Nhiễm khuẩn bệnh viện tại khoa sơ sinh bệnh viện Hùng Vương

Tác giả NTT Hà vào năm 2005(19) tiến hành khảo sát tại NICU bệnh viện Nhi Đồng 1, tỉ lệ nhiễm khuẩn huyết trên 1000 catheter-ngày là 7,5, trong khi nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ này lên đến 15,3%. Sự khác biệt này có thể do sai lệch trong ước lượng. Cỡ mẫu trong nghiên cứu chúng tôi lên đến 955 ca với 62 trường hợp nhiễm khuẩn huyết, so với cỡ mẫu 82 và 7 trường hợp nhiễm khuẩn huyết của NTT Hà. Cũng có thể bệnh viện Nhi Đồng 1 đã thực hiện tốt hơn các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn liên quan đến đặt catether. Yếu tố nguy cơ của nhiễm khuẩn huyết và nhiễm khuẩn hô hấp dưới trong nghiên cứu của chúng tôi cũng không có gì khác biệt so với y văn(6,18,24). Thời gian phơi nhiễm càng dài thì nguy cơ nhiễm khuẩn càng tăng. Bé trai có nguy cơ nhiễm khuẩn cao hơn bé gái(7). Kháng sinh dự phòng nếu được sử dụng hợp lí là một trong những yếu tố bảo vệ trẻ sơ sinh khỏi bị NKBV (HR 0,39, 95%CI 0,26-0,56)(3,26). Tuy nhiên, sử dụng kháng sinh theo kinh nghiệm lại là một trong những yếu tố nguy cơ làm gia tăng NKBV(16,26). Hiệu quả của việc sử dụng kháng sinh dự phòng nhiễm khuẩn sơ sinh cho trẻ đủ tháng của các bà mẹ có yếu tố nguy cơ vẫn chưa có bằng chứng rõ ràng (25). Trong thực tế tại bệnh viện chúng tôi, sử dụng kháng sinh dự phòng vẫn chưa có chứng cứ cho một phác đồ tối ưu. Phân tích chi tiết các hình thái sử dụng kháng sinh không nằm trong phạm vi bài báo này.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhiễm khuẩn bệnh viện tại khoa sơ sinh bệnh viện Hùng Vương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
157 NHIỄM KHUẨN BỆNH VIỆN TẠI KHOA SƠ SINH BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG Phan Thị Hằng*, Nguyễn Văn Trương* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) ở trẻ sơ sinh làm gia tăng tỉ lệ tử vong và nguy cơ tàn tật, đồng thời tăng chi phí điều trị và tăng thời gian nằm viện của trẻ. Tại Việt Nam, những nghiên cứu về thực trạng nhiễm khuẩn sơ sinh tại bệnh viện vẫn còn rất hạn chế. Mục tiêu: Ước lượng tỉ lệ và tìm yếu tố nguy cơ dẫn đến NKBV tại khoa sơ sinh của BV. Hùng Vương. Phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu đoàn hệ đơn tiền cứu tiến hành từ tháng 6 đến tháng 12 năm 2007, thu nhận được 955 trẻ. Chẩn đoán NKBV dựa trên tiêu chuẩn của CDC. Kết quả: Có 150 trường hợp bị nhiễm khuẩn sau nhập viện 48 giờ với 249 lượt nhiễm khuẩn. Tỉ lệ NKBV chung là 15,7% (KTC95%: 13,4-18,0), trong khi tỉ lệ này tại phòng săn sóc tích cực là 21,7% (KTC95%: 18,2-25,3). Có 82 trường hợp được chẩn đoán nhiễm trùng hô hấp dưới (bao gồm viêm phổi và viêm khí phế quản) chiếm tỉ lệ 38,9%, có 55 trường hợp chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết (26,1%). Yếu tố nguy cơ của nhiễm khuẩn hô hấp dưới là bé có bệnh lí bẩm sinh, có sử dụng kháng sinh dự phòng, thời gian nằm viện lâu, thời gian truyền dịch kéo dài. Bé có thời gian truyền dịch kéo dài, bé non tháng, có thở máy và là bé trai có nguy cơ nhiễm khuẩn huyết cao hơn. Kết luận: Cần phải tăng cường các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn nghiêm ngặt hơn đối với những trường hợp bé non tháng, thở máy, có truyền dịch. Hơn nữa hạn chế việc lạm dụng kháng sinh và giảm thiểu thời gian nằm viện rất cần để làm giảm nguy cơ NKBV. Từ khóa: nhiễm khuẩn bệnh viện, chăm sóc sơ sinh, chăm sóc tích cực sơ sinh, tỉ lệ nhiễm khuẩn, yếu tố nguy cơ, nhiễm khuẩn huyết, viêm hô hấp dưới, kháng sinh dự phòng. ABSTRACT NOSOCOMIAL INFECTION IN NEONATAL DEPARMENT AT HUNG VUONG HOSPITAL Phan Thi Hang, Nguyen Van Truong* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - No 3 – 2010: 157 - 162 Background: Nosocomial infections in newborns increase morbidity and mortality, as well as hospital costs and hospital stay. Data of nosocomial infection newborns is still limited in Viet Nam. Objectives: to estimate the cumulative incidence rate and to determine risk factors associated with nosocomial infection in neonatal department in Hung Vuong hospital. Methodology: We conducted a single cohort study from June to December, 2007 with 955 neonates enrolled. CDC criteria (2004) were used to diagnose nosocomial infection. Results: 150 cases had diagnosis of infection after 48 hours admission with 249 episodes. The overall rate of nosocomial infection is 15.7% (95%CI: 13.4-18.0), and that in NICU is 21.7% (95%CI: 18.2-25.3). 82 cases (38.9%) had lower respiratory tract infection (included pneumonia and bronchitis, broncho-alveolitis), 55 cases (26.1%) had blood stream infection. Risk factors of lower respiratory tract infection were having congenital diseases, using prophylactic antibiotic, prolonged hospital stay and peripheral vascular infusion. Having prolonged peripheral vascular infusion, mechanical ventilation, or being boy or preterm neonate are risk factors of blood stream infection. Conclusion: Infection control practice have to be improved particularly in taking care of neonates who is preterm, having mechanical ventilation, or peripheral vascular transfusion. Moreover, control of antibiotic overuse and reduction of hospital stay are also important to decrease nosocomial infection. * Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn, Bệnh viện Hùng Vương, Tp. HCM Tác giả liên hệ: ThS.BS Phan Thị Hằng ĐT: 0908 22 06 76 Email: bshangphan@yahoo.com 158 Key words: nosocomial infection, neonatal care, neonatal intensive care unit, infection rate, risk factors, blood stream infection, lower respiratory tract infection, prophylactic antibiotic. ĐẶT VẤN ĐỀ Tăng khả năng sống của trẻ sơ sinh tại các khoa nhi và trung tâm săn sóc tích cực nhi vẫn luôn là sự thách thức đối với các nhà lâm sàng. Mặc dù với sự tiến bộ của các kĩ thuật hồi sức sơ sinh có thể hồi sức tốt những trẻ non tháng hoặc cực non nhưng tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh vẫn còn rất cao. Trên thế giới, ước đoán có đến 3,9 triệu trẻ sơ sinh chết trên tổng số 10,8 triệu trẻ em tử vong hàng năm. Hơn 96% tổng số tử vong sơ sinh xảy ra ở các nước đang phát triển(5). Tại các nước đang phát triển, tử vong sơ sinh chiếm đến 3,4% trẻ sinh sống. Trong đó nguyên nhân tử vong hàng đầu là do nhiễm khuẩn(27). Khi mắc nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV), tỉ lệ tử vong gia tăng gần gấp 2 lần(9). Tỉ lệ này thay đổi từ 22,4% đến 24,1%(1,18), trong khi tỉ lệ tử vong chung là 14,7%(18). Nhiễm khuẩn sơ sinh gây tàn tật cho những trẻ còn sống sót lên đến 20%(4). Vào năm 2000, Việt Nam có số tử vong trẻ em dưới 5 tuổi là 96.000(5). Tỉ lệ NKBV ở trẻ em tại một trung tâm nhi lớn của Việt Nam còn khá cao, chiếm 23%(10). Tình trạng quá tải, thiếu trang thiết bị, tỉ lệ tuân thủ đối với các nguyên tắc chống nhiễm khuẩn còn thấp vẫn là những vấn đề thường gặp ở các bệnh viện nhi, sản nhi(11,15,28). Trong khi tỉ lệ bệnh nhi/điều dưỡng thường cao và ít khi được thay đổi, việc thực hiện những nghiên cứu giám sát NKBV ở trẻ sơ sinh đã được nhiều nơi trên thế giới tiến hành và chứng minh rằng đây là một biện pháp có thể giúp làm giảm tỉ lệ nhiễm khuẩn sơ sinh(14, 21). Mục tiêu nghiên cứu Tại bệnh viện Hùng Vương, do đặc thù của một bệnh viện sản nhi, đa số các bé sơ sinh nhập khoa nhi được sinh ra trong bệnh viện, do đó, có nhiều khả năng các yếu tố nguy cơ gây nhiễm khuẩn sơ sinh cũng như phổ vi khuẩn tại khoa nhi có thể khác với những trung tâm nhi lớn như bệnh viện Nhi đồng 1 và 2. Xác định tỷ lệ nhiễm khuẩn sơ sinh và các yếu tố nguy cơ qua hệ thống giám sát là bước cơ bản đầu tiên cần thiết để xác định các đặc điểm dịch tễ học về mô hình bệnh. Từ đó tiến hành các can thiệp để làm giảm tình trạng NKBV tại khoa sơ sinh. Bảng 1. Đặc điểm của mẫu khảo sát (955 ca) Đặc ñiểm TB Cân nặng (gam) 2532 ± 724 Giới tính nam 493 (51,6) Đặc ñiểm TB Đa thai 86 (09,0) Non tháng 248 (26,0) Suy hô hấp 225 (23,6) Vàng da 142 (14,9) Ngạt 107 (11,2) Chẩn ñoán lúc nhập khoa Khác 233 (24,3) Mổ lấy thai 325 (34,0) Sanh thủ thuật 156 (16,3) Cách sanh Sanh thường 474 (49,7) Apgar 5’ <7 131 (13,7) Dị tật bẩm sinh 58 (06,1) Xuất viện khỏe mạnh 861 (90,1) Chuyển tuyến trên 10 (01,1) Tình trạng xuất viện Tử vong 84 (08,8) Số liệu trình bày là trung bình ± ĐLC hoặc số ca (%) Phương pháp và đối tượng Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu từ 10/6/2007 đến 13/12/2007 thu nhận tất cả những trường hợp bé nằm tại khoa nhi trên 48 giờ. Những bé có chẩn đoán nhiễm khuẩn bào thai được loại ra khỏi nghiên cứu. Mỗi ngày, các thành viên trong nhóm nghiên cứu sẽ thu thập số liệu các bà mẹ có bé thỏa điều kiện thu nhận. Tại khoa nhi, các bác sĩ sẽ ghi nhận số liệu và theo dõi bé cho đến khi xuất viện, chuyển viện hoặc tử vong. Những trường hợp NKBV sẽ được báo cho các bác sĩ thuộc nhóm nghiên cứu để trực tiếp đánh giá và chẩn đoán bệnh lí nhiễm khuẩn theo tiêu chuẩn của CDC(12). Tỉ lệ NKBV được tính theo tỉ lệ nhiễm khuẩn/1000 bệnh nhi–ngày, tỉ lệ nhiễm khuẩn/tổng số bé nhập nhi. Các yếu tố nguy cơ của nhiễm khuẩn sơ sinh tại bệnh viện đã nêu trong y văn được phân tích đơn biến thăm dò để lựa chọn các biến cho mô hình hồi quy logistic, với ngưỡng P <0,25. Dùng phương pháp loại dần để tìm mô hình hồi qui cuối cùng. Số liệu được nhập vào phần mềm Excel và phân tích bằng phần mềm STATA. KẾT QUẢ Trong thời gian nghiên cứu có 1015 trẻ sơ sinh nhập khoa nhi, nhưng chỉ có 955 trẻ thỏa tiêu chuẩn nằm khoa nhi trên 48 giờ. Đặc điểm chung Đặc điểm cơ bản của mẫu nghiên cứu được trình bày trong Bảng 1. Có 856 bé được sanh tại 159 Bệnh viện Hùng Vương, và còn lại là từ những bệnh viện hoặc trung tâm khác chuyển đến. Vì vậy, chỉ có những bé này mới được ghi nhận yếu tố nguy cơ có mẹ tiền sản giật 11,2% (96/856). Có 753 trường hợp xác định được tuổi thai theo siêu âm 3 tháng đầu hoặc theo kinh chót, với tuổi thai trung bình là 36,9 ± 3,3 tuần. Trung vị ngày tuổi lúc nhập khoa nhi là 1,0 ngày (1 – 26). Đa số thời gian nằm tại khoa nhi là 7,0 ngày (3 - 134). Trung vị thời gian từ khi nhập khoa đến khi có chẩn đoán nhiễm khuẩn là 8 ngày (2 - 56). Có 520 bé nằm tại phòng săn sóc tích cực (54,5%). Trung vị thời gian nằm tại phòng săn sóc tích cực là 3 ngày (1 - 70). Trong nghiên cứu có đến 44,7% bé có cân nặng <2500g (427/955). Trong đó, có 64 trường hợp bé có cân nặng dưới 1500g (6,7%). Bé có cân nặng nhẹ nhất có thể nuôi sống được là 1000g, tương ứng với tuổi thai là 29 tuần (kinh chót). Tỉ lệ tử vong ở nhóm NKBV là 22% (33/150) trong khi tỉ lệ tử vong ở nhóm không nhiễm khuẩn chỉ chiếm 6% (51/805). Tỉ lệ NKBV Trong 955 trường hợp thu nhận vào nghiên cứu, có 166 trường hợp bé được chẩn đoán nhiễm khuẩn (chiếm 17,4%), kể cả những trường hợp nhiễm khuẩn trước khi nhập nhi 48 giờ. Có 150 trường hợp bị nhiễm khuẩn sau nhập viện 48 giờ với 249 lượt nhiễm khuẩn. Trong đó, số trẻ nhiễm khuẩn trên tổng số nhập viện ở khoa sơ sinh là 15,7% (KTC95%: 13,4- 18,0), tỉ lệ này tại phòng săn sóc tích cực (NICU) lên đến 21,7% (KTC95%: 18,2-25,3). Tỉ lệ NKBV/1000 bệnh nhân – ngày là 13,0 (KTC95%: 11,0-15,3), tỉ lệ này ở NICU là 44,8 (36,9-53,8). Số lượt nhiễm khuẩn/tổng số ca nhập nhi là 24,5%. Tỉ lệ nhiễm khuẩn theo vị trí Có 62 lượt chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết và có 18 lần có kết quả cấy máu dương tính. Trong số 150 ca NKBV, có 55 ca bị ít nhất 1 đợt nhiễm khuẩn huyết (Bảng 2). Tại NICU của bệnh viện Hùng Vương không đặt đường truyền tĩnh mạch trung tâm, có 1 trường hợp duy nhất được đặt catether tĩnh mạch rốn vì bé bị shock dịch truyền. Trường hợp này không bị nhiễm khuẩn huyết. Tỉ lệ sử dụng catether ngoại biên ở tất cả những trường hợp nằm tại khoa nhi được tính bằng số catheter ngoại biên–ngày/số bệnh nhân–ngày điều trị (3978/11506 = 34,6). Có 709 ca được đặt đường truyền tĩnh mạch ngoại biên và tổng thời gian đặt là 3978 ngày. Trong 62 lượt chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết có 61 trường hợp có đường truyền tĩnh mạch ngoại biên. Vì vậy, tỉ lệ nhiễm khuẩn huyết trên 1000 catether-ngày là 15,3. Bảng 2. Tỉ lệ nhiễm khuẩn theo vị trí Số lượt bệnh (%) Số ca (%) Nhiễm khuẩn huyết 62 (24,9) 55 (26,1) Viêm phổi 98 (39,4) 78 (37,0) Viêm khí quản 4 (01,6) 4 (01,9) Viêm hô hấp trên 38 (15,3) 29 (13,7) Viêm dạ dày ruột 17 (06,8) 17 (08,1) Viêm ruột hoại tử 1 (00,4) 1 (00,5) Viêm rốn 2 (00,8) 2 (00,9) Mụn mủ trẻ em 3 (01,2) 3 (01,4) Viêm kết mạc 23 (09,2) 21 (10,0) Viêm mô bàn chân 1 (00,4) 1 (00,5) Tổng cộng 249 (100,0) 211 (100,0) Viêm hô hấp dưới chiếm 41% tổng số NKBV, với 102 lượt chẩn đoán. Có 166 trường hợp được lưu nội khí quản, trong đó, có 66 ca được chẩn đoán NKBV. Tỉ lệ viêm hô hấp dưới có liên quan đến lưu nội khí quản là 33,3 (102/306 ngày-nội khí quản). Yếu tố nguy cơ NKBV Hai mô hình hồi qui logistic riêng biệt được xây dựng đối với kết cục nhiễm khuẩn huyết và nhiễm khuẩn hô hấp dưới (Bảng 3). Trẻ càng nhẹ cân, thời gian truyền tĩnh mạch ngoại biên và lưu nội khí quản càng lâu thì nguy cơ nhiễm khuẩn huyết càng cao. Giới tính nữ là yếu tố bảo vệ. Trong 955 bé nằm khoa nhi, có đến 465 trường hợp được sử dụng kháng sinh mà không bị nhiễm khuẩn. Những trường hợp này được sử dụng kháng sinh dự phòng và kéo dài trung bình từ 3 đến 4 ngày. Kháng sinh dự phòng được sử dụng nhiều nhất là phác đồ phối hợp Amiklin và Unasyn (339/465, 72,9%). Tuy nhiên, vẫn có 15 trường hợp dùng các loại kháng sinh mạnh như cefotaxime, vancomycin, imipenem nhưng không có bằng chứng của nhiễm khuẩn. BÀN LUẬN Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện tại khoa sơ sinh nên bao gồm cả những trẻ non tháng và đủ tháng, với một tỉ lệ trẻ có nằm tại NICU. Hơn nữa, đa số là trẻ sinh tại bệnh viện, chỉ có 10% (99/955) là từ nơi khác chuyển đến. Vì vậy, kết quả thu được mang 160 một số đặc trưng của bệnh viện sản nhi, có phần khác với các nghiên cứu đã được công bố trong y văn. Trong nghiên cứu này, có đến 70% (105/150) bé NKBV là trong mức cân nặng dưới 2500g. Bé nhẹ cân là yếu tố nguy cơ bị NKBV và nhiễm khuẩn huyết(14,20). Khi phân tầng cân nặng, nhóm có cân nặng dưới 1500g có tỉ lệ NKBV cao nhất (34,4%; 22/64), và nhóm có cân nặng lớn hơn hoặc bằng 2500g có tỉ lệ NKBV thấp nhất (8,5%, 45/528). Điều này phù hợp với y văn. Aziz, 2005(2) tiến hành khảo sát tại Khoa NICU của 17 bệnh viện, thấy tỉ lệ NKBV ở nhóm trẻ có cân nặng <1500g là 23.5% (765/16538) trong khi ở trẻ có cân nặng >1500g thì tỉ lệ này chỉ là 2.5%. Tăng khả năng nuôi sống trẻ nhẹ cân cũng đồng thời làm tăng nguy cơ NKBV ở nhóm cân nặng này(30). Tại bệnh viện chúng tôi, tỉ lệ NKBV ở nhóm trẻ có cân nặng dưới 1500g còn cao. Do đó, cần can thiệp thêm các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn chặt chẽ và gắt gao hơn nhằm làm giảm tỉ lệ NKBV ở nhóm cân nặng này. Bảng 3. Yếu tố nguy cơ của nhiễm khuẩn huyết và nhiễm khuẩn hô hấp dưới Yếu tố nguy cơ OR (KTC95%) Nhiễm khuẩn huyết Cân nặng a 0,93 (0,88 – 0,98) Thời gian truyền TM ngoại biênb 1,12 (1,08 – 1,16) Thời gian lưu nội khí quảnb 1,31 (1,08 – 1,60) Giới tính nữ 0,43 (0,22 – 0,83) Nhiễm khuẩn hô hấp dưới Thời gian nằm việnb 1,05 (1,03 – 1,08) Apgar 2,27 (1,00 – 5,10) Kháng sinh dự phòng 2,67 (1,30 – 5,41) Bé bệnh lí bẩm sinh 3,84 (1,70 – 8,67) Thời gian lưu nội khí quảnc 1,94 (1,15 – 3,26) (a): OR cho mỗi 100 gam cân nặng tăng thêm, (b): OR cho mỗi ngày tăng thêm (c): OR cho mỗi giờ tăng thêm Do tiến hành tại khoa nhi, tỉ lệ NKBV trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn một số nghiên cứu khác tiến hành tại khoa NICU. Pawa, 1997(20), nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu cũng được thực hiện tại khoa nhi một bệnh viện sản nhi ở New Deli, Ấn Độ, có tỉ lệ NKBV tương đương với nghiên cứu của chúng tôi (16,4% so với 15,7%). Tỉ lệ NKBV ở nhóm có nằm phòng NICU là 21,7% (KTC95%: 18,2-25,3), cũng tương tự với tỉ lệ NKBV tại khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh viện Nhi đồng 1(10), một trung tâm nhi khoa lớn tại Thành phố Hồ Chí Minh (22,9%). Tuy nhiên, tỉ lệ của chúng tôi cao hơn một số nghiên cứu được tiến hành tại Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan(22,23,29) có lẽ là do mức thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn khác nhau. Tại các bệnh viện này, việc khảo sát tỉ lệ NKBV hầu như được tiến hành sau khi có các biện pháp can thiệp nhằm làm giảm NKBV. Trong khi đó, nghiên cứu của chúng tôi là khảo sát NKBV lần đầu tiên tại khoa sơ sinh, chưa khảo sát các yếu tố nguy cơ và chưa triển khai các biện pháp can thiệp đặc hiệu. Tuy nhiên, nếu so với các nghiên cứu được tiến hành tại Brazil và Nam Triều Tiên thì tỉ lệ NKBV của chúng tôi thấp hơn(13,24). Trong các khảo sát tiến hành tại Brazil, Tây Ban Nha, Đài Loan, nhiễm khuẩn huyết chiếm đa số trong NKBV(17,23,24). Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả tương tự như nghiên cứu của Edison Nagata(18) với nhiễm khuẩn huyết đứng hàng thứ hai sau viêm hô hấp dưới (bao gồm viêm phổi và viêm khí phế quản). Tác giả NTT Hà vào năm 2005(19) tiến hành khảo sát tại NICU bệnh viện Nhi Đồng 1, tỉ lệ nhiễm khuẩn huyết trên 1000 catheter-ngày là 7,5, trong khi nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ này lên đến 15,3%. Sự khác biệt này có thể do sai lệch trong ước lượng. Cỡ mẫu trong nghiên cứu chúng tôi lên đến 955 ca với 62 trường hợp nhiễm khuẩn huyết, so với cỡ mẫu 82 và 7 trường hợp nhiễm khuẩn huyết của NTT Hà. Cũng có thể bệnh viện Nhi Đồng 1 đã thực hiện tốt hơn các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn liên quan đến đặt catether. Yếu tố nguy cơ của nhiễm khuẩn huyết và nhiễm khuẩn hô hấp dưới trong nghiên cứu của chúng tôi cũng không có gì khác biệt so với y văn(6,18,24). Thời gian phơi nhiễm càng dài thì nguy cơ nhiễm khuẩn càng tăng. Bé trai có nguy cơ nhiễm khuẩn cao hơn bé gái(7). Kháng sinh dự phòng nếu được sử dụng hợp lí là một trong những yếu tố bảo vệ trẻ sơ sinh khỏi bị NKBV (HR 0,39, 95%CI 0,26-0,56)(3,26). Tuy nhiên, sử dụng kháng sinh theo kinh nghiệm lại là một trong những yếu tố nguy cơ làm gia tăng NKBV(16,26). Hiệu quả của việc sử dụng kháng sinh dự phòng nhiễm khuẩn sơ sinh cho trẻ đủ tháng của các bà mẹ có yếu tố nguy cơ vẫn chưa có bằng chứng rõ ràng (25). Trong thực tế tại bệnh viện chúng tôi, sử dụng kháng sinh dự phòng vẫn chưa có chứng cứ cho một phác đồ tối ưu. Phân tích chi tiết các hình thái sử dụng kháng sinh không nằm trong phạm vi bài báo này. 161 KẾT LUẬN Trong 955 trường hợp thu nhận vào nghiên cứu, có 150 trường hợp bị nhiễm khuẩn sau nhập viện 48 giờ với 249 lượt nhiễm khuẩn. Tỉ lệ NKBV chung là 15,7% (KTC95%: 13,4-18,0), trong khi tỉ lệ này tại phòng săn sóc tích cực là 21,7% (KTC95%: 18,2-25,3). Có 82 trường hợp được chẩn đoán nhiễm trùng hô hấp dưới (bao gồm viêm phổi và viêm khí phế quản) chiếm tỉ lệ 38,9%, có 55 trường hợp chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết (26,1%). Yếu tố nguy cơ của nhiễm khuẩn hô hấp dưới là bé có bệnh lí bẩm sinh, có sử dụng kháng sinh dự phòng, thời gian nằm viện lâu, thời gian truyền dịch kéo dài. Bé có thời gian truyền dịch kéo dài, bé non tháng, có thở máy và là bé trai có nguy cơ nhiễm khuẩn huyết cao hơn. Cần phải có những can thiệp về chống nhiễm khuẩn nghiêm ngặt hơn về những trường hợp bé non tháng, thở máy, có truyền dịch. Hơn nữa hạn chế việc lạm dụng kháng sinh và giảm thiểu thời gian nằm viện rất cần để làm giảm nguy cơ NKBV. Lời cám ơn: Các tác giả xin cám ơn bác sĩ Bùi Thị Thủy Tiên, cử nhân Đinh Thị Kim Thư và điều dưỡng Trần Thị Kim Tuyết và các viên tại khoa Sơ sinh của BV Hùng Vương đã giúp đỡ trong quá trình thu thập số liệu của nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Arafa MA, Alshehri MA. Predictors of neonatal mortality in the intensive care unit in Abha, Saudi Arabia. Saudi Med J 2003; 24(12):1374-6. 2. Aziz K, McMillan DD, Andrews W et al. Variations in rates of nosocomial infection among Canadian neonatal intensive care units may be practice-related. BMC Pediatr 2005; 5:22. 3. Baltimore RS. Neonatal nosocomial infections. Semin Perinatol. 1998; 22(1):25-32. 4. Bennet R, Bergdahl S, Eriksson M, et al. The outcome of neonatal septicemia during fifteen years. Acta Paediatr Scand 1989; 78(1):40-3. 5. Black RE, Morris SS, Bryce J. Where and why are 10 million children dying every year? Lancet 2003; 361(9376):2226-34. 6. Couto RC, Pedrosa TMG, Tofani CdP, et al. Risk Factors for Nosocomial Infection in a Neonatal Intensive Care Unit. Infect Control Hosp Epidemiol 2006; 27(6):571-5. 7. Despotova-Toleva L. Neonatal transport--a part of the study "follow-up of some indices in neonates, treated with artificial ventilation during the neonatal period". Folia Med (Plovdiv). 1999; 41(1):82-7. 8. Drews MB, Ludwig AC, Leititis JU, et al. Low birth weight and nosocomial infection of neonates in a neonatal intensive care unit. J Hosp Infect 1995; 30(1):65-72. 9. Goldmann DA, Freeman J, Durbin WA Jr. Nosocomial infection and death in a neonatal intensive care unit. J Infect Dis 1983; 147(4):635- 41. 10. Hà Mạnh Tuấn, Hoàng Trọng Kim. Các yếu tố nguy cơ NKBV tại khoa hồi sức cấp cứu nhi. Tạp chí y học thực hành, 2005(518):22-28. 11. Haley RW, Bregman DA. The role of understaffing and overcrowding in recurrent outbreaks of staphylococcal infection in a neonatal special-care unit. J Infect Dis 1982; 145(6):875-85. 12. Horan TC, Gaynes RP. Surveillance of nosocomial infections. In:Hospital Epidemiology and Infection Control, 3rd ed., Mayhall CG, editor. Philadelphia:Lippincott Williams & Wilkins, 2004:1659-1702. 13. Jeong IS, Jeong JS, Choi EO. Nosocomial infection in a newborn intensive care unit (NICU), South Korea. BMC Infect Dis 2006; 6:103. 14. Kurlat I, Corral G, Oliveira F, et al. Infection control strategies in a neonatal intensive care unit in Argentina. J Hosp Infect 1998; 40(2):149- 54. 15. Lam BC, Lee J, Lau YL. Hand hygiene practices in a neonatal intensive care unit: a multimodal intervention and impact on nosocomial infection. Pediatrics 2004; 114(5):e565-71. 16. Lin IJ, Chen CH, Chen PY, et al. Nosocomial infection in a neonatal intensive care unit--from a viewpoint of national health insurance. Acta Paediatr Taiwan 2000; 41(3):123-8. 17. Mireya UA, Marti PO, Xavier KV, et al. Nosocomial infections in paediatric and neonatal intensive care units. J Infect 2007; 54(3):212-20. 18. Nagata E, Brito AS, Matsuo T. Nosocomial infections in a neonatal intensive care unit: incidence and risk factors. Am J Infect Control 2002; 30(1):26-31. 19. Nguyễn Thị Thanh Hà, Cam Ngọc Phượng, Nguyễn Hoàng Khánh Thọ, và cs. Nhiễm trùng 162 máu: tần suất và các yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân có đặt catheter mạch máu tại khoa Hồi sức sơ sinh tại Bệnh viện Nhi đồng 1. Hội nghị Tổng kết và báo cáo khoa học chống nhiễm khuẩn bệnh viện, tháng 12/2006. Hà Nội. 20. Pawa AK, Ramji S, Prakash K, et al. Neonatal nosocomial infection: profile and risk factors. Indian Pediatr 1997; 34(4):297-302. 21. Schelonka RL, Scruggs S, Nichols K, et al. Sustained reductions in neonatal nosocomial infection rates following a comprehensive infection control intervention. J Perinatol 2006; 26(3):176-9.. 22. Sohn AH, Garrett DO, Sinkowitz-Cochran RL et al. Prevalence of nosocomial infections in neonatal intensive care unit patients: Results from the first national point-prevalence survey. J Pediatr 2001; 139(6):821-7. 23. Su BH, Hsieh HY, Chiu HY, et al. Nosocomial infection in a neonatal intensive care unit: a prospective study in Taiwan. Am J Infect Control 2007; 35(3):190-5. 24. Tavora AC, Castro AB, Militao MA, et al. Risk factors for nosocomial infection in a Brazilian neonatal intensive care unit. Braz J Infect Dis 2008; 12(1):75-9. 25. Ungerer RL, Lincetto O, McGuire W, et al. Prophylactic versus selective antibiotics for term newborn infants of mothers with risk factors for neonatal infection. Cochrane Database Syst Rev. 2004(4):CD003957. 26. van der Zwet WC, Kaiser AM, van Elburg RM, et al. Nosocomial infections in a Dutch neonatal intensive care unit: surveillance study with definitions for infection specifically adapted for neonates. J Hosp Infect. 2005; 61(4):300-11. 27. Vergnano S, Sharland M, Kazembe P, et al. Neonatal sepsis: an international perspective. Arch Dis Child Fetal Neonatal Ed 2005; 90(3):F220-4. 28. Won SP, Chou HC, Hsieh WS et al. Handwashing program for the prevention of nosocomial infections in a neonatal intensive care unit. Infect Control Hosp Epidemiol 2004; 25(9):742-6. 29. Xu Y, Zhang LJ, Ge HY, et al. (Clinical analysis of nosocomial infection in neonatal intensive care units). Zhonghua Er Ke Za Zhi 2007; 45(6):437- 41. 30. Zafar N, Wallace CM, Kieffer P, et al. Improving survival of vulnerable infants increases neonatal intensive care unit nosocomial infection rate. Arch Pediatr Adolesc Med 2001; 155(10):1098- 104.1. . 163

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhiem_khuan_benh_vien_tai_khoa_so_sinh_benh_vien_hung_vuong.pdf
Tài liệu liên quan