Nhiệm vụ trọng tâm công tác y tế năm 2011

Ảnh hởng của việc thiếu an toàn thực phẩm đối với sức khỏe bao gồm việc gây ra các bệnh tiêu chảy và các loại ung th. Tổ chức Y tế Thế giới ớc tính các bệnh tiêu chảy liên quan đến thực phẩm và nớc uống giết chết 2,2 triệu ngời mỗi năm, trong đó có 1,9 triệu trẻ em. Tỷ lệ ngộ độc thực phẩm ở Việt Nam hiện còn ở mức cao. Theo số liệu từ Chơng trình mục tiêu về vệ sinh an toàn thực phẩm, hằng năm có khoảng 150-250 vụ ngộ độc thực phẩm đợc báo cáo với từ 3.500 đến 6.500 ngời mắc, tử vong từ 37 đến 71 ngời một năm. Tuy nhiên trong thực tế con số này có thể cao hơn nhiều. Ngày nay, có nhiều vụ ngộ độc thực phẩm tại các bếp ăn tập thể của các nhà máy, xí nghiệp liên doanh, khu công nghiệp hoặc tại các đám cới, đám tang Ngộ độc thực phẩm do hóa chất, đặc biệt là hóa chất sử dụng trong nông nghiệp nh hóa chất bảo vệ thực vật, một số hóa chất bảo quản thực phẩm, chiếm khoảng 25% tổng số các vụ ngộ độc thực phẩm. Tình hình ngộ độc thực phẩm tuy có giảm gần đây, nhng diễn biến vẫn còn khá phức tạp. Với sự phát triển và công nghiệp hóa mạnh mẽ, nguy cơ ngộ độc thực phẩm có thể tăng vì những bếp tập thể phục vụ hàng trăm ngời và những lô hàng thực phẩm chế biến theo phơng pháp công nghiệp đợc bán cho số ngời rất đông. Ngộ độc thực phẩm xảy ra do nhiều nguyên nhân, trong đó do vi sinh vật là 7,8%, do hóa chất là 0,5%, do độc tố tự nhiên là 25,4%, và do các nguyên nhân không xác định đợc là 66,3%. Số ngời mắc tập trung ở các vụ ngộ độc bếp ăn tập thể, thức ăn đờng phố, đám cới/đám giỗ, số ngời chết tập trung ở các vụ ngộ độc thực phẩm bếp ăn gia đình.

pdf10 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 13 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhiệm vụ trọng tâm công tác y tế năm 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3Chính sách - Số 7/2011 Y tế Tạp chí hát huy những thành tựu đã đạt được, khắc Pphục những hạn chế, tồn tại, nắm bắt thời cơ, Ngành Y tế quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, tập trung vào một số phương hướng và nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2011 và giai đoạn 2011- 2015 như sau: Trong năm 2011, nhiệm vụ bao trùm của Ngành Y tế là thực hiện Kết luận số 42-KL/TW ngày 01/4/2009 về Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương và giá dịch vụ y tế) đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập; Kết luận số 43-KL/TW ngày 01/4/2009 về 3 năm thực hiện Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị (khoá IX) về “Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới” và 5 năm thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 22/01/2002 của Ban Bí thư về “Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở”; Kết luận số 44-NQ/TW ngày 22/03/2005 của Bộ Chính trị (khoá IX) về “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình”; Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 18 và 23/2008/QH12 của Quốc hội (đặc biệt là tập trung triển khai Quyết định 930/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề á n đầu tư xây dựng, nâng cấp, cải tạo các bệnh viện chuyên khoa lao, tâm thần, ung bướu, chuyên khoa nhi và một số bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi khó khăn sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2009-2013), Nghị quyết 30/2008/HQ-CP của Chính phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Nhiệm vụ cụ thể: 1. Về phát triển hệ thống y tế: Tiếp tục ổn định, củng cố và phát triển hệ thống y tế, đặc biệt là tuyến y tế cơ sở: Mở rộng mạng lưới khám chữa bệnh tới tận tuyến cơ sở, vùng sâu, vùng xa; Củng cố mạng lưới y tế dự phòng; Triển khai thực hiện Chuẩn quốc gia y tế dự phòng tại các Trung tâm y tế dự phòng tỉnh; Xây dựng và triển khai thực hiện Đề á n Phát triển y tế nông thôn. 2. Về khám chữa bệnh: - Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình hành động nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh nhằm mục tiêu đáp ứng sự hài lòng của người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế (BHYT); tuyên truyền, vận động và thực hiện tốt chính sách hỗ trợ người cận nghèo mua thẻ BHYT. - Đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 06/2007/CT-BYT ngày 07/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, trong đó đặc biệt lưu ý không lạm dụng thuốc, xét nghiệm cận lâm sàng, dịch vụ kỹ thuật cao, thực hiện tốt công tác giáo dục nâng cao y đức. Tập trung vào việc sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước và các nguồn thu để nâng cao chất lượng các dịch vụ khám chữa bệnh, sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng, trang thiết bị của các cơ sở y tế, đặc biệt là các bệnh viện tuyến huyện, bệnh viện khu vực đã và đang được đầu tư trong thời gian vừa qua để giảm bớt và giải quyết về cơ bản tình trạng quá tải ở các bệnh viện tỉnh, bệnh viện trung ương và các thành phố lớn. Tiếp tục thực hiện chính sách quốc gia về y dược học cổ truyền, củng cố, đầu tư, nâng cấp NHIệM Vụ TRọNG TÂM CÔNG TáC Y Tế NĂM 2011 (Trích từ Báo cáo số 87/BC-BYT của Bộ Y tế “Về việc triển khai kế hoạch công tác năm 2011” ngày 11/02/2011). 4CHíNh luận các bệnh viện, cơ sở KCB và chất lượng KCB y học cổ truyền. - Đẩy mạnh công tác chỉ đạo tuyến, xây dựng phương á n thực hiện Quyết định 1816/QĐ-BYT ngày 26/05/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc phê duyệt Đề án “ Cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh” tại địa phương. - Đổi mới cơ chế quản lý tài chính của các bệnh viện công, nghiên cứu để đề xuất cơ chế phân bổ ngân sách mới cho các bệnh viện. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các dịch vụ y tế. Các tỉnh, thành phố có điều kiện kinh tế phát triển phải có các giải pháp cụ thể để khuyến khích phát triển các bệnh viện ngoài công lập. - Phát triển y học cổ truyền cả trong hệ thống công lập và ngoài công lập trên cơ sở thực hiện tốt Quyết định số 222/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị số 24 của Ban Bí thư Trung ương. - Tiếp tục triển khai mở rộng luân phiên cán bộ (Đề án 1816) từ tuyến trên về tuyến dưới nhằm bổ sung cán bộ có năng lực, chuyển giao kỹ thuật để nâng cao chất lượng điều trị cho tuyến dưới, góp phần giảm quá tải cho các bệnh viện tuyến trên; đẩy mạnh việc thực hiện tự chủ toàn diện theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ. - Từng bước xây dựng các bệnh viện xanh - sạch - đẹp, ưu tiên kinh phí để xử lý chất thải bệnh viện nhằm đảm bảo vệ sinh môi trường. 3. Về Y tế dự phòng: - Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục để người dân hiểu và chủ động thực hiện tốt các biện pháp tự phòng chống bệnh dịch. - Nâng cấp và củng cố hệ thống giám sát dịch bệnh; xây dựng và phát triển hệ thống cảnh báo sớm, đáp ứng nhanh; chủ động giám sát dịch tễ để phát hiện sớm các nguy cơ ô nhiễm và bệnh dịch, dự phòng thuốc, hoá chất để chủ động phòng chống dịch bệnh, không để các dịch bệnh lớn xảy ra sau thiên tai, thảm hoạ, khống chế và đẩy lùi các bệnh dịch mới phát sinh, giảm tỷ lệ mắc và chết của các bệnh truyền nhiễm gây dịch. - Tăng cường hoạt động an toàn tiêm chủng, an toàn sinh học trong phòng xét nghiệm. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả CTMTQG phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS. - Phòng chống và quản lý được các bệnh không lây nhiễm như bệnh tim mạch, ung thư, tiểu đường; bệnh nghề nghiệp, phòng chống tai nạn và thương tích. Tiếp tục vận động nhân dân triển khai xây dựng phong trào làng văn hoá sức khoẻ, phong trào vệ sinh nông thôn với 3 công trình: nước sạch, nhà tắm, nhà tiêu hợp vệ sinh để hạn chế, tiến tới xóa bỏ những tác hại đối với sức khoẻ nhân dân do tập quán, lối sống không lành mạnh, không hợp vệ sinh, hoặc do môi trường bị ô nhiễm. Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng, vệ sinh ATTP theo Nghị quyết số 34/2009/NQ-QH12 ngày 19/06/2009 của Quốc hội. 4. Tăng cường huy động nguồn lực đầu tư cho y tế: - Tiếp tục thực hiện Nghị định 79/2008/NĐ-CP của Chính phủ và Quyết định số 154/2006/QĐ- TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề á n “Quản lý nhà nước về dược phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm, mỹ phẩm giai đoạn 2006-2015”: xây dựng các trung tâm xét nghiệm, phòng thí nghiệm, trung tâm kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đủ năng lực và điều kiện hoạt động. - Tăng cường đầu tư, nâng cấp, củng cố hoàn thiện hệ thống y tế dự phòng tuyến tỉnh, các trung tâm y tế dự phòng huyện; đầu tư, nâng cấp, củng 5cố hoàn thiện hệ thống phòng chống HIV/AIDS tuyến tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đối với các trung tâm phòng chống HIV/AIDS theo Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 28/07/2009 về việc phê duyệt Đề á n Tăng cường năng lực hệ thống phòng, chống HIV/AIDS tuyến tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giai đoạn 2010-2015... - Triển khai thực hiện có hiệu quả việc đầu tư, nâng cấp các bệnh viện huyện theo Quyết định số 47/2008/QĐ-TTg; một số bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi, khó khăn, các bệnh viện lao, tâm thần, ung bướu, nhi theo Quyết định số 930 của Thủ tướng Chính phủ; các trung tâm y tế huyện theo Quyết định 1402/2008/QĐ- TTg; các trung tâm phòng chống HIV/AIDS theo Quyết định 1107 của Thủ tướng Chính phủ. Xây dựng, nâng cấp BV chuyên khoa Lao, Tâm thần, Nhi, Ung Bướu và một số bệnh viện đa khoa vùng khó khăn tuyến tỉnh (theo Quyết định số 930/2009/QĐ-TTg). - Tiếp tục ưu tiên các nguồn vốn để đầu tư, nâng cấp các trạm y tế xã theo Quyết định 950/QĐ-TTg, Quyết định 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt ưu tiên các xã chưa có trạm y tế hoặc có nhưng là nhà tạm; các xã mới chia tách; phấn đấu hết năm 2010, số xã có trạm y tế đạt 100% và khoảng 40% số xã đạt chuẩn quốc gia theo chuẩn mới. - Mở rộng hợp tác quốc tế song phương, đa phương, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, các tổ chức Ngân hàng, tài chính nhằm tăng cường thu hút nguồn lực đầu tư, tiếp cận công nghệ mới, tiên tiến của thế giới, góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập trong lĩnh vực y dược. - Triển khai có hiệu quả các dự án ODA, dự án NGO. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các Dự á n hỗ trợ Y tế Đồng bằng Sông Cửu Long, Dự á n hỗ trợ Y tế các tỉnh Nam Trung Bộ Sớm hoàn thành việc chuẩn bị để triển khai các dự án Hỗ trợ y tế các tỉnh Bắc Trung Bộ (vay WB ); Dự á n hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực y tế (ADB ); Dự á n phát triển bệnh viện tỉnh, vùng từ nguồn vốn vay JICA giai đoạn 2. Tiếp tục huy động và tranh thủ nguồn viện trợ của các tổ chức Chính phủ, Phi Chính phủ khác cho phát triển hệ thống y tế địa phương. - Huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư cho y tế, tận dụng cơ sở vật chất hiện có để tăng số giường bệnh; xây dựng thêm các bệnh viện mới. 5. Phát triển mạnh hệ thống y tế ngoài công lập: Tạo điều kiện khuyến khích xây dựng và phát triển các bệnh viện tư nhân. 6. Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính: - Triển khai Nghị định đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính khi được Chính phủ ban hành; Tăng cường tự chủ toàn diện cho giám đốc các đơn vị; Đổi mới phương thức phân bổ ngân sách; Triển khai khung giá dịch vụ y tế mới trên cơ sở tính đúng tính đủ, phần nào nhà nước chi thì không thu. - Đẩy mạnh việc vay vốn tín dụng ưu đãi Ngân hàng Phát triển để đầu tư phát triển. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 43 của Chính phủ, chuyển các bệnh viện từ loại hình tự đảm bảo một phần kinh phí thường xuyên để phát huy quyền chủ động, sáng tạo trong việc sử dụng các nguồn tài chính; sắp xếp, bố trí nhân lực để hoàn thành nhiệm vụ được giao, huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách để tổ chức các hoạt động dịch vụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các tầng lớp nhân dân, tăng thu nhập hợp pháp cho người lao động. - Tập trung triển khai kế hoạch 5 năm 2011- 2015, tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các chuyên khoa, các đơn vị. 7. Đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển nguồn nhân lực: - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các cơ sở y tế từ Chính sách - Số 7/2011 Y tế Tạp chí 6trung ương đến địa phương theo hướng dẫn tại Nghị định 13; 14/2008/NĐ-CP về tổ chức các cơ quan chuyên môn ở địa phương; Nghị định 79/2008/NĐ-CP về hệ thống tổ chức quản lý, thanh tra và kiểm nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác quản lý vắc-xin, sinh phẩm y tế, phòng chống tai nạn thương tích. Tiếp tục thực hiện Đề án 1816 của Bộ Y tế về việc luân phiên cán bộ y tế cho tuyến dưới để hướng dẫn và nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn cho cán bộ tuyến dưới. - Hoàn thiện hệ thống đào tạo liên tục cán bộ y tế từ trung ương đến địa phương, xây dựng hệ thống đánh giá, kiểm định các cơ sở đào tạo liên tục cán bộ y tế. Bổ sung đào tạo công nghệ thông tin theo Chỉ thị số 02/CT-BYT ngày 25/02/2009. - Tăng cường đầu tư nâng cấp nhằm củng cố và phát triển các cơ sở đào tạo nhân lực y tế công lập; đẩy mạnh đào tạo cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ, mở rộng các hình thức đào tạo nhằm bảo đảm nhân lực, số lượng, cơ cấu lao động cho các cơ sở y tế trong thời gian tới; mở thêm nhiều mã ngành mới, tăng chỉ tiêu tuyển sinh; khuyến khích các cơ sở đào tạo ngoài công lập tham gia đào tạo theo nhu cầu của người học, theo địa chỉ cho các tỉnh, vùng khó khăn, quan tâm đến đào tạo chuyên sâu, đáp ứng nhu cầu phát triển kỹ thuật cao, chuyển giao công nghệ, tiếp cận với các kỹ thuật y tế mới, nâng cao trình độ quản lý. - Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào công tác khám chữa bệnh, công tác y tế dự phòng, sản xuất thuốc, vắc xin, sinh phẩm, đào tạo, quản lý nhà nước, hoạch định chính sách... 8. Công tác Dược: - Đảm bảo đủ thuốc thiết yếu phục vụ công tác điều trị, triển khai các biện pháp hữu hiệu để bình ổn giá thuốc. Phối hợp chặt chẽ với các địa phương, các Bộ, ngành liên quan tăng cường kiểm tra, giám sát để đảm bảo chất lượng thuốc. Đẩy mạnh triển khai các giải pháp để sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, từng bước giảm việc lạm dụng thuốc trong điều trị ở các cơ sở y tế Nhà nước và tư nhân. Xây dựng quy hoạch phát triển sản xuất và lưu thông phân phối thuốc, phát triển dược liệu và thuốc Đông y. Chỉ đạo đơn vị thực hiện tốt việc đấu thầu mua thuốc theo quy định góp phần bình ổn giá thuốc trên thị trường. Trong năm 2010, tiếp tục giữ vững thị trường dược phẩm được ổn định và phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế, trên cơ sở đảm bảo tỷ lệ tăng giá thuốc luôn thấp hơn tỷ lệ tăng giá CPI nói chung. 9. Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình: - Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục và thực hiện đồng bộ các giải pháp để kiểm soát tốc độ tăng dân số, nâng cao chất lượng việc thử nghiệm, nhân rộng các mô hình, giải pháp can thiệp về kỹ thuật, kinh tế xã hội để phấn đấu đạt chỉ tiêu về giảm tỷ lệ sinh, giảm tỷ số giới tính khi sinh và nâng cao chất lượng dân số. - Phấn đấu đạt chỉ tiêu giảm tỷ lệ sinh đã được Quốc hội giao. - Tiếp tục kiện toàn và nâng cao chất lượng mạng lưới chăm sóc sức khoẻ sinh sản từ trung ương tới cơ sở. 10. Các công tác khác: - Tổ chức triển khai Luật BHYT và Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật BHYT, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động và hỗ trợ người cận nghèo mua thẻ BHYT để đảm bảo an sinh xã hội. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình hành động nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh nhằm mục tiêu đáp ứng sự hài lòng của người bệnh có thẻ BHYT. - Tập trung vào việc đẩy mạnh cải cách hành chính, phát huy dân chủ cơ sở, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý các đơn vị sự nghiệp. Tăng cường công tác thanh tra y tế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước. CHíNh luận - Tăng cường công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ khác. - Triển khai các nhiệm vụ liên quan tới y tế trường học, quản lý môi trường y tế, sức khoẻ nghề nghiệp, phòng chống tai nạn thương tích, sức khoẻ môi trường. Kiện toàn tổ chức liên quan tới quản lý môi trường y tế, phòng chống các bệnh không lây nhiễm. Để thực hiện được các mục tiêu nhiệm vụ công tác y tế năm 2011, Ngành Y tế tiến hành đồng thời nhiều giải pháp, trong đó có các giải pháp về củng cố hệ thống tổ chức và phát triển nguồn nhân lực, tiếp tục chuyển đổi cơ chế thống nhất quản lý về chuyên môn, nhân lực và tài chính y tế tại địa phương; Đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính; Đổi mới về đầu tư và cơ cấu phân bổ ngân sách theo hướng đầu tư Ngân sách nhà nước cho y tế cơ sở, y tế dự phòng, chương trình mục tiêu y tế quốc gia. Tăng cường xã hội hoá trong lĩnh vực khám chữa bệnh; nâng cao hiệu quả quản lý điều hành của Bộ, ngành và chính quyền các cấp trong công tác y tế; nâng cao trình độ kỹ thuật nghiệp vụ; đẩy mạnh thông tin truyền thông giáo dục sức khoẻ; mở rộng hợp tác quốc tế, đẩy mạnh xã hội hoá huy động sự đóng góp của toàn xã hội đối với công tác y tế,... Kiến nghị, đề xuất với Chính phủ: 1. Căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu của chương trình cải cách hành chính, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành của Chính phủ, đề nghị thực hiện một cách mạnh mẽ hơn việc cải tiến lề lối làm việc: phân định rõ trách nhiệm và thẩm quyền của tập thể Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và mỗi thành viên Chính phủ, đề cao trách nhiệm cá nhân; thực hiện mỗi việc chỉ giao một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính; giải quyết tốt mối quan hệ phối hợp liên ngành, tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính, bảo đảm cho toàn bộ hệ thống hành chính vận hành thông suốt, hiệu quả hơn. Đề nghị Chính phủ đẩy nhanh tiến độ phê duyệt các đề án của ngành y tế để ngành kịp thời triển khai thực hiện đáp ứng yêu cầu thực tế như đề án về quy định chế độ phụ cấp ưu đãi đối với cán bộ công chức viên chức tại các cơ sở y tế nhà nước; đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính... 2. Đề nghị Chính phủ tăng tỷ lệ chi ngân sách hàng năm cho sự nghiệp y tế, bảo đảm tốc độ tăng chi cho y tế cao hơn tốc độ tăng chi bình quân của ngân sách nhà nước; dành ít nhất 30% ngân sách y tế chi cho y tế dự phòng, chương trình mục tiêu y tế quốc gia (bao gồm cả kinh phí đầu tư phát triển cho hệ thống phòng chống HIV/AIDS và an toàn thực phẩm); tăng kinh phí bổ sung có mục tiêu cho các địa phương có khó khăn (ưu tiên cho trung tâm y tế dự phòng và y tế các huyện ). Đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho tiếp tục thực hiện chương trình phát triển kỹ thuật chuyên sâu y tế; ưu tiên đầu tư cho dự án phát triển trung tâm y tế kỹ thật cao bằng nguồn ngân sách nhà nước và các nguồn vốn hợp pháp khác; tiếp tục cho phép phát hành trái phiếu Chính phủ để đầu tư nâng cấp hệ thống bệnh viện đa khoa, một số bệnh viện chuyên khoa; tăng số giường bệnh, đặc biệt là giường bệnh của một số chuyên khoa đang quá tải ở bệnh viện tuyến trên như ung bướu, tim mạch, nhi khoa. 3. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ ngành rà soát, sửa đổi bổ sung, ban hành các văn bản pháp luật để đẩy nhanh việc thực hiện xã hội hoá công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân; chỉ đạo Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và đầu tư bố trí đủ ngân sách cho việc triển khai Đề án Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính trong đó có tiền lương và giá dịch vụ y tế đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập, Đề á n 47, Đề á n 930, đầu tư xây dựng hệ thống kiểm nghiệm đủ năng lực và điều kiện hoạt động theo Nghị định 79/2008/NĐ-CP của Chính phủ và Quyết định 154/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề á n “Quản lý Nhà nước về dược phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm, mỹ phẩm giai 7 Chính sách - Số 7/2011 Y tế Tạp chí đoạn 2006 - 2015”; tăng cường đầu tư, nâng cấp, củng cố hoàn thiện hệ thống y tế dự phòng tuyến tỉnh, các trung tâm y tế dự phòng huyện. 4. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cấp tiếp tục nâng mức đầu tư ngân sách địa phương cho y tế; đồng thời huy động các nguồn lực của xã hội để phát triển hệ thống y tế. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng lộ trình phù hợp để thực hiện mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Thực hiện tốt chính sách chăm sóc sức khoẻ cho các đối tượng chính sách, người nghèo và trẻ em, người cao tuổi. 5. Tạo môi trường thuận lợi về cơ sở hạ tầng, đất, thuế để mở rộng và phát triển các bệnh viện và xã hội hoá y tế, phát triển hệ thống bệnh viện ngoài công lập. 6. Đổi mới quản lý nhà nước đối với sự nghiệp y tế, tập trung vào việc hoàn thiện các chính sách, pháp luật và tăng cường kiểm tra, giám sát và đánh giá. Phát huy vai trò của các hội nghề nghiệp trong quản lý chất lượng dịch vụ y tế. Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính của các cơ sở y tế công lập theo hướng cung ứng dịch vụ tự chủ, hiệu quả, công khai, minh bạch. 7. Thay đổi mô hình tổ chức quản lý bảo hiểm y tế, tập trung đầu mối quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế, bao gồm cả quỹ bảo hiểm y tế, thành lập Hội đồng quản lý Bảo hiểm y tế, giao Bộ trưởng Bộ Y tế làm Chủ tịch Hội đồng quản lý Bảo hiểm y tế để đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành tập trung, toàn diện về chất lượng dịch vụ y tế và quản lý quỹ Bảo hiểm y tế, tăng quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu. Mô hình tổ chức hệ thống bảo hiểm y tế như hiện nay là nguyên nhân của những vướng mắc và hạn chế trong tổ chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế trong thời gian qua. Theo Luật Bảo hiểm y tế, Bộ Y tế có trách nhiệm xây dựng và trình Chính phủ các giải pháp nhằm bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm y tế, nhưng việc thực hiện có nhiều khó khăn: - Bộ Y tế được giao quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế, nhưng không chỉ đạo, quản lý trực tiếp hệ thống tổ chức thực hiện, không quản lý kinh phí, không tham gia duyệt quyết toán, không có đủ thông tin, số liệu để tổng hợp, phân tích, đánh giá và ra các quyết định, chính sách. - Bộ trưởng Bộ Tài chính là Chủ tịch Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội Việt Nam, trong đó có chức năng chỉ đạo và giám sát thu-chi, quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm y tế của Bảo hiểm xã hội. - Các vướng mắc tại địa phương không được giải quyết kịp thời do Uỷ ban nhân dân các tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế ở địa phương nhưng không điều hành được cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh trong việc thu phí, phát hành thẻ, thanh toán chi phí khám, chữa bệnh, tuyên truyền về bảo hiểm y tế, những hoạt động này do cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh chỉ đạo theo ngành dọc. 8. Thực hiện tốt các chính sách, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dân số và kế hoạch hóa gia đình, duy trì mức sinh hợp lý, quy mô gia đình ít con; giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. 9. Trong khi Ngành Y tế thiếu nhân lực trầm trọng thì việc để cán bộ y tế nghỉ hưu ở độ tuổi 55 đối với nữ và 60 đối với nam là một sự lãng phí lớn. Năm 1960, tuổi thọ bình quân của người dân Việt Nam là 45,4 tuổi; đến nay tuổi thọ bình quân của Việt Nam đã tăng lên 73 tuổi (trong khi đó Thái Lan là 69,3; Philippines 72,3 và tuổi thọ bình quân ở khu vực Đông á - Thái Bình Dương là 72,8, Nga là 57 tuổi). Chính vì vậy, đề nghị Chính phủ cho phép tăng tuổi làm việc của cán bộ nữ lên 60 tuổi và nam 65 tuổi để tận dụng đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm này. 8 CHíNh luận 91. Các yếu tố dân số Kết quả sơ bộ tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/2009 cho thấy dân số Việt Nam là 85.789.573 người; tốc độ tăng dân số đã giảm mạnh. Tỷ lệ phát triển dân số bình quân hằng năm giai đoạn 1999-2009 còn 1,2%. Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế (JAHR) 2010 là báo cáo thứ tư do Bộ Y tế cùng với các đối tác phát triển y tế phối hợp thực hiện hằng năm. Báo cáo năm 2010 phân tích tổng thể thực trạng ngành y tế, xác định các vấn đề ưu tiên và các giải pháp trong thời gian tới, góp phần xây dựng Chiến lược bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, Kế hoạch 5 năm ngành Y tế giai đoạn 2011-2015, 50 năm qua. Một số yếu tố về dân số có ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân được nêu dưới đây. Quy mô dân số lớn và tiếp tục tăng nên mật độ 2 dân số Việt Nam tăng từ 231 người/km năm 2 1999 lên 259 người/km năm 2009. Mật độ dân số Việt Nam cao, đứng thứ ba ở khu vực Đông Nam á (Sau Singapore và Philippines). Đồng bằng sông Hồng có mật độ dân số cao 2 nhất 930 người/km , sau đến Đông Nam Bộ 2 (594 người/km ), thấp nhất là Tây Nguyên 2 (93 người/km ). Mật độ dân số cao là yếu tố nguy cơ đối với nhiều vấn đề sức khỏe, trong đó có các bệnh lây nhiễm và tình hình sử dụng dịch vụ y tế của người dân. Cơ cấu dân số biến động mạnh: Tỷ trọng dân số của nhóm dưới 15 tuổi giảm từ 33% năm 1999 xuống còn 25%. Ngược lại tỷ trọng dân số của nhóm 15-59 tuổi (là nhóm chủ lực của lực lượng lao động) lại tăng từ 58% năm 1999 lên 66% và nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên tăng từ 8% năm 1999 lên 9% năm 2009. Theo mô hình dân số của Liên hợp quốc, dân số nước ta đang thuộc “cơ cấu dân số vàng” hay cơ cấu dân số tối ưu vì tỷ trọng người trong tuổi lao động chiếm tỷ lệ rất lớn so với tỷ trọng người trong tuổi phụ thuộc. Tuy nhiên, nhóm phụ nữ bước vào tuổi sinh đẻ cũng rất lớn, sẽ ảnh hưởng nhiều tới nhu cầu sử dụng dịch vụ sức khỏe sinh sản, và nhi khoa trong những năm tới. Tuy nhiên, do tỷ lệ người cao tuổi tăng lên trong khi tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi giảm mạnh trong 10 năm qua 1999-2009, “chỉ số già hóa” đã tăng 11 điểm phần trăm sau 10 năm (từ 24,5% năm 1999 lên 35,9%). Chỉ số già hóa của nước ta hiện nay cao hơn mức trung bình của khu vực Đông Nam á (30%), tương đương với mức già hóa của Indonesia và Philippines, nhưng thấp hơn mức của Singapore (85%) và Thái Lan (52%). Kèm theo già hóa dân số thường có các bệnh không lây nhiễm, có tiềm năng tăng đáng kể trong thời gian tới. Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng nghiêm trọng. Tỷ số giới tính khi sinh đã tăng lên trong 10 năm, rõ nét nhất là Lời tòa soạn: Báo cáo chung tổng quan ngành y tế (JAHR) của Bộ Y tế và nhóm đối tác y tế năm 2010 là báo cáo thứ tư do Bộ Y tế cùng với các đối tác phát triển y tế phối hợp thực hiện hằng năm. Báo cáo năm 2010 phân tích tổng thể thực trạng ngành y tế, xác định các vấn đề ưu tiên và các giải pháp trong thời gian tới, góp phần xây dựng Chiến lược bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, Kế hoạch 5 năm ngành Y tế giai đoạn 2011-2015. Trong số này, Tạp chí Chính sách Y tế trích đăng nội dung về Các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe (từ chương I Tình trạng sức khỏe và các yếu tố ảnh hưởng) của Báo cáo để trân trọng giới thiệu với quý độc giả (số thứ tự các tiểu mục được biên tập lại cho phù hợp với phần được trích đăng). CáC YếU Tổ ảNH HƯởNG ĐếN SứC KHỏE (Phần 1) (Trích từ Chương I - Tình trạng sức khỏe và các yếu tố ảnh hưởng, Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2010). Chính sách - Số 7/2011 Y tế Tạp chí 10 Nghiên cứu về chính sách y tế trong vòng 5 năm qua. Năm 1999, tỷ số này là 108 bé trai/100 bé gái, đến 2009 đã tăng lên 111 bé trai/100 bé gái. Đây là chủ đề xã hội nóng bỏng đã được dư luận nước ta đặc biệt quan tâm. Mặc dù tuổi thọ trung bình tăng, nhưng chất lượng dân số còn hạn chế. Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các nước có chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức trung bình. Số năm trung bình sống khỏe mạnh chỉ đạt 66 tuổi và xếp thứ 116/182 nước trên thế giới vào năm 2009. 2. Toàn cầu hóa, công nghiệp hóa, đô thị hóa, di cư và thay đổi lối sống Di cư ngày càng tăng gây áp lực cho vấn đề chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ở các thành phố lớn và tổ chức hệ thống cung cấp dịch vụ y tế. Di cư từ nông thôn ra thành thị cũng nảy sinh nhiều vấn đề ảnh hưởng đến sức khoẻ. Số người di cư trong 5 năm qua là 3,3 triệu người, tăng 163. 000 người. Sau 10 năm (1999-2009), tổng số người di cư tăng lên 1,4 triệu người, đặc biệt là số người di cư tăng theo khoảng cách di cư. Vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên luôn là địa điểm thu hút các luồng di cư. Đông Nam Bộ là vùng nhập cư cao nhất. Các khu công nghiệp tập trung và các thành phố lớn luôn có sức hút mạnh mẽ nhiều người chuyển đến làm ă n sinh sống: tỷ 0 suất di cư thuần túy của Bình Dương là 341,7 / , 00 0 Thành phố Hồ Chí Minh là 116 / , và Đà Nẵng 00 0 là 77,9 / . 00 Đến nay đã có 29,6% dân số sống ở khu vực thành thị so với 23,7% vào năm 1999. Đông Nam Bộ là vùng có mức đô thị hóa cao nhất, dân số thành thị chiếm 57,1% (năm 1999 là 55,1%). Đồng bằng sông Hồng có mức đô thị hóa cũng tương đối cao với 29,2% dân số thành thị (năm 1999 là 21,1%). Đô thị hóa cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa còn tạo ra những thách thức lớn đối với công tác chăm sóc sức khỏe. Sự gia tăng nhịp độ của cuộc sống là yếu tố nguy cơ cho các bệnh tâm thần, tim mạch, và bệnh không lây nhiễm khác. Công nghiệp hóa tăng nguy cơ tiếp xúc với các yếu tố gây bệnh nghề nghiệp. Ô nhiễm không khí, nước sạch do tăng nhanh công suất sử dụng cơ sở hạ tầng đô thị cũng đang đe dọa đến sức khỏe người dân. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng xã hội không theo kịp với tốc độ tăng dân số, đặc biệt cung ứng nước sạch, xử lý rác thải, nước cống, cơ sở y tế KCB, giáo dục, nhà ở, vv... Nhu cầu tập thể dục để nâng cao sức khỏe ngày càng lớn trong khi các công viên, không gian xanh ngày càng đông và thiếu. 3. Biến đổi khí hậu Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất trong thời đại của chúng ta. Biến đổi khí hậu gồm các hiện tượng nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng... gây ra lũ lụt, hạn hán và các hiện tượng thời tiết cực đoan khác trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Biến đổi khí hậu không chỉ đe dọa làm thay đổi lối sống mà còn có tác động trực tiếp tới sức khỏe con người, môi trường, đa dạng sinh học và tài nguyên nước. Việt Nam là một trong số các quốc gia đang bị ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng. Thực trạng biến đổi khí hậu ở Việt Nam: Về nhiệt độ: Từ năm 1951 đến năm 2000 0 nhiệt độ trung bình năm đã tăng 0,7 C, hậu quả làm thay đổi các hệ sinh thái; gia tăng sức ép nhiệt độ lên cơ thể và tăng các bệnh nhiệt đới, truyền nhiễm. Về lượng mưa: Trong những năm gần đây, lượng mưa giảm đi trong tháng 7, 8 và tăng cao ở tháng 9, 10, 11. Mưa phùn ở Hà Nội giảm dần từ thập kỷ 1981-1990 và chỉ còn một nửa (15 ngày/năm) trong 10 năm gần đây. Từ năm 1958- 2007, lượng mưa hằng năm giảm 2%. Hậu quả là tác động rõ rệt đến sự hình thành và phát triển của một số vật mang mầm bệnh. Về nước biển dâng: Theo Tổng cục Khí tượng Thủy văn: mực nước biển mỗi năm dâng lên khoảng 3 mm. Năm 1990 tăng 5 cm so với những năm 1960. Hậu quả tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của vật mang mầm bệnh. 11 Do biến đổi khí hậu, gia tăng các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, các bệnh do vật mang mầm bệnh, đe dọa tới sức khỏe con người đặc biệt những người nghèo và cận nghèo. Các bệnh nhạy cảm với khí hậu nằm trong số những bệnh gây tử vong lớn nhất toàn cầu. Tiêu chảy, sốt rét và suy dinh dưỡng làm tử vong hơn 3 triệu người trên toàn thế giới. Thời tiết ấm hơn đồng nghĩa với việc mở rộng phạm vi địa lý phát triển của muỗi, ngắn lại chu kỳ sinh sản của muỗi, hoặc thay đổi mô hình di cư của chim và các loài vật khác. Sự xuất hiện của bệnh SARS, Cúm A(H5N1), và một số lượng lớn hiện tượng bất thường liên quan đến sốt xuất huyết hiện đang xảy ra tại Châu á và dịch sốt xuất huyết quay trở lại ở Việt Nam trong mấy năm gần đây có thể cho chúng ta thấy rõ sự ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Ngoài ra, các loại thiên tai có ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe người dân do hậu quả là mất nguồn nước sạch, thiếu ă n, tai nạn, chấn thương, khó tiếp cận với dịch vụ y tế. Mô hình cung ứng dịch vụ y tế ổn định, bảo đảm y tế công cộng khi thiên tai xảy ra cần được xây dựng và bảo đảm. Nếu như Việt Nam không có các giải pháp, kế hoạch ngay từ bây giờ thì biến đổi khí hậu sẽ đe dọa làm đảo ngược những tiến bộ mà Việt Nam đã đạt được trong công cuộc đấu tranh phòng chống bệnh tật và nghèo đói những năm gần đây. Biến đổi khí hậu cũng làm tăng thêm khoảng cách về các điều kiện y tế, tình trạng sức khỏe giữa những người giàu nhất và những người nghèo nhất. 4. Sức khỏe môi trường Sức khỏe môi trường là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn xã hội và đặt cho ngành y tế trọng trách trong việc tuyên truyền giáo dục nhận thức về vệ sinh môi trường cũng như đối phó với các bệnh liên quan nhất là các vùng nông thôn khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Theo số liệu báo cáo sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01/4/2009, đến nay đã có 87% hộ gia đình sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh, 54% hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh. Trung du và miền núi phía Bắc có tỷ lệ sử dụng nước hợp vệ sinh thấp nhất (61,5%). Tỷ lệ hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh dưới 50% ở các vùng Trung du miền núi phía Bắc (26,1%), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (47,3%), Tây Nguyên (46,5%) và Đồng bằng sông Cửu Long (42,4%). Cùng với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, vấn đề ô nhiễm môi trường đô thị, ô nhiễm không khí và nguồn nước khu dân cư ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe nguời dân. Ô nhiễm không khí đô thị chủ yếu do giao thông (70%), do quá tải ô tô, xe máy và do các thành phố đang xây dựng, đô thị hoá một cách mạnh mẽ. Có hàng loạt các vấn đề có liên quan đến sức khoẻ cấp tính và mãn tính nảy sinh do phơi nhiễm ngắn hạn và dài hạn với các chất gây ô nhiễm không khí. Ô nhiễm không khí nguy hiểm nhất đối với những người mắc bệnh hô hấp, tim mạch, những người cao tuổi... Môi trường và điều kiện lao động tuy đã được cải thiện đáng kể nhất là từ khi các nhà đầu tư, cơ sở sản xuất nhập đồng bộ dây chuyền công nghệ. Tuy nhiên, một số cơ sở sản xuất vẫn sử dụng dây chuyền cũ, lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Một số cơ sở sản xuất xử lý chất thải không đảm bảo theo các yêu cầu đề ra, dẫn đến gây ô nhiễm môi trường trầm trọng ở một số địa phương. Đối với các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp tư nhân, cơ sở làng nghề, điều kiện lao động chưa được giám sát hoặc giám sát ở mức rất thấp. Lực lượng lớn di cư tự do từ nông thôn vào thành thị làm việc kiếm sống với nhiều công việc phức tạp, điều kiện lao động của những người này không được đảm bảo, có nhiều yếu tố nguy cơ đối với tình trạng sức khỏe và bệnh tật trong khi không có hỗ trợ đầy đủ từ y tế lao động. 5. An toàn vệ sinh thực phẩm Thức ăn không an toàn có thể gây ngộ độc thực phẩm, nhiều bệnh cấp tính và mạn tính liên quan đến vi khuẩn, hóa chất và các công nghệ mới chưa được kiểm nghiệm. Chính sách - Số 7/2011 Y tế Tạp chí 12 Tại nhiều quốc gia, trong vài thập niên qua, có sự gia tăng đáng kể về tỷ lệ mắc bệnh liên quan vi khuẩn lây truyền qua thức ăn như Salmonella hoặc E.Coli. Một số nguy cơ mới đang nổi lên từ bệnh động vật sang người cũng tạo ra thách thức mới cho an toàn thực phẩm. Nguy cơ nhiễm hóa chất trong thực phẩm vẫn còn là một nguyên nhân quan trọng của bệnh tật liên quan đến thực phẩm. Hóa chất gây nhiễm thực phẩm gồm các chất độc tự nhiên như loại nấm độc, hải sản độc, các chất ô nhiễm môi trường như thủy ngân và chì, các chất tự nhiên trong thực vật. Các vi chất, hóa chất đưa vào thực phẩm khi chế biến, hóa chất nông nghiệp và thuốc thú y được chủ động sử dụng trong chuỗi sản xuất thực phẩm, nhưng có thể có tác động tiêu cực tới sức khỏe. Các công nghệ mới, ví dụ như kỹ thuật di truyền, chiếu xạ thực phẩm và những công nghệ bao gói thực phẩm, đều có thể cải tiến được việc chế biến thực phẩm và an toàn thực phẩm, tuy nhiên cũng có những rủi ro. ảnh hưởng của việc thiếu an toàn thực phẩm đối với sức khỏe bao gồm việc gây ra các bệnh tiêu chảy và các loại ung thư. Tổ chức Y tế Thế giới ước tính các bệnh tiêu chảy liên quan đến thực phẩm và nước uống giết chết 2,2 triệu người mỗi năm, trong đó có 1,9 triệu trẻ em. Tỷ lệ ngộ độc thực phẩm ở Việt Nam hiện còn ở mức cao. Theo số liệu từ Chương trình mục tiêu về vệ sinh an toàn thực phẩm, hằng năm có khoảng 150-250 vụ ngộ độc thực phẩm được báo cáo với từ 3.500 đến 6.500 người mắc, tử vong từ 37 đến 71 người một năm. Tuy nhiên trong thực tế con số này có thể cao hơn nhiều. Ngày nay, có nhiều vụ ngộ độc thực phẩm tại các bếp ăn tập thể của các nhà máy, xí nghiệp liên doanh, khu công nghiệp hoặc tại các đám cưới, đám tang Ngộ độc thực phẩm do hóa chất, đặc biệt là hóa chất sử dụng trong nông nghiệp như hóa chất bảo vệ thực vật, một số hóa chất bảo quản thực phẩm, chiếm khoảng 25% tổng số các vụ ngộ độc thực phẩm. Tình hình ngộ độc thực phẩm tuy có giảm gần đây, nhưng diễn biến vẫn còn khá phức tạp. Với sự phát triển và công nghiệp hóa mạnh mẽ, nguy cơ ngộ độc thực phẩm có thể tăng vì những bếp tập thể phục vụ hàng trăm người và những lô hàng thực phẩm chế biến theo phương pháp công nghiệp được bán cho số người rất đông. Ngộ độc thực phẩm xảy ra do nhiều nguyên nhân, trong đó do vi sinh vật là 7,8%, do hóa chất là 0,5%, do độc tố tự nhiên là 25,4%, và do các nguyên nhân không xác định được là 66,3%. Số người mắc tập trung ở các vụ ngộ độc bếp ă n tập thể, thức ăn đường phố, đám cưới/đám giỗ, số người chết tập trung ở các vụ ngộ độc thực phẩm bếp ă n gia đình. Nghiên cứu về chính sách y tế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhiem_vu_trong_tam_cong_tac_y_te_nam_2011.pdf
Tài liệu liên quan