Nhiễm trùng sau ghép gan từ người cho sống tại bệnh viện Nhi đồng 2
BÀN LUẬN
Sự phát triển thành công của công tác ghép
gan làm thay đổi ngoạn mục tiên lượng của trẻ
tử vong do suy gan giai đoạn cuối và được nhìn
nhận là phương pháp điều trị thích hợp cho tình
trạng này. Sau hơn 4 năm (2005- 2010) thực hiện
chương trình ghép gan với sự hỗ trợ của bệnh
viện Saint Luc thuộc vương quốc Bỉ, có 7 trường
hợp ghép gan từ người cho sống được thực hiện
tại Bệnh viện Nhi Đồng 2, trung bình 2 trường
hợp ghép mỗi năm. Tương tự với các trung tâm
ghép về chỉ định chính của ghép gan ở trẻ em,
chẩn đoán trước ghép của tất cả trường hợp là
bệnh teo đường mật bẩm sinh và có biến chứng
suy gan giai đoạn cuối(1). Tuổi của trẻ lúc ghép là
nhỏ với trung vị là 12 tháng tuổi (bách phân vị
25% -75% là 12-16). Ảnh hưởng của tuổi bệnh
nhi lúc ghép lên khả năng sống còn của bệnh
nhân đã được trung tâm UCLA chứng minh: tất
cả bệnh nhi nhỏ hơn 1 tuổi có nguy cơ tử vong
sau phẫu thuật cao hơn(6).
Mặc dù công tác ghép gan có nhiều tiến bộ,
nhiễm trùng sau ghép có thể là biến chứng
thường gặp và đe dọa sống còn, với ước tính 2/3
bệnh nhân ghép gan có một đợt nhiễm trùng
nặng. Bệnh cảnh nhiễm trùng đa dạng và
thường do các điều kiện như bệnh nhân trước
ghép có tình trạng sức khỏe kém, chịu đựng một
phẫu thuật có kỹ thuật phức tạp, và đòi hỏi điều
trị ức chế miễn dịch kéo dài và có thể với liều
mạnh hơn do thải ghép. Vì những lý do này, nếu
nhiễm trùng không được nhận biết sớm và đủ,
có thể nhanh chóng leo thang thành bệnh lan tỏa
nặng đưa đến tử vong. Mỗi bệnh nhân ghép có
trung bình 1,5 – 2,5 lần nhiễm trùng(3).
Nói chung, có 3 giai đoạn có thể phát triển
nhiễm trùng ở người nhận trong quá trình sau
ghép gan: Tháng đầu tiên sau phẫu thuật, giữa 1
và 6 tháng sau ghép, và sau 6 tháng. Ghi nhận
được hầu hết nhiễm trùng xuất hiện trong 2
tháng đầu sau ghép gan, là thời điểm liên quan
với giai đoạn của các đợt thải ghép và dùng
thuốc ức chế miễn dịch liều cao. Trong tháng
đầu tiên sau phẫu thuật, nhiễm trùng sớm
thường hay kèm với tình trạng bệnh trước ghép
hoặc biến chứng phẫu thuật. Nhiễm vi khuẩn
hoặc nấm thường gặp nhất trong khoảng thời
gian này(1). Có 6/7 trường hợp nhiễm trùng ở
thời điểm ngay sau khi phẫu thuật, với đa số do
vi khuẩn Gram âm và đáp ứng với kháng sinh
theo kháng sinh đồ. Ở giai đoạn trung gian (31-
180 ngày), là thời gian điển hình khởi phát các
nhiễm trùng cơ hội, gồm nhiễm trùng truyền từ
người cho (từ tạng hay từ sản phẩm của máu)
hoặc liên quan với siêu vi tái hoạt động như
nhiễm CMV, và PTLD liên quan với EBV.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 275 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhiễm trùng sau ghép gan từ người cho sống tại bệnh viện Nhi đồng 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 1
NHIỄM TRÙNG SAU GHÉP GAN TỪ NGƯỜI CHO SỐNG
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
Phạm Thị Ngọc Tuyết*, Nguyễn Thu Thủy*, Tăng Lê Châu Ngọc*, Nguyễn Diệu Vinh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh viện Nhi đồng 2 đã thực hiện 7 trường hợp ghép gan từ người cho sống. Kỹ thuật và chất
lượng chăm sóc, điều trị ngày càng cải tiến, nhưng tỉ lệ sống còn của bệnh nhân sau 1 năm là thấp do nhiễm
trùng sau ghép.
Mục tiêu: Khảo sát về các nhiễm trùng sau ghép ở 7 trường hợp ghép gan từ người cho sống tại Bệnh viện
Nhi đồng 2.
Phương pháp: Nghiên cứu phân tích hồi cứu, mẫu nghiên cứu là 7 bệnh nhân đã được ghép gan từ người
cho sống tại bệnh viện Nhi đồng 2 từ tháng 12 năm 2005 đến tháng 7 năm 2010. Xác suất sống sau ghép được
xác định với phương pháp phân tích sống còn Kaplan-Meier.
Kết quả: Có 7 trường hợp ghép gan từ người cho sống được thực hiện từ năm 2005- 2010. Có 6/7 trường
hợp ghép gan có nhiễm trùng sớm (0-30 ngày) do vi khuẩn; ở giai đoạn trung gian (31-180 ngày) có 4 trường
hợp nhiễm Epstein-Barr virus (EBV), 1 trường hợp bệnh EBV và 1 trường hợp nhiễm Cytomegalo virus (CMV);
ở giai đoạn nhiễm trùng muộn (hơn 180 ngày) gồm nhiễm siêu vi và vi khuẩn. Nguyên nhân chính gây tử vong
là bệnh rối loạn tăng sinh lympho sau ghép (post-transplant lymphoproliferative disorders - PTLD) liên quan với
EBV. Khả năng sống còn trong năm đầu là 86% và sang năm thứ 2 là 57%.
Kết luận: Ở các bệnh nhân ghép gan từ người cho sống tại bệnh viện Nhi đồng 2, tỉ lệ nhiễm EBV là cao và
nguyên nhân chính gây tử vong là bệnh PTLD liên quan với EBV.
Từ khóa: Nhiễm trùng sau ghép gan từ người cho sống; nhiễm EBV; bệnh rối loạn tăng sinh lympho sau
ghép liên quan với EBV.
ABSTRACT
INFECTIONS AFTER LIVING DONOR LIVER TRANSPLANTATION
AT CHILDREN’S HOSPITAL 2
Pham Thi Ngoc Tuyet, Nguyen Thu Thuy, Tang Le Chau Ngoc, Nguyen Dieu Vinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 4 - 2010: 92 - 97
Background: 7 cases of living donor liver transplantation (LDLT) were performed at Children’s Hospital 2.
The method and quality of management are more and more improved, but the after 1-year patient survival rate is
low due to post-transplanttation infections.
Objectives: To examine the post-transplanttation infections in 7 cases of LDLT at Children’s Hospital 2.
Methods: We retrospectively analyzed 7 consecutive cases of LDLT done in the period of December 2005 to
July 2010, in Children’s Hospital 2. Post-transplant survival rate was verified with Kaplan-Meier survival
method.
Results: Early infections (0-30 days) with bacterial pathogens in 6/7 cases of LDLT; in intermediate period
(31-180 days), 4 cases of EBV infection, 1 case of EBV disease and 1 case of CMV infection; late infections (more
than 180 days) include viral and bacterial infections. The principal cause of mortality was EBV-associated
* Bệnh viện Nhi Đồng 2
Tác giả liên lạc: BSCK 2 Phạm Thị Ngọc Tuyết, ĐT: 0903315451, Email: tuyetpham57@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 2
PTLDs. The 1-year patient survival rate was 86% and 2-year patient survival rate was 57%.
Conclusion: The incidence of EBV infection was high and the principal cause of mortality was EBV-
associated PTLDs in LDLT patients at Children’s Hospital 2.
Key words: Infections after living donor liver transplantation; EBV infection; EBV-associated PTLD.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thành công của ghép gan được ứng dụng tại
nhiều quốc gia đang phát triển qua các chương
trình hợp tác quốc tế, chuyển giao khoa học kỹ
thuật từ các nước tiên tiến. Nhật bản, Hàn Quốc,
Vương quốc Bỉđã hỗ trợ và chuyển giao kỹ
thuật ghép gan cho Việt nam. Thực hiện chương
trình lấy tạng từ người cho chết thì khó khăn,
hiệu quả nhất là ghép gan từ người cho sống, mà
hầu hết chỉ định cho suy gan giai đoạn cuối. Việc
bảo quản tạng, kỹ thuật ngoại khoa, thuốc ức
chế miễn dịch và công tác theo dõi, chăm sóc sau
ghép ngày càng được cải tiến đã góp phần cải
thiện tỉ lệ sống còn. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển thuốc ức chế miễn dịch ở trẻ em, nguy cơ
nhiễm trùng sau ghép ngày càng tăng, đặc biệt
nhiễm EBV mà tác động trực tiếp lên kết quả của
ghép tạng.
Epstein-Barr virus (EBV), là một loại siêu
vi herpes có khắp nơi, tùy theo tình trạng kinh
tế xã hội thì số người bị nhiễm với tỉ lệ huyết
thanh là 40-90% ở thanh thiếu niên. Tính sinh
ung thư của EBV liên quan đến khả năng biến
đổi và bất tử của tế bào lympho B, gây nên
tăng sinh không kiểm soát các tế bào biến đổi
này- đặc biệt ở người suy giảm miễn dịch.
Tăng sinh tế bào lympho không kiểm soát gây
nên bệnh lý PTLD(4).
Nhiễm EBV tiên phát ở người nhận có
huyết thanh âm tính kèm với nguy cơ cao phát
triển PTLD(4). Nguy cơ cao nhất ở người nhận
có huyết thanh âm tính mà nhận tạng từ người
cho có huyết thanh dương tính (Donor
+/Recipient-: D+/R-). Ngược lại, PTLD liên
quan EBV (EBV-associated PTLD) không
thường gặp ở bệnh nhân có huyết thanh
dương tính trước ghép. Áp dụng điều trị
kháng tế bào T đặc hiệu (specific anti-T- cell
therapies), ví dụ OKT3 cũng kèm tăng nguy cơ
phát triển PTLD(2). Dùng thuốc ức chế miễn
dịch mạnh hơn có thể tăng nguy cơ PTLD. Vì
các lý do này, sử dụng thuốc ức chế miễn dịch
nên theo dõi sự xuất hiện bệnh EBV sau đó,
nhất là ở người nhận có huyết thanh âm tính.
Nhiễm EBV: Nhiễm EBV trong quá khứ được
định nghĩa khi có huyết thanh dương tính mà
không có kháng thể chủ động. Thể hoạt động,
nhiễm EBV không triệu chứng được định nghĩa
khi có nồng độ siêu vi đo được bởi xét nghiệm
khuyếch đại acid nucleic. Thể nhiễm không triệu
chứng có thể cũng được nhận biết bởi mẫu mô
giàu tế bào lympho.
Bệnh EBV: Được định nghĩa bởi hiện diện
của nhiễm EBV hoạt động với triệu chứng có thể
qui kết do siêu vi. Biểu hiện lâm sàng của EBV ở
người nhận gồm hội chứng nhiễm siêu vi không
đặc hiệu, bệnh tăng tế bào đơn nhân
(mononucleosis), PTLD và lymphoma ác tính.
Bệnh rối loạn tăng sinh lympho sau ghép
(PTLD): Tiêu chuẩn vàng chẩn đoán là khảo sát
mô học. PTLD được phân loại theo WHO:
- Thương tổn sớm
+ Reactive plasmacytic hyperplasia
+ Infectious mononucleosis-like
+ Polymorphic PTLD
+ Monomorphic PTLD
+ B-cell neoplasms (ví dụ như diffuse large
B-cell lymphoma, Burkitt, myeloma)
+ T-cell neoplasms
- Hodgkin lymphoma và Hodgkin-like
PTLD
Từ tháng 12 năm 2005 đến nay, Bệnh viện
Nhi đồng 2 đã thực hiện 7 trường hợp ghép gan
từ người cho sống. Kỹ thuật và chất lượng chăm
sóc, điều trị ngày càng cải tiến, nhưng tỉ lệ sống
còn của bệnh nhân là thấp do biến chứng nhiễm
trùng sau ghép. Do đó, để cải thiện kết quả và
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 3
phát triển chương trình ghép gan, khảo sát
nhiễm trùng sau ghép ở các trường hợp ghép
gan tại Bệnh viện Nhi đồng 2 là cần thiết.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là một nghiên cứu phân tích hồi cứu với
mẫu nghiên cứu là 7 bệnh nhân đã được ghép
gan tại Bệnh viện Nhi đồng 2 từ tháng 12 năm
2005 đến tháng 07 năm 2010. Các thông tin và dữ
liệu về theo dõi diễn tiến bệnh, biến chứng
nhiễm trùng và xử trí được ghi nhận từ bệnh án
và hồ sơ theo dõi bệnh nhân ghép gan.
Dữ kiện được nhập với phần mềm Epidata
3.0 và phân tích với phần mềm STATA 10. Các
đặc tính mẫu được tính với trung vị và khoảng
bách phân vị thứ 25 và 75, kèm theo biên độ tối
thiểu và tối đa. Xác suất sống sau ghép được xác
định với phương pháp phân tích sống còn
Kaplan-Meier.
KẾT QUẢ
Sau hơn 4 năm (2005- 2010) thực hiện
chương trình ghép gan với sự hỗ trợ của bệnh
viện Saint Luc thuộc vương quốc Bỉ, có 7 trường
hợp ghép gan từ người cho sống được thực hiện
tại Bệnh viện Nhi Đồng 2, gồm 6 nữ, tuổi trung
vị lúc ghép là 12 tháng, 6 trẻ sống ở thành phố
Hồ Chí Minh và 1 trẻ sống ở tỉnh Đồng Nai.
Chẩn đoán trước ghép đều là bệnh teo đường
mật bẩm sinh, có biến chứng suy gan giai đoạn
cuối. Có 5 trẻ đã được làm phẫu thuật nối ruột –
cửa gan (Kasai). Người cho gan là cha hoặc mẹ
của trẻ (Bảng 1).
Bảng 1: Đặc tính mẫu
Ca ghép 1 Ca ghép 2 Ca ghép 3 Ca ghép 4 Ca ghép 5 Ca ghép 6 Ca ghép 7
Trung vị
(bách phân
vị 25% -
75%)
Ngày ghép 05-12-2005 13-3-2006 04-12-2006 02-7-2007 25-02-2008 17-11-2008 07-12-2009
Tuổi lúc ghép
(tháng)
23 12 16 12 16 11,5 12 12 (12-16)
Giới Nữ Nữ Nam Nữ Nữ Nữ Nữ
Nơi cư trú TPHCM TPHCM TPHCM TPHCM TPHCM Đồng nai TPHCM
Nghề nghiệp
cha
Bác sĩ Kỹ sư Kỹ sư Bảo vệ Kinh doanh Kinh doanh Buôn bán nhỏ
Nghề nghiệp
mẹ
Sinh viên Y
khoa
Kỹ sư Kế toán Kế toán Kinh doanh Kinh doanh Kế toán viên
Quan hệ
Người cho -
Người nhận
Mẹ - con Mẹ - con Mẹ - con Mẹ - con Cha - con Mẹ - con Mẹ - con
Tuổi Người
cho (năm)
31 31 38 29 43 32 28 31 (29-38)
Chẩn ñoán
trước ghép
Teo ñường
mật bẩm
sinh-Kasai
Teo ñường
mật bẩm
sinh-không
Kasai
Teo ñường
mật bẩm
sinh-Kasai
Teo ñường
mật bẩm
sinh- không
Kasai
Teo ñường
mật bẩm
sinh- Kasai
Teo ñường
mật bẩm
sinh-Kasai
Teo ñường mật
bẩm sinh-Kasai
Thời gian nằm
viện trước
ghép (ngày)
14 37 5 51 42 107 49 42 (14-51)
Thời gian nằm
viện sau ghép
(ngày)
48 45 59 42 30 42 31 42 (31-48)
Có thể phát triển nhiễm trùng ở người nhận
sau ghép qua 3 giai đoạn: Sớm, trung gian và
muộn. Có 6/7 trường hợp ghép gan có nhiễm
trùng sớm (0-30 ngày) với các loại vi khuẩn
Escheria coli đa kháng, Klebsiella pneumonia,
Enterobacter, Enterococcus, Staphylococcus aureus; ở
giai đoạn trung gian (31-180 ngày) có 4 trường
hợp nhiễm EBV, 1 trường hợp bệnh EBV và 1
trường hợp nhiễm CMV; ở giai đoạn nhiễm
trùng muộn (hơn 180 ngày) gồm nhiễm siêu vi là
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 4
có 4 trường hợp bệnh EBV với các thể bệnh khác
nhau, 2 trường hợp nhiễm EBV mà kéo dài từ
giai đoạn trung gian và 3 bệnh nhi có nhiễm vi
khuẩn với bệnh cảnh viêm tai giữa, tiêu chảy
nhiễm trùng, viêm phổi do Pneumocystis carinii
và nhiễm trùng huyết (Bảng 2).
Thời gian nằm viện sau ghép của 7 trường
hợp với trung vị là 42 ngày (bách phân vị 25%
-75% là 31-48). Có 2 trường hợp tử vong ở thời
điểm 14 tháng sau ghép và 1 trường hợp tử
vong ở thời điểm 7 tháng sau ghép (Bảng 3).
Cả 3 trường hợp tử vong đều có bệnh PTLD
liên quan với EBV, trong đó có 1 trường hợp
phối hợp với bệnh thực bào máu liên quan với
EBV (EBV-HLH: EBV hemaphagocytic
lymphohistiocytosis) và 1 trường hợp phối
hợp với nhiễm trùng huyết. Khả năng sống
còn trong năm đầu là 86% và sang năm thứ 2
là 57% (Hình 1). Trung vị thời gian sống sau
ghép là 14 tháng.
Bảng 2. Biến chứng nhiễm trùng sau ghép
Ca ghép
1
Ca ghép
2
Ca ghép
3
Ca ghép
4
Ca ghép
5
Ca ghép
6
Ca ghép
7
Nhiễm trùng sớm
Vi
Khuẩn
(NTH)
E. coli,
Entero
bacter
E. coli,
Enterococcus
Kleb. pneumonia
E. coli,
Staph. aureus
Kleb. pneumonia
E. Coli - MR Không Kleb.
pneumonia
E. Coli – MR
Điều trị Fortum,
Tienam,
Amiklin
Maxipim,
Tienam,
Amiklin
Claforan
Ampicin
Tienam,
Amiklin
Tienam
Netromycin
Tienam,
Amiklin
Tienam,
Amiklin
Nhiễm trùng giai ñoạn trung gian
Nhiễm
siêu vi
Nhiễm EBV Không Nhiễm EBV
Nhiễm EBV
Bệnh CMV
Nhiễm EBV Bệnh EBV
Diffuse large B
cell lymphoma
(Monomorphic
PTLD -WHO)
Thời gian
sau ghép
(ngày)
30 60 90 42 90 90
Điều trị Theo dõi Theo dõi Theo dõi Gancyclovir Theo dõi Ngưng IS
Rituximab
Nhiễm trùng muộn
Nhiễm
siêu vi
Nhiễm EBV Không Bệnh EBV-
PTLD
Bệnh EBV-
PTLD
Diffuse large B
cell lymphoma
(Monomorphic
PTLD -WHO)
Bệnh EBV-
PTLD
Bệnh EBV -
HLH
Nhiễm EBV Bệnh EBV-
PTLD
Diffuse large B
cell lymphoma
(Monomorphic
PTLD -WHO)
Thời gian
sau ghép
(ngày)
Kéo dài từ 30
ngày sau ghép
390 360 330 Kéo dài từ 90
ngày sau ghép
Kéo dài từ 90
ngày sau ghép
Điều trị Theo dõi Không Ngưng IS Ngưng IS
CHOP
Ngưng IS
Rituximab
Dexa
Epitoside
Cyclos A
Theo dõi Ngưng IS
Rituximab
Nhiễm
trùng
Không VTG
TC NT
VTG Không Không Viêm phổi do
Pneumocystis
carinii
NTH
Điều trị
Kháng sinh Kháng sinh Kháng sinh Kháng sinh
E coli MR: E coli multiresistant (đa kháng);
VTG: viêm tai giữa; TCNT: tiêu chảy nhiễm
trùng; EBV: Epstein-Barr virus; CMV:
Cytomegalo virus; EBV- PTLD: post-transplant
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 5
lymphoproliferative disorders liên quan với
EBV; EBV – HLH: hemaphagocytic
lymphohistiocytosis liên quan với EBV; NTH:
nhiễm trùng huyết; IS: Immunosuppressants (ức
chế miễn dịch).
Bảng 3. Thời gian sống còn sau ghép gan
Ca
ghép
1
Ca
ghép
2
Ca
ghép
3
Ca
ghép
4
Ca
ghép
5
Ca
ghép
6
Ca
ghép
7
Thời
gian
sống
sau
ghép
ñến nay
(tháng)
–
nguyên
nhân tử
vong
56 53 44 Tử
vong,
14th
sau
ghép –
Bệnh
EBV-
PTLD
Tử
vong,
14th
sau
ghép -
Bệnh
EBV-
PTLD,
EBV-
HLH
21 Tử
vong,
7th sau
ghép -
Bệnh
EBV-
PTLD,
NTH
EBV – PTLD: post-transplant
lymphoproliferative disorders liên quan với
EBV; EBV – HLH: hemaphagocytic
lymphohistiocytosis liên quan với EBV; NTH:
nhiễm trùng huyết
0.
00
0.
25
0.
50
0.
75
1.
00
0 10 20 30 40
analysis time
Kaplan-Meier survival estimate
Hình 1: Đường Kaplan-Meier - Khả năng sống còn
sau ghép gan
BÀN LUẬN
Sự phát triển thành công của công tác ghép
gan làm thay đổi ngoạn mục tiên lượng của trẻ
tử vong do suy gan giai đoạn cuối và được nhìn
nhận là phương pháp điều trị thích hợp cho tình
trạng này. Sau hơn 4 năm (2005- 2010) thực hiện
chương trình ghép gan với sự hỗ trợ của bệnh
viện Saint Luc thuộc vương quốc Bỉ, có 7 trường
hợp ghép gan từ người cho sống được thực hiện
tại Bệnh viện Nhi Đồng 2, trung bình 2 trường
hợp ghép mỗi năm. Tương tự với các trung tâm
ghép về chỉ định chính của ghép gan ở trẻ em,
chẩn đoán trước ghép của tất cả trường hợp là
bệnh teo đường mật bẩm sinh và có biến chứng
suy gan giai đoạn cuối(1). Tuổi của trẻ lúc ghép là
nhỏ với trung vị là 12 tháng tuổi (bách phân vị
25% -75% là 12-16). Ảnh hưởng của tuổi bệnh
nhi lúc ghép lên khả năng sống còn của bệnh
nhân đã được trung tâm UCLA chứng minh: tất
cả bệnh nhi nhỏ hơn 1 tuổi có nguy cơ tử vong
sau phẫu thuật cao hơn(6).
Mặc dù công tác ghép gan có nhiều tiến bộ,
nhiễm trùng sau ghép có thể là biến chứng
thường gặp và đe dọa sống còn, với ước tính 2/3
bệnh nhân ghép gan có một đợt nhiễm trùng
nặng. Bệnh cảnh nhiễm trùng đa dạng và
thường do các điều kiện như bệnh nhân trước
ghép có tình trạng sức khỏe kém, chịu đựng một
phẫu thuật có kỹ thuật phức tạp, và đòi hỏi điều
trị ức chế miễn dịch kéo dài và có thể với liều
mạnh hơn do thải ghép. Vì những lý do này, nếu
nhiễm trùng không được nhận biết sớm và đủ,
có thể nhanh chóng leo thang thành bệnh lan tỏa
nặng đưa đến tử vong. Mỗi bệnh nhân ghép có
trung bình 1,5 – 2,5 lần nhiễm trùng(3).
Nói chung, có 3 giai đoạn có thể phát triển
nhiễm trùng ở người nhận trong quá trình sau
ghép gan: Tháng đầu tiên sau phẫu thuật, giữa 1
và 6 tháng sau ghép, và sau 6 tháng. Ghi nhận
được hầu hết nhiễm trùng xuất hiện trong 2
tháng đầu sau ghép gan, là thời điểm liên quan
với giai đoạn của các đợt thải ghép và dùng
thuốc ức chế miễn dịch liều cao. Trong tháng
đầu tiên sau phẫu thuật, nhiễm trùng sớm
thường hay kèm với tình trạng bệnh trước ghép
hoặc biến chứng phẫu thuật. Nhiễm vi khuẩn
hoặc nấm thường gặp nhất trong khoảng thời
gian này(1). Có 6/7 trường hợp nhiễm trùng ở
thời điểm ngay sau khi phẫu thuật, với đa số do
vi khuẩn Gram âm và đáp ứng với kháng sinh
theo kháng sinh đồ. Ở giai đoạn trung gian (31-
180 ngày), là thời gian điển hình khởi phát các
nhiễm trùng cơ hội, gồm nhiễm trùng truyền từ
người cho (từ tạng hay từ sản phẩm của máu)
hoặc liên quan với siêu vi tái hoạt động như
nhiễm CMV, và PTLD liên quan với EBV. Ở lô
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 6
nghiên cứu này, có một trường hợp bệnh CMV
xuất hiện vào ngày 42 sau ghép, đa số có nhiễm
EBV thể hoạt động không triệu chứng được xác
định bởi đo nồng độ siêu vi bằng phương pháp
sinh học phân tử và một trường hợp bệnh PTLD
liên quan với EBV xuất hiện vào ngày 90 sau
ghép. Bệnh CMV đáp ứng tốt với điều trị
gancyclovir trong hai tuần. Ngược lại, bệnh EBV
diễn tiến phức tạp và điều trị khó khăn, ít hiệu
quả. Tần suất và độ nặng nhiễm trùng do vi
khuẩn ở trẻ em vào thời điểm 6 tháng sau ghép
thì tương tự như ở trẻ khỏe mạnh. Điều nay hầu
như được giải thích bởi đa số người nhận là trẻ
em được duy trì với nồng độ thấp của thuốc ức
chế miễn dịch lâu dài. Ở giai đoạn muộn (180
ngày sau ghép), các trường hợp nhiễm EBV thể
hoạt động không triệu chứng được tiếp tục theo
dõi và không điều trị đặc hiệu; có 4 trường hợp
bệnh PTLD liên quan với EBV (bệnh EBV-
PTLD), trong số đó có một bệnh nhân có kèm
bệnh thực bào máu liên quan với EBV và một
bệnh nhân có kèm nhiễm trùng huyết (Bảng 2).
Tử vong là cao ở nhóm trẻ có biến chứng
PTLD liên quan với EBV (3/4 trường hợp) ở thời
điểm tháng thứ 7 và tháng thứ 14 sau ghép. Khả
năng sống còn trong năm đầu là 86% và sang
năm thứ 2 là 57% (Bảng 3, Hình 1). Nghiên cứu
của một trung tâm với kinh nghiệm lâu dài qua
4000 trường hợp ghép gan, có 170 (4.3%) bị
PTLD. Tần suất PTLD liên quan với EBV ở trẻ
em thì cao hơn ở người lớn có ý nghĩa (9,7% so
với 2,9%). Tỉ lệ sống còn 1 năm ở người nhận
ghép gan mà không bị PTLD là 85%, trong khi ở
bệnh nhân bị PTLD chỉ khoảng 45%(5).
KẾT LUẬN
Ở các bệnh nhân ghép gan từ người cho
sống tại bệnh viện Nhi đồng 2, tỉ lệ nhiễm EBV
là cao và nguyên nhân chính gây tử vong là
bệnh PTLD liên quan với EBV.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ekong UD (2007). Recipient characteristic. In: Fine NR, Kelly
DA. Pediatric solid organ transplantation, 2nd edition, pp 199-
206. Blackwell Publishing Ltd, Oxford.
2. Guthery SL, Heubi JE, Bucuvalas JC et al (2003). Determination
of risk factors for Epstein-Barr virus-associated posttransplant
lymphoproliferative disorder in pediatric liver transplant
recipients using objective case ascertainment. Transplantation;
75: 987-993.
3. Holt CD, Winston DJ (2005). Infection after liver
transplantation. In: Busutitil RW, Klintmalm GB.
Transplantaion of the liver, 2nd edition, pp 923-994. Elsevier Inc,
Philadelphia USA.
4. Humar A; Michaels M (2006). American Society of
Transplantation Recommendations for Screening, Monitoring
and Reporting of Infectious Complications in
Immunosuppression Trials in Recipients of Organ
Transplantation; Am J Transplant. 6(2):262-274.
5. Jain E, Nalesnik M (2002). Posttransplant lymphoproliferative
disorders in liver transplantation: A 20-year experience. Ann
Surg 236:429-436.
6. McDiarmid SV et al (1998). Long-term results of pediatric liver
transplantation:an analysis of 569 transplants. Ann Surg;
228:411-20.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 7
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhiem_trung_sau_ghep_gan_tu_nguoi_cho_song_tai_benh_vien_nhi.pdf