 con 3 người 34 – 48
Nữ CN Khmer có chồng có ≥2 con 3 người 20 – 25
Chồng của nữ CN Khmer 1 người 38
Cán bộ y tế 1 người 34
Đại diện Đoàn xã Hưng Định 1 người 25
Đối tượng nữ CN Khmer và chồng đều là
các công nhân đã kết hôn và đang sống tạm
trú cùng vợ/chồng tại xã Hưng Định, Thị xã
Thuận An ở độ tuổi từ 15 – 49 và phần lớn đến
từ Trà Vinh và Sóc Trăng. Họ hiện đang làm
cho các công ty gốm sứ Minh Long và Cường
Phát.
Thái độ của nữ công nhân Khmer có chồng
(15‐49 tuổi) về gia đình và kế hoạch hóa gia
đình
Theo nghiên cứu cho thấy, các gia đình
người Khmer cư trú tại địa phương cho rằng
“Gia đình phải có con trai để có thể nối dõi tông
đường” (nam, 38 tuổi), “Con trai có thể làm các công
việc nặng nhọc và chăm lo gia đình, còn con gái sau
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 697
này lớn lên phải gả cho người ta không thể ở nhà
chăm sóc mình”(nữ, 48 tuổi), vì vậy đối tượng
phải sinh được một đứa con trai. Điều này giống
với quan điểm về mong muốn giới tính của trẻ
trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Nam Sâm
năm 2012: “Trong mỗi gia đình cần có ít nhất một
người con trai”(6). Kết quả của nghiên cứu cũng
tương tự như kết quả nghiên cứu của Đặng Thị
Kim Oanh và Đào Huy Khuê tiến hành trên các
DTTS: mục đích kết hôn để có con nối dõi là
20,8%(6) và “Tâm lý muốn có con trai” (28,8%)(2).
Khi nhắc đến KHHGĐ thì phần lớn các gia
đình rất là xa lạ với cụm từ này, chỉ một số ít
hiểu một cách rất đơn giản là chỉ sinh 2 con hoặc
sử dụng các BPTT để không có con“KHGĐ thì
cũng chắc nhiều con cần phải đặt vòng. Đặt vòng
thì vợ chồng mới hạnh phúc thôi”(nữ, 35 tuổi). Kết
quả tương tự như nghiên cứu của Đào Huy
Khuê ở 3 dân tộc Hmông, Dao, Khơ Mú có
khoảng 32,1% là hiểu biết ít về KHHGĐ và
BPTT, 27,8% có nhu cầu KHHGĐ chưa được
đáp ứng(2).
Ý kiến về chương trình dân số ‐ kế hoạch
hóa gia đình tại địa phương
Với thời gian làm việc của đối tượng chiếm
gần hết một ngày, chỉ còn một ít là dành cho
chăm sóc cho con cái, sinh hoạt gia đình nên đối
tượng thường không quan tâm và tìm hiểu đến
chương trình DS – KHHGĐ tại địa phương.“Tại
ở đây, tại đâu có đi đâu nhiều đâu, tại ở đây chỉ có đi
làm, tắm rửa, ăn uống xong rồi ngủ, có đi đâu đâu,
đâu có biết” (nam, 38 tuổi). Đây là một điều bất
lợi, gây hạn chế trong việc sử dụng BPTT như
trong nghiên cứu của Đào Huy Khuê cho thấy
một trong các lí do cản trở việc sử dụng BPTT là
chưa hiểu biết về chương trình DS‐KHHGĐ(2).
Các thông tin về chương trình DS‐ KHHGĐ
chỉ đưa đến được với một số người, nhất là các
đối tượng đích là nữ công nhân trong độ tuổi
sinh đẻ lại rất ít. “Có người người ta không có nghe,
cũng không có quan tâm tới, tại đa số là dân đi làm
hết, mình phát buổi sáng, buổi chiều thì ở nhà cũng
chỉ có bà già người ta nghe thôi, còn nhằm khi mình
đi tới nhà người ta để mình, mình cung cấp thông
tin thì cũng có người ta chịu nghe, có người cũng
phản đối dữ lắm”(CBYT). Nguyên nhân chính là
do vẫn còn một số khuyết điểm trong công tác
truyền thông.
Mạng lưới cộng tác viên thì lại còn quá ít
“Nếu mà khu đó được 100 mấy 200 hộ mới xin được
1 cộng tác viên để quản cái đó. Mà quản cái đó phải là
cần bên chủ nhà trọ...Người ta nói quản dân nhà trọ
rất cực, người ta không có làm”(CBYT). Đây là yếu
tố rào cản việc tiếp cận chương trình, tương ứng
với trong nghiên cứu của Nguyễn Thủy Tiên về
tầm quan trọng của mạng lưới CTV: “Mạng lưới
cộng tác viên đầy đủ là yếu tố thuận lợi cho phụ nữ
trong việc tiếp cận BPTT tại trạm y tế”(7). Nhưng
điều khó khăn nhất trong công tác truyền thông
là sự quan tâm và tham gia của đối tượng.“Do
một phần hiều biết của người dân chưa cao, thứ 2
là ngại không dám ra. Thứ 3 làhọ bận đi làm, về
rồi giặt giũ quần áo, vợ chồng này kia, cái người ta
không còn thời gian để người ta tìm hiểu, người ta
quan tâm BPTT hay vấn đề nào khác”(đại diện
chính quyền, nam). Dù ta đã chọn các địa điểm,
thời gian thuận lợi cho các đối tượng nhưng đối
tượng lại không chịu tham gia do e ngại vì các
vấn đề mang tính riêng tư và nhạy cảm như việc
sử dụng BPTT của 2 vợ chồng.
Sử dụng biện pháp tránh thai
Hiện tại, trạm có thực hiện các BPTT rất đa
dạng như thuốc tránh thai, thuốc tiêm, BCS,
vòng tránh thai và thuốc cấy. Tuy nhiên, BPTT
được sử dụng nhiều nhất là thuốc tránh thai và
đặt vòng, chỉ một số nhỏ là sử dụng BCS, còn
thuốc tiêm thì rất hiếm.“Theo chị nghĩ thì biện
pháp được sử dụng nhiều nhất đó là thuốc viên”
(CBYT), “Còn thuốc tiêm thì nó, nó làm cho người
phụ nữ mình không có kinh nguyệt nên người ta dễ
nóng nảy nên người ta cũng ít sử dụng thuốc tiêm”
(CBYT). Kết quả có sự khác biệt so với các
nghiên cứu liên quan khác như của Nguyễn
Công Luận và Nguyễn Thủy Tiên, BPTT được
sử dụng nhiều nhất là đặt vòng (49% và 50,38%),
tiếp đến là BCS (21,15% và 13,57%) và thuốc
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 698
tránh thai là chiếm ở vị trí thứ ba (13,5%, và
12,15%)(4,7).
Các gia đình Khmer đa phần đều có sử dụng
BPTT với hai mục đích chính là không muốn có
thai nữa hoặc tạm ngừng sinh để tăng khoảng
cách giữa hai đứa con. Thế nhưng, việc lựa chọn
các BPTT của đối tượng liên quan ít nhiều đến
việc cho con bú, sợ ảnh hưởng đến con “Thời đó
thì con còn bú thì mình dùng loại đó cho nó nhẹ,
con mình bú sợ nóng con” (nữ, 25 tuổi). Tương
tự như trong nghiên cứu được tiến hành ở
Ethiopia cho biết nguyên nhân không sử dụng
BPTT do đang cho con bú chiếm tỷ lệ cao(3). Một
số nhỏ hiện tại không sử dụng BPTT là do đang
mang thai như trong nghiên cứu của Nguyễn
Công Luận với tỷ lệ là 13,6%(4).
Trong 2 BPTT là thuốc viên tránh thai được
biết nhiều nhất, là BPTT đã từng và đang được
sử dụng nhiều nhất. Do ta có thể tìm thấy dễ
dàng ở các tiệm thuốc tây, và hầu như các phụ
nữ đều đã sử dụng qua “Thì tại ở đây... không biết
thông tin ở đâu đâu nên chỉ thì đi đến tiệm thuốc
tây gần đây” (nam, 38 tuổi). Nhiều người cho
rằng thuốc có tác dụng phụ và sự bất tiện mà đã
đổi BPTT. Về phần tác dụng phụ của thuốc, tác
dụng được nhắc đến thường là gây nóng trong
người mà theo cán bộ phụ trách chương trình
của trạm thì thuốc tránh thai không có tác dụng
phụ “Biện pháp uống thuốc ngừa thai không tốt. Tại
vì thuốc ngừa thai làm teo tử cung”(TLN nữ 2
con), “Vì chọn cái này tại thấy tác dụng tác
dụng nó an toàn hơn xài thuốc, sau này sợ vô sinh.”
(nam, 38 tuổi). Vì sự lan truyền giữa người với
người mà không hề có căn cứ khoa học đã khiến
cho những người sử dụng thuốc có tâm lý ngại
sử dụng. Điều này giống với kết quả nghiên cứu
trên nữ công nhân ở quận 9, TP HCM về “Những
lý do đó thường là do truyền miệng với nhau mà bản
thân đối tượng không đủ kiến thức để nhận biết thông
tin đó có đáng tin cậy hay không” hay như nghiên
cứu của Đào Huy Khuê ở DTTS cho biết lí do
không sử dụng BPTT chủ yếu liên quan đến
nhận thức chưa đúng và những lo ngại không có
căn cứ khoa học của phụ nữ như “Cho rằng khó
thụ thai”(2,5).
Đặt vòng được các nữ CN Khmer ở khu nhà
trọ chọn sử dụng là do “Đặt vòng thì nó thoải mái
hơn. Còn mình uống thuốc khi mình đi làm đêm hôm
đâu uống được. Tại thuốc uống lúc 7g thôi chứ 9‐10g
đâu uống được đâu nên chị chọn đặt vòng” (TLN nữ
2 con), nó rất thuận lợi lại không hề có tác dụng
phụ khác, sử dụng được nhiều năm và có trong
chương trình nên giá cả tương đối rẻ, thậm chí là
không tốn tiền “Trạm y tế đặt miễn phí...” (TLN
nữ 2 con). Nói chung, đặt vòng là BPTT rất là
phù hợp cho các phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ
lựa chọn để tránh thai mà không có nhiều lo
lắng. Tuy nhiên, điểm yếu của biện pháp này là
có sự xâm phạm cơ thể, phải được thực hiện bởi
nhân viên y tế và địa điểm phù hợp. Đối tượng
phải đi đến các trạm y tế, bệnh viện để thực
hiện. Nhưng yếu tố chính cản trở việc sử dụng
BPTT này là đối tượng sợ đau: “Chị cũng muốn
đặt vòngnhưng sợ đau nên chị uống thuốc” (nữ,
42 tuổi). Bên cạnh đó, một vài người vì không
muốn sử dụng thuốc nữa và muốn chuyển qua
đặt vòng nhưng lại không biết nơi nào cung cấp
“Tại em không biết chỗ mà” ( nữ, 20 tuổi) nên phải
tiếp tục sử dụng BPTT cũ. Đây là một vấn đề
nghiêm trọng vì đặt vòng được thực hiện trong
chương trình DS – KHHGĐ của địa phương, cho
thấy công tác truyền thông còn yếu.
Về BCS, các gia đình chọn và sử dụng BPTT
này là do được phát từ các chương trình, nhất là
ở chương trình phòng chống HIV/AIDS. Yếu tố
sẵn có của BCS, không có tác dụng phụ và dễ sử
dụng chính là nguyên nhân thúc đẩy đối tượng
sử dụng BPTT này “Thường thường ở ngoài tiệm
thuốc tây, trạm xá. Miễn phí thì do hội phụ nữ
tặng miễn phí” (TLN chồng). Tuy nhiên, một khi
không còn BCS, đối tượng lại rất ngại khi đi mua
tại các tiệm bán BCS và trạm y tế “Em thấy cũng
bình thường, chứ không thấy gì bất tiện nhưng mà
nhiều khi đi mua cũng ngại” (nữ, 22 tuổi). Kết quả
tương tự như nghiên cứu của Trần Thị Lợi và
Phùng Khánh Lâm tiến hành năm 2009 cho biết
một trong các nguyên nhân không sử dụng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 699
BPTT hiện đại là do không có sẵn BPTT và
không thích đi mua(12). Và theo người quản lý
chương trình cho biết thì hầu như đối tượng
không hề đến trạm y tế địa phương lấy BCS:
“Bao thì hầu như hỏng có thấy, không người nào tới
đây nhận hết” (CBYT). Còn thuốc tiêm thì cũng
rất hiếm, chỉ các trường hợp do không thể sử
dụng các BPTT trên nên mới chọn đến BPTT này
“Vì chọn cái này tại thấy tác dụng tác dụng nó an
toàn hơn xài thuốc” (nam, 38 tuổi).
Sự tiếp cận biện pháp tránh thai
Cung cấp các BPTT hiện đại là một trong các
nội dung trong chương trình DS – KHHGĐ nên
có sự hỗ trợ của nhà nước mà giá thành rất rẻ.
Thế nhưng, quan niệm của mọi người thường
cho rằng những gì càng rẻ, càng miễn phí thì
càng không tốt, không đáng tin cậy như người ta
thường nói “Tiền nào của nấy”, “Giá cũng tương
đối rẻ nhưng mà người dân lại không thích xài, sử
dụng cái đó. Người ta thích tự người ta ở ngoài mua,
tuy giá nó cao nhưng người ta nói là nó hiệu quả
hơn” (CBYT). Kết quả này tương tự như kết quả
của Đào Huy Khuê và Nguyễn Thủy Tiên: “Sợ
chất lượng BPTT không tốt”, “Đối tượng không tin
tưởng chất lượng BPTT của trạm y tế so với các cơ sở
ở ngoài”(2,7).
Trong đó, thuốc tránh thai và BCS là được
mua ở ngoài là nhiều nhất. Khi mua chúng, đối
tượng không tốn nhiều thời gian và thủ tục như
ở trạm y tế, bệnh viện.“Mua ngoài tiệm thuốc, thì
trạm y tế, bệnh viện rồi đó, nhưng chị không đi, mua
ngoài tiệm nhiều hơn, vô bệnh viện phải đợi chờ.”
(TLN nữ 2 con). Điều này không giống với
nghiên cứu của Nguyễn Công Luận, nguồn
cung cấp được sử dụng nhiều nhất là trạm y tế
(46,9%), hiệu thuốc thì rất ít (2,3%) nhưng lại
phù hợp với nghiên cứu tại nữ công nhân quận
9, TP HCM với nguồn cung cấp được sử dụng
nhiều là tiệm thuốc tây (63%), kế đến là trạm y tế
(34%)(5,4). Về biện pháp đặt vòng thì theo các gia
đình người Khmer,đối tượng cho biết là có 3 địa
điểm cung cấp là trạm y tế, bệnh viện huyện và
bệnh viện tỉnh. Trạm y tế là được đến nhiều do
có chương trình kêu gọi của chính quyền và
cộng tác viên nhất “Tại vì thì người ta xuống
đặt có chính quyền, có địa phương ở đó đáng tin
cậy nên mình mới đặt” (nữ, 48 tuổi).
Khi đến mua thuốc tránh thai, BCS và khi
đến các cơ sở y tế để đặt vòng, đối tượng không
quan tâm đến người sẽ cung cấp cho mình vì đối
tượng tin rằng những người cung cấp là các
CBYT. “Bác sĩ biết thì mới đặt cho mình, không biết
đâu đặt cho mình nên không sợ” (TLN nữ 2 con).
Thái độ của người cung cấp cũng không được
các nữ công nhân người Khmer quan tâm. Đối
tượng chỉ cần đến mua, người ta bán là được;
đối tượng đến đặt vòng, người ta đặt cho mình
là xong. “Chỗ nào có bán thì vô mua” (TLN nữ 1
con), “Mình cứ đặt đại đi thấy người ta đặt được
thì cứ đặt thôi” (nữ, 48 tuổi). Thậm chí, đối tượng
cũng không có nhu cầu được cung cấp các thông
tin khác ngoài các thông tin người cung cấp đã
nói “Không, không có hỏi, chị không muốn sanh con
vậy thôi Người ta đặt cho vậy thôi” (TLN nữ 1
con).
Việc sử dụng BPTT không gặp nhiều rào cản
từ chồng “Không có, ổng không phản đối cũng
như vợ chồng được 2 đứa con rồi, đẻ nữa thì cũng
khó nên ổng cũng chiều” (TLN nữ 2 con). Tương tự
như trong nghiên cứu định lượng ở Ethiopia: tỷ
lệ phản đối do chồng là 9,7%(3) hoặc trong nghiên
cứu định tính trên nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số
ở Delhi năm 2010: sự phản đối của chồng và mẹ
chồng (32/52 phụ nữ cho biết)(8). Ngoài ra, một
yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ khác là sự tư vấn từ
người thân như kết quả cho thấy là trước khi
quyết định sử dụng BPTT, đối tượng thường hỏi
thăm ý kiến của người thân xung quanh và các ý
kiến này tác động đến đối tượng rất nhiều,
không những thế, đối tượng còn sử dụng BPTT
giống người mà đối tượng đã hỏi “Em hỏi bả:
uống vậy có bị gì không? Bả nói: em uống thì uống,
cái đó là quyết định của em. Rồi em dùng như chị ấy”
(nữ, 25 tuổi).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 700
KẾT LUẬN
Sự mong muốn có con trai để nối dõi tông
đường là yếu tố hạn chế việc sử dụng BPTT
của nữ công nhân Khmer. Tuy nhiên, điều
kiện kinh tế gia đình đã khiến đối tượng luôn
có dự định về số lượng con và khoảng cách
sinh con của mình đã thúc đẩy việc sử dụng
BPTT của đối tượng.
Chương trình DS – KHHGĐ tại địa phương
tiếp cận đến đối tượng đích chỉ được 50% do còn
một số khuyết điểm và gặp nhiều khó khăn về tổ
chức, thiếu cộng tác viên và thiếu sự quan tâm
đưa đến việc thiếu kiến thức về nguồn cung cấp
và phương pháp tránh thai. Điều này có ảnh
hưởng mạnh đến việc sử dụng BPTT.
Sự lựa chọn BPTT bị ảnh hưởng do thiếu
kiến thức về phương pháp tránh thai và nguồn
cung cấp, tác dụng phụ và sự bất tiện khi sử
dụng BPTT.
Thái độ phục vụ, trình độ kỹ thuật và sự
cung cấp thông tin liên quan đến BPTT không
ảnh hưởng đến việc sử dụng BPTT. Tuy nhiên,
quan điểm “tiền nào của nấy” và ý kiến của
người thân xung quanh có tác động mạnh mẽ
đến việc sử dụng BPTT.
KIẾN NGHỊ
Về phía trạm y tế
Trạm cần tìm hiểu và nắm các thông tin về
các khu nhà trọ có người Khmer sinh sống như
số hộ gia đình, tình trạng sức khỏe, nhu cầu hiện
tại thông qua các chi Hội và chi Đoàn đang phụ
trách các hoạt động sinh hoạt tại các khu nhà trọ,
tránh việc bỏ sót các khu nhà trọ đang có nhu
cầu.
Các buổi tư vấn sức khỏe cộng đồng thực
hiện tại khu nhà trọ, kết hợp với buổi sinh hoạt
văn nghệ của người dân vì người Khmer rất yêu
thích văn nghệ, hoặc kết hợp vào các buổi tiêm
chủng mở rộng. Tư vấn tại gia các gia đình
thường không tham gia vào các buổi tư vấn
cộng đồng.
Tuyên truyền việc sử dụng BPTT là chuyện
nên làm, bình thường, giúp bảo vệ sức khỏe,
nhất là BCS có thể phòng bệnh lây qua đường
tình dục, thay đổi quan niệm tiêu cực của người
dân về việc sử dụng BPTT.
Về phía chính quyền
Làm một bảng tin tức treo tại cổng khu nhà
trọ. Tại đây, ta có thể dán các thông tin, poster,
tờ rơi, hoặc là lịch hoạt động của trạm y tế.
Hỗ trợ trong việc kêu gọi người dân tham
gia các buổi tư vấn. Người kêu gọi là người có
uy tín, sức thuyết phục cao như ấp trưởng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Thị Kim Oanh (2002) Hôn nhân cửa người Khemr ở đồng
bằng sông Cửu Long. Luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử. Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Tr.95.
2. Đào Huy Khuê (2006) Ảnh Hưởng của các yếu tố văn hóa tộc
người đối với nhu cầu KHHGĐ nhưng chưa được đáp ứng của một
số dân tộc thiểu số ờ Hà Giang và Điện Biên. Dân số và phát triển.
2 (59).
3. Korra A (2002) Attitudes toward Family Planning and reason for
nonuse among women with Unmet Need for Family Planning in
Ethiopia.Calverton. Maryland USA: ORC Macro. Pp.8‐19.
4. Nguyễn Công Luận (2007) Tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến việc
sử dụng biệp pháp tránh thai của các cặp vợ chồng trong độ tuổi
sinh đẻ tại phường Hiệp Thành. Thủ Dầu Một. Bình Dương. Khóa
luận tốt nghiệp Cử nhân Y tế công cộng. Đại học Y Dược Tp.
HCM. Tr. 23‐56.
5. Nguyễn Hoàng Lam, Nguyễn Thị Từ Vân (2007) Kiến thức.
thài độ. hành vi về sử dụng biện pháp trành thai hiện đại ở nữ công
nhân quận 9. Tp.HCM. Tạp chí Y học TP.HCM. 14(1). 315‐320.
6. Nguyễn Thị Nam Sâm (2012) Quan điểm về lựa chọn giới tính
thai nhi của phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ tại quận 5. Tp.HCM.
Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Y tế Công cộng. Đại học Y
Dược Tp.HCM. Tr. 89‐90.
7. Nguyễn Thủy Tiên (2011) Thực Trạng hoạt động cung cấp biệp
pháp tránh thai ở trạm y tế thị trấn Định Quán. tỉnh Đồng Nai.
Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Y tế Công cộng. Đại học Y
Dược Tp.HCM. Tr. 67‐89.
8. Rustagi N. Taneja DK. Kaur R. and Ingle GK (2010) Factor
affecting contraception among women in a minority community in
Delhi. Health and Population:Perspectives and Issues. 33 (1). 10 ‐
15.
9. Tổng Cục Dân số‐ Kế hoạch hóa gia đình (2012) Đông hồ dân
số. Truy cập ngày
05/04/2013.
10. Tổng Cục Dân số‐ Kế hoạch hóa gia đình (2012) Kết quả thực
hiện kết quả chương trình mục tiêu quốc gia DS‐KHHGĐ nakm8
2012 và phương hướng nhiệm vụ năm 2013.
Truy cập ngày
05/04/2013.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 701
11. Tổng Cục Dân số‐ Kế hoạch hóa gia đình (2012). Chi phí và lợi
ích đầu tư cho dịch vụ tránh thai ở các nước đang phát triển.
Truy cập ngày
10/04/2013.
12. Trần Thị Lợi. Phùng Khánh Lâm (2010) Khảo sát lý do không sử
dụng biện pháp tránh thai hiện đại và nhu cầu chăm sóc sức khỏe
sinh sản ở vị thành niên phá thai tại bệnh viện Từ Dũ tháng 5‐
6/2009. Tạp chí Y học Tp.HCM. 1. 290‐295.
13. Võ Anh Dũng (2012) Tóm tắt những nội dung trong báo cáo tình
trạng dân số thế giới 2012. Tổng Cục Dân số‐ Kế hoạch hóa gia
đình. Hà Nội. tr. 78‐89.
Ngày nhận bài báo: 11/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/6/2014
Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_thuc_ve_viec_su_dung_bien_phap_tranh_thai_cua_nu_cong_n.pdf