KếT LUẬN
Từ tháng 2/2012 đến tháng 8/2014 Viện Chấn
thương-Chỉnh hình, Bệnh viện TƯQĐ 108 đã phẫu
thuật thay 56 khớp háng Spiron cho 50 bệnh nhân.
- Kết quả: Điểm Harris trung bình trước mổ là 50,2
điểm, sau mổ là 83,7 điểm. Trong 42 bệnh nhân được
đánh giá kết quả sớm, với 48 khớp được thay có 22/48
khớp (19/42 bệnh nhân) đạt kết quả rất tốt, 16/48 khớp
(13/42 bệnh nhân) tốt, 8/48 khớp (8/42 bệnh nhân)
trung bình, 2/48 khớp (2/42 bệnh nhân) kém.
- Nhận xét:
+ Về chỉ định: Bệnh nhân dưới 50 tuổi là phù hợp
cho thay khớp Spiron. Ngoài ra chỉ định thay khớp
Spiron cần chú ý đến chất lượng xương (X quang độ
loãng xương >3 (theo Singh), mật độ xương T-score
> -2,5) và giải phẫu vùng cổ, vùng liên mấu chuyển
xương đùi tuy nhiên quyết định cuối cùng thay Spiron
hay không vẫn là quyết định trong mổ.
+ Về kỹ thuật: Việc bộc lộ và doa ổ cối thường
khó khăn (do cổ xương đùi giữ lại nhiều) nên cần nhẹ
nhàng, khéo léo tránh căng kéo nhiều làm tổn thương
thần kinh hông to. Nên ứng dụng phần mềm chuyên
dụng trên máy tính vào làm kế hoạch trước mổ. Chú
ý đặt đinh xác định tâm cổ xương đùi chính xác.
Để có nhiều kết luận khách quan hơn cần phải
tiếp tục theo dõi, đánh giá trong thời gian dài hơn, số
lượng bệ
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận xét kết quả bước đầu trong thay khớp háng spiron - Điều trị hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
127
Phản biện khoa học: PGS. TS. Lê Chí Dũng
“NHậN XÉT KẾT quả BƯỚC đẦu TRONG THAY KHỚP
HÁNG sPIRON - đIều TRỊ HOẠI TỬ VÔ KHuẨN CHỎM
XƯƠNG đÙI”
ACCEssING THE EARLY REsuLTs OF TREATMENT FOR AVAsCuLAR
NECROsIs OF FEMORAL HEAd usING sPIRON TOTAL HIP
REPLACEMENT
Mai Đức Thuận,
Lưu Hồng Hải,
Lê Hồng Hải,
Nguyễn Quốc Dũng,
Phùng Văn Tuấn,
Mai Đắc Việt,
Lê Hanh,
Trần Ngọc Thanh,
Nguyễn Đức Hiếu,
Nguyễn Anh Tuấn
Viện CTCH, BVTWQĐ 108
Email:
hoangkolpinghauss1
@yahoo.com
Ngày nhận: 19 - 8 - 2014
Ngày phản biện: 18 - 9 -2014
Ngày in: 08 - 10 - 2014
Mai Duc Thuan,
Luu Hong Hai,
Le Hong Hai,
Nguyen Quoc Dung,
Phung Van Tuan,
Mai Dac Viet,
Le Hanh,
Tran Ngoc Thanh,
Nguyen Duc Hieu,
Nguyen Anh Tuan.
AbtrAct
Background: Avascular necrosis of the femoral head is a common disease of the hip
joint disease.
Material and method: From February 2012 to August 2014, 50 patients under 50 year-
old (the average age mean 42,7) was treated avascular necrosis of femoral head by
Spiron hip replacement in the Institute of Trauma and Orthopedic-108 Military hospital.
There were 56 hips replacements (6 patients were operated with both hips).
Results: The first results was evaluated in 48 Spiron hips over 42 patients. The average
time follow up was 11.8 months (from 3 months to 30 months). Harris score pre-operative
was 50.2 points. Average Harris score post-operative was 83.7 points. In details, 22/48
hips (19/42 patients) exellent, 16/48 hips (31/42 patients) good, 8/48 hips (8/42 patients)
poor and 2/48 hips (2/42 patients) bad.
Conclusion: We’re all agreed that first results was impressive. However, futher
observations in longterm study is required.
Keywords: Avascular necrosis-Hip arthroplasty-Spiron short stem.
Ñaët vaán ñeà: Hoaïi töû voâ khuaån choûm xöông ñuøi laø beänh lyù thöôøng gaëp trong caùc beänh
veà khôùp haùng.
Ñoái töôïng, phöông phaùp nghieân cöùu: Töø thaùng 2/2012 ñeán thaùng 8/2014 Vieän Chaán
thöông-Chænh hình, Beänh vieän TÖQÑ 108 ñaõ phaãu thuaät thay 56 khôùp haùng Spiron
cho 50 beänh nhaân döôùi 50 tuoåi bò hoaïi töû voâ khuaån choûm xöông ñuøi (6 beänh nhaân thay
khôùp caû 2 beân), tuoåi trung bình laø 42,7 tuoåi (25-50 tuoåi).
Keát quaû: Keát quaû ban ñaàu ñöôïc ñaùnh giaù treân 48 khôùp cuûa 42 beänh nhaân. Thôøi gian
theo doõi trung bình laø 11,8 thaùng (töø 3 ñeán 30 thaùng). Ñieåm Harris trung bình tröôùc
moå laø 50,2 ñieåm. Ñieåm Harris trung bình sau moå taïi thôøi ñieåm theo doõi laø 83,7 ñieåm.
Cuï theå, coù 22/48 khôùp (19/42 beänh nhaân) ñaït keát quaû raát toát, 16/48 khôùp (13/42 beänh
nhaân) toát, 8/48 khôùp (8/42 beänh nhaân) trung bình, 2/48 khôùp (2/42 beänh nhaân) keùm .
Keát luaän: Chuùng toâi thaáy raèng keát quaû ñieàu trò ban ñaàu laø ñaùng khích leä. Tuy nhieân,
caàn theo doõi trong thôøi gian daøi hôn.
Töø khoùa: Hoaïi töû voâ khuaån-Thay khôùp haùng-Caùn ngaén Spiron.
Tóm TắT
1. ĐặT VấN Đề
Khi thay khớp háng ở bệnh nhân trẻ bị hoại tử vô
khuẩn chỏm xương đùi phẫu thuật viên phải đối mặt
với vấn đề thay lại khớp nhiều lần. Thay lại khớp háng
kỹ thuật khó hơn, nhiều tai biến, biến chứng hơn so với
thay lần đầu [1,2]. Do đó đã có nhiều nghiên cứu khi thay
khớp lần đầu làm sao chỉ cần thay phần tổ chức nào bị
hư hỏng nặng (can thiệp tối thiểu vào vùng ổ cối và đầu
trên xương đùi), tiết kiệm tối đa xương lành, tạo điều kiện
thuận lợi cho phẫu thuật thay lại khớp lần 2, lần 3. Từ đấy
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
128
đã có nhiều loại khớp mới cán ngắn được ra đời như
khớp Mayo, Collo-Mis, Silent, Thrust-Plate...Một số
khớp cán ngắn đã sớm bộc lộ nhược điểm như tỷ lệ
sai khớp háng cao, tỷ lệ thay lại cao. Vì những nhược
điểm này nên có khớp đã không còn được sử dụng,
còn một số khác vẫn tiếp tục trong giai đoạn thử
nghiệm [3]. Đứng trước thực tế trên năm 1989, bác sĩ
Birkenhauer B., người Đức, đã thiết kế và phát triển
loại khớp háng cán ngắn Spiron [3]. Cán khớp Spiron
có ren xoắn cố định vào phần cổ xương đùi thay cho
phần thân xương nên lượng xương phải cắt bỏ đi ít,
giải phẫu vùng cổ và đầu trên xương đùi được bảo
tồn tối đa tạo điều kiện thuận lợi cho thay lại khớp
lần sau [3].
Hiện nay loại khớp cán ngắn này đã được dùng
trong nhiều Bệnh viện lớn ở Việt Nam nhưng có rất
ít công trình nghiên cứu sâu về nó. Vì vậy để đánh
giá một cách khách quan về khả năng ứng dụng của
khớp Spiron trong điều trị lâm sàng chúng tôi tiến
hành đề tài này với hai mục tiêu:
1. Nhận xét kết quả ban đầu thay khớp háng
Spiron ở Bệnh viện TƯQĐ 108.
2. Rút ra một số nhận xét bước đầu về chỉ định
và kỹ thuật.
2. ĐốI TƯợNG Và PHƯơNG PHáP
NGHIêN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là 56 khớp
háng toàn phần Spiron của 50 bệnh nhân (BN) dưới
50 tuổi (có 6 BN thay 2 bên) bị hoại tử vô khuẩn
(HTVK) chỏm xương đùi (CXĐ) được phẫu thuật
thay khớp tại Viện Chấn thương-Chỉnh hình, Bệnh
viện TƯQĐ 108 từ tháng 2 năm 2012 đến tháng 8
năm 2014.
Lựa chọn BN: Tuổi từ 18-50, được chẩn đoán
HTVK CXĐ độ IV, V, VI (theo phân loại của ARCO).
Hình dáng và chất lượng xương cổ xương đùi còn
tương đối tốt (cổ xương đùi không bị méo mó biến
dạng, trên X-quang độ loãng xương lớn hơn hoặc
bằng 3 (theo Singh), đo độ loãng xương có T-score
> - 2,5.
2.2 Phương pháp nghiên cứu: - Nghiên cứu tiến
cứu, mô tả cắt ngang, theo dõi dọc.
- Lập kế hoạch trước mổ trên phim X-quang: Chụp
phim X-quang khớp háng hai bên thẳng nghiêng, lên
kế hoạch trước mổ trên máy tính: dự kiến vị trí cắt
chỏm, góc đặt cán khớp và ổ cối, dự kiến chiều dài,
chiều rộng cán khớp, kích thước ổ cối...
- Tư thế: BN nằm nghiêng 900 về bên không
thay khớp. Phẫu thuật viên đứng phía sau khớp
được thay. Đường rạch da chúng tôi sử dụng đường
sau (Posterior approach) hoặc đường trước bên
(Anterolateral approach).
Ảnh 2.1: Tư thế BN và đường vào khớp háng
(đường sau (1), đường trước bên (2))
Thì 1: Rạch da, bộc lộ khớp háng và cắt chỏm
xương đùi. Chúng tôi cắt chỏm xương đùi tại vị trí đã
tính sẵn trong bước lập kế hoạch trước mổ (thường
dưới tâm chỏm 2 cm).
Thì 2: Doa và đặt ổ cối. Bộc lộ doa ổ cối các số
tăng dần, đóng shell (ổ cối kim loại) theo kích thước
số doa cuối cùng, nếu shell đóng vững không cần bắt
vít, lắp liner cùng số.
Thì 3: Vặn cán khớp. Xác định tâm của cổ xương
đùi, xuyên một đinh Kirschner, đo chiều dài của cán
khớp sẽ thay, doa ống tủy, vặn cán khớp Spiron và
lắp chỏm.
Thì 4: Đặt lại khớp, đóng vết mổ.
Ảnh 2.2 Lắp cán (1), lắp chỏm (2), đặt lại
khớp (3) và chụp X-quang sau mổ (4).
1
3
2
4
Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp
129
- Chăm sóc và hướng dẫn vận động: Hướng dẫn BN
tập vận động thụ động, chủ động, tập lấy lại tầm vận động
của khớp háng bao gồm gấp, duỗi, dạng và khép khớp
háng ngay sau phẫu thuật 6-8 giờ. Tập sức cơ: Cơ thắt
lưng chậu, cơ mông, cơ tứ đầu đùi tăng dần, đi lại bằng
2 nạng trong 6-8 tuần sau mổ.
2.3 Đánh giá kết quả
Đánh giá kết quả ngay sau mổ và kết quả ban đầu sau
phẫu thuật. Kết quả ban đầu được đánh giá ít nhất sau 3
tháng, thời gian này BN đã bỏ nạng trở về với sinh hoạt
và cuộc sống hàng ngày. Hẹn BN tái khám sau mổ 3, 6, 9,
12, 24tháng, khám lâm sàng, chụp X-quang khớp háng
hai bên thẳng, X-quang khớp háng bên mổ tư thế nghiêng.
Đánh giá diễn biến tại vết mổ, các tai biến và biến chứng,
đánh giá chức năng khớp háng theo thang điểm Harris với
4 mức: Rất tốt 90-100 điểm, tốt 80-89, trung bình 70-79,
kém < 70 điểm [4].
3. KếT QUẢ NGHIêN CỨU
3.1 Đặc điểm chung:
Bảng 3.1 Số lượng khớp phân bố theo giới và độ tuổi (n=50)
Tuoåi 25-30 31-40 41-50 Toång
Giôùi n % n % n % n %
Nam 2.0% 12 24.0% 34 68.0% 47 94.0%
Nöõ 0% 2 4.0% 1 2.0% 3 6.0%
Toång 2.0% 14 28.0% 35 70.0% 50 100%
Nhận xét: Nhóm nghiên cứu của chúng tôi có 50 bệnh
nhân, tuổi thấp nhất 25, cao nhất là 50 tuổi. Gặp chủ yếu là
bệnh nhân nam với 47 bệnh nhân chiếm 94,0%, chỉ có ba
bệnh nhân nữ chiếm 6,0%. Lứa tuổi 25-30 chỉ có 1 bệnh
nhân, nhiều nhất là lứa tuổi 41-50 với 35 bệnh nhân chiếm
70,0%. Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 42,7.
Bảng 3.2. Mật độ xương trước mổ (n= 56)
Maät ñoä xöông -2,5- (-1) >-1 - 0 >0 Toång
n (khôùp) 37 14 5 56
% 66,1 25,0 8.9 100
Nhận xét: Phần lớn các ca trong nhóm nghiên cứu đều
bị thưa xương, có 37/56 khớp háng có T-score dao động
từ -2,5 đến -1. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi gặp
2 trường hợp đủ tiêu chuẩn thay khớp háng Spiron nhưng
thực tế khi mổ chất lượng xương cổ xương đùi kém, bắt
cán Spiron vào rất lỏng nên phải chuyển dùng cán dài.
Trong hai trường hợp này, một trường hợp có mật độ
xương T-score là -1,3, một trường hợp có T-score là -1,6.
3.2 Kết quả ban đầu
3.2.1 Kết quả ban đầu:
Có 28 khớp háng được mổ đường trước bên, 28 khớp
háng sử dụng đường sau. Trong đó 55/56 khớp háng vết
mổ liền kỳ đầu, một trường hợp bị nhiễm khuẩn nông,
không có trường hợp nào nhiễm khuẩn sâu.
Bảng 3.3 Góc cổ-thân xương đùi (góc thẳng)(n=56)
Goùc thaúng (ñoä) 128-130 130-135 135-140 140-142 Toång
Tröôùc
Moå
n 2 37 14 3 56
% 3,6 66,1 25,0 5,3 100
Sau moå n 7 26 13 10 56
% 12,5 46,4 23,2 17,9 100
Nhận xét: Trước mổ góc cổ thân xương đùi chủ yếu
tập chung ở nhóm 130-135 độ với 37/56 trường hợp
chiếm 66,1%. Sau mổ nhóm có góc cổ thân xương đùi từ
130-135 độ vẫn chiếm nhiều nhất nhưng chỉ còn 46,4%
với 26/56 trường hợp. Nhóm có góc 140-142 độ tăng lên
10/56 trường hợp chiếm 17,9%.
Bảng 3.4 Chênh lệch chiều dài chi sau mổ (n=50)
Daøi hôn
(mm)
0-10 11-20 21-30 30-32 Toång
n 29 10 8 3 50
% 58,0 20,0 16,0 6,0 100
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
130
Nhận xét: Nhóm bệnh nhân có chênh lệch chi sau
mổ dưới 10mm chiếm nhiều nhất 29/50 trường hợp
chiếm 58,0%. Có 3/50 trường hợp hai chi còn chênh
lệch nhau 30-32mm chiếm 6.0%.
Bảng 3.5 Kết quả ban đầu theo thang điểm
Harris (n=48)
Raát toát Toát Trung bình Keùm Toång
Soá khôùp
(Soá BN)
22
(19)
16
(13)
8
(8)
2
(2)
48
(42)
Tyû leä % 45,8 33,3 16,7 4,2 100
Nhận xét: Kết quả ban đầu của chúng tôi được
đánh giá ít nhất sau mổ 3 tháng (ca dài nhất sau mổ
30 tháng), Thời gian theo dõi trung bình là 11,8 tháng.
Có 22/48 trường hợp xếp loại rất tốt chiếm 45,8%, có
2/31 trường hợp xếp loại kém chiếm 4,2%.
Bảng 3.6 So sánh điểm Harris trung bình trước
và sau mổ với phân độ tổn thương
Phaân ñoä IV
(n=16)
V
(n=28)
VI
(n=4)
Toång
(n=48)
Tröôùc PT 52,1 49,8 49,4 50,2
Sau PT 82,8 84,3 81,5 83,7
Ñieåm
trung bình
Nhận xét: Điểm Harris trung bình trước PT là
50,2, sau PT tăng lên 83,7.
3.2.2 Về tai biến, biến chứng
Chúng tôi gặp 2 trường hợp đủ tiêu chuẩn chỉ
định thay khớp Spiron nhưng phải chuyển thay cán
dài, một trường hợp bị vỡ cổ xương đùi khi vặn cán
khớp, một trường hợp bị toác cổ xương đùi khi nắn
chỉnh đặt lại khớp (đã bắt cán xong). Một trường hợp
bị rạn xương vùng mấu chuyển lớn. Không có trường
hợp nào bị gãy đầu trên xương đùi, có 4 trường hợp
bị liệt các cơ do thần kinh hông khoeo ngoài chi phối,
không có trường hợp nào bị sai khớp háng, huyết tắc
mỡ
Bệnh án minh họa: BN Nguyễn Văn Đ., sinh năm
1974, chẩn đoán hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi
hai bên độ V, lần 1 mổ thay khớp háng bên phải ngày
8-8-2012 số bệnh án 20279, lần 2 mổ thay khớp háng
bên phải ngày 17-1-2013 số bệnh án 1322, điểm
Harris trước mổ là 49,5 điểm, sau mổ bên phải 20
tháng, bên trái 15 tháng điểm Harris là 93,1.
Ảnh 3.1: X-quang của BN Nguyễn Văn Đ: Trước
mổ (1), sau mổ lần 1 (2), sau mổ lần 2 (3), sau
mổ lần 1 bên phải 20 tháng, bên trái 15 tháng (4).
1 2
3
4
4. BàN LUẬN
4.1 Về chỉ định thay khớp
Chỉ định thay khớp Spiron chặt chẽ hơn thay
khớp cán dài thông thường. Ngoài những tiêu chuẩn
như thay khớp cán dài, chúng tôi đặc biệt chú ý đến
hình dáng, chất lượng cổ xương đùi. Trên X-quang
cổ xương đùi phải còn nguyên vẹn, không méo mó
biến dạng, chất lượng cổ xương đùi phải còn tốt- độ
loãng xương phải lớn hơn 3 (theo Singh), đo mật độ
xương cổ xương đùi T-score >-2,5. Bên cạnh đấy
tuổi bệnh nhân cũng là một yếu tố rất quan trọng. Ở
người trẻ chất lượng xương cổ xương đùi còn tương
đối tốt và bệnh nhân có nguy cơ phải thay lại khớp
lần 2 vì vậy phù hợp với khớp háng Spiron. Bệnh
nhân có chỉ định thay khớp thì bao nhiêu tuổi được
xem là trẻ? Theo chúng tôi những bệnh nhân dưới 50
tuổi là phù hợp. Vì ở lứa tuổi này chất lượng xương
còn tốt. Vì vậy trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ
lựa chọn những bệnh nhân dưới 50 tuổi. Những bệnh
nhân trên 50 tuổi nếu hình dáng, chất lượng xương
cổ xương đùi còn tốt vẫn có thể xét chỉ định thay loại
khớp này. Birkenhauer B. thay 38 khớp spiron cho
34 bệnh nhân có tuổi dao động 43-73 tuổi, trung bình
60,1 tuổi [3]. Lugender A. đã thay 28 khớp spiron
cho 26 bệnh nhân có tuổi dao động 34-64 tuổi, trung
Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp
131
bình 51 tuổi [5]. Sở dĩ các tác giả nước ngoài chỉ định thay
khớp spiron cho cả bệnh nhân trên 50 tuổi là vì ở các nước
này tuổi thọ của con người cao hơn, chế độ dinh dưỡng tốt
hơn nên chất lương xương cũng tốt hơn.
Trong thời gian nghiên cứu chúng tôi gặp 4 trường hợp
đủ tiêu chuẩn và đã chỉ định thay khớp Spiron nhưng phải
chuyển thay khớp cán dài. Trường hợp hợp thứ nhất đo
mật độ xương cổ xương đùi có T-score là -1,3, trường hợp
thứ hai có T-score là -1,6 nhưng thực tế khi mổ chất lượng
xương cổ xương đùi kém, bắt cán Spiron vào rất lỏng nên
phải chuyển thay cán dài. Trường hợp thứ ba bệnh nhân
nam 43 tuổi khi nắn chỉnh đặt lại khớp háng bị toác vỡ cổ
xương đùi phải chuyển thay cán dài, còn trường hợp thứ
tư khi vặn cán spiron cổ xương đùi bị vỡ cũng phải chuyển
thay khớp cán dài. Như vậy cần có công trình nghiên cứu
sâu hơn về moment vặn cán Spiron để đưa ra khuyến cáo
cho các phẫu thuật viên khi mổ.
Qua đây chúng tôi cũng thấy rằng khi thay khớp spiron
chỉ định phải chặt chẽ, phải chú ý đến lứa tuổi bệnh nhân,
đo mật độ xương cổ xương đùi tuy nhiên quyết định có
thay được khớp Spiron hay không vẫn là quyết định trong
mổ. Vì vậy chúng tôi vẫn luôn sẵn sàng dụng cụ để có thể
chuyển thay khớp cán dài khi cần thiết.
4.2 Về kỹ thuật mổ:
Trong 56 khớp háng được thay, có 28 khớp háng chúng
tôi lựa chọn đường sau, 28 khớp háng lựa chọn đường
trước bên. Đường vào sau có ưu điểm ít tổn thương phần
mềm nhưng có nguy cơ tổn thương thần kinh hông to, sai
khớp ra sau, đường vào trước bên có ưu điểm bộc lộ quan
sát rõ ổ cối hơn, không gây tổn thương thần kinh hông to,
không cắt bao khớp phía sau, nhưng tổn thương phần mềm
nhiều và nắn chỉnh khó hơn. Do thói quen như thay khớp
cán dài thời gian đầu chúng tôi thường chọn đường sau
nhưng thay khớp spiron cổ xương đùi được giữ lại nhiều
nên việc bộc lộ ổ cối để doa là khó khăn do đó phẫu thuật
viên thường phải đè ép, căng kéo dễ làm tổn thương thần
kinh hông to. Chúng tôi gặp 4/56 trường hợp (7,1%) tổn
thương thần kinh hông khoeo ngoài ở các mức độ khác
nhau, tuy nhiên kiểm tra sau mổ 3 tháng các trường hợp
này đều hồi phục hoàn toàn. Gần đây chúng tôi thiên về đi
đường trước bên và không có trường hợp nào tổn thương
thần kinh hông khoeo ngoài. Bác sỹ Lugender A. thường
đi đường trước bên [5], còn tác giả Birkenhauer B. luôn
đi đường sau bên [3]. Nguyễn Văn Thạch và cs 100% sử
dụng đường trước bên cho thay khớp spiron [1]. Như vậy
lựa chọn đường nào vào khớp háng là tuỳ thói quen của
phẫu thuật viên.Với những ca khó, những phẫu thuật viên
mới thay khớp Spiron chúng tôi khuyên nên chọn đường
trước bên, tránh tổn thương thần kinh hông to.
Vì cổ xương đùi gần như giữ lại toàn bộ nên việc
bộc lộ, doa và đặt ổ cối rất khó. Đây là một trong những
khó khăn lớn nhất của các phẫu thuật viên khi thay khớp
Spiron. Làm thế nào để giảm khó khăn khi bộc lộ và doa ổ
cối? Kinh nghiệm của chúng tôi cho thấy có thể chủ động
khoan đinh xác định tâm cổ xương đùi trước khi doa ổ cối,
đo và dự tính chiều dài cán khớp sẽ thay để cắt bớt phần cổ
xương đùi còn dư, giảm khó khăn khi doa. Ngoài ra có thể
dùng dụng cụ doa ổ cối zic zắc chuyên dụng hoặc thả doa
rời xuống đáy ổ cối trước sau đó mới tra vào cán và doa.
Bên cạnh đó phẫu thuật viên phải là người thay khớp háng
có kinh nghiệm, được đào tạo và tập huấn bài bản, thay
khớp ở những cơ sở có đầy đủ trang thiết bị chuyên dụng.
Việc đặt đinh xác định tâm chỏm rất quan trọng, nó
quyết định đến vị trí và chiều dài cán khớp sẽ thay. Chúng
tôi gặp tỷ lệ dài chi hơn 20mm còn cao (11/50 trường hợp)
nguyên nhân do chuẩn bị trước mổ chưa tốt, số BN có góc
cổ thân xương đùi cao hơn trước mổ còn nhiều (10/56 BN
có góc cổ thân xương đùi 140-142 độ). Do đó nên áp dụng
phần mềm trên máy tính để đo đạc tính toán trước mổ cho
chính xác. Có thể kiểm tra C-arm sau khi đặt đinh xác định
tâm cổ xương đùi. Nên đặt cán thử kiểm tra cân bằng chi
trước khi chọn cán thật.
4.3 Về kết quả điều trị:
Một trong những vấn đề mà nhiều BN và bác sỹ còn e
ngại khi sử dụng khớp háng này là liệu khớp háng cán ngắn
spiron có thể gắn kết chắc chắn đủ bền vững hay không?
Và liệu loại khớp này có thể chịu được tải trọng của cơ thể
nhất là ở những người trẻ hoạt động nhiều hay không?
Birkenhauer B. thay khớp spiron cho 34 bệnh nhân
chỉ số Harris Hip Score trước phẫu thuật là 51 (24-76 với
n=38), sau một năm chỉ số này tăng lên 94 (86-100 với
n=20) [3]. Lugender A. thay khớp spiron cho 28 trường
hợp theo dõi trong 3 tháng điểm HHS tăng từ 55,4 đến 90,5
điểm [5]. Nguyễn Văn Thạch và cs thay khớp spiron cho
22 bệnh nhân kết quả ban đầu tốt và rất tốt là 97,2 % (theo
thang điểm Harris-thời gian theo dõi từ 3-18 tháng) [1].
Kết quả ban đầu được đánh giá trên 48 khớp của 42
bệnh nhân. Thời gian theo dõi trung bình là 11,8 tháng (từ
3 đến 30 tháng). Điểm Harris trung bình trước mổ là 50,2
điểm. Điểm Harris trung bình sau mổ tại thời điểm theo
dõi là 83,7 điểm. Cụ thể, có 22/48 khớp (19/42 bệnh nhân)
đạt kết quả rất tốt, 16/48 khớp (13/42 bệnh nhân) tốt, 8/48
khớp (8/42 bệnh nhân) trung bình, 2/48 khớp (2/42 bệnh
nhân) kém .
Chúng tôi không so sánh kết quả của mình với các
nghiên cứu khác, vì số lượng bệnh nhân của chúng tôi chưa
nhiều, thời gian nghiên cứu ngắn, mẫu nghiên cứu khác
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
132
nhau tuy nhiên nhìn vào kết quả ban đầu đạt được
chúng tôi thấy đây là một kết quả đáng khích lệ.
5. KếT LUẬN
Từ tháng 2/2012 đến tháng 8/2014 Viện Chấn
thương-Chỉnh hình, Bệnh viện TƯQĐ 108 đã phẫu
thuật thay 56 khớp háng Spiron cho 50 bệnh nhân.
- Kết quả: Điểm Harris trung bình trước mổ là 50,2
điểm, sau mổ là 83,7 điểm. Trong 42 bệnh nhân được
đánh giá kết quả sớm, với 48 khớp được thay có 22/48
khớp (19/42 bệnh nhân) đạt kết quả rất tốt, 16/48 khớp
(13/42 bệnh nhân) tốt, 8/48 khớp (8/42 bệnh nhân)
trung bình, 2/48 khớp (2/42 bệnh nhân) kém.
- Nhận xét:
+ Về chỉ định: Bệnh nhân dưới 50 tuổi là phù hợp
cho thay khớp Spiron. Ngoài ra chỉ định thay khớp
Spiron cần chú ý đến chất lượng xương (X quang độ
loãng xương >3 (theo Singh), mật độ xương T-score
> -2,5) và giải phẫu vùng cổ, vùng liên mấu chuyển
xương đùi tuy nhiên quyết định cuối cùng thay Spiron
hay không vẫn là quyết định trong mổ.
+ Về kỹ thuật: Việc bộc lộ và doa ổ cối thường
khó khăn (do cổ xương đùi giữ lại nhiều) nên cần nhẹ
nhàng, khéo léo tránh căng kéo nhiều làm tổn thương
thần kinh hông to. Nên ứng dụng phần mềm chuyên
dụng trên máy tính vào làm kế hoạch trước mổ. Chú
ý đặt đinh xác định tâm cổ xương đùi chính xác.
Để có nhiều kết luận khách quan hơn cần phải
tiếp tục theo dõi, đánh giá trong thời gian dài hơn, số
lượng bệnh nhân nhiều hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Bernard F, Brian F, Complications with revision of
the femoral component of total hip arthroplasty. J
Arthroplasty. 1992; 7: 71-79.
2. Dominic M. et al., Intraoperative Fracture of the Femur
in revision total hip arthroplasty with a Diaphyseal fitting
stem. J. Bone and Joint Surg. 2004; Am, 86: 480-485.
3. Birkenhauer B, Kistmacher H, Ries J, Conception
and first results of the Spiron cementless femoral neck
screw prosthesis. Orthopade. 2004; 33(11): 1259-66.
4. Harris W, Traumatic arthritis of the hip after dislocation
and acetabular fractures: treatment by mold arthroplasty.
An end-result study using a new method of result
evaluation. J Bone Joint Surg Am. Jun. 1969; 51(4):
737-55.
5. Lugeder A, Häring E, Müller A, Dorste P, Zeichen J,
Total hip arthroplasty with the cementless spiron femoral
neck prosthesis. Orthopaedic and Trauma Surgery.
2013; 25: 388-397.
6. Nguyễn Văn Thạch và cs, Đánh giá kết quả bước đầu
của phương pháp thay khớp háng loại Spiron cho các
bệnh nhân trẻ tuổi. Tạp chí Chấn thương Chỉnh hình
Việt Nam. 2013; (3): 22-26.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhan_xet_ket_qua_buoc_dau_trong_thay_khop_hang_spiron_dieu_t.pdf