Ảnh hởng của việc thiếu an toàn thực phẩm
đối với sức khỏe bao gồm việc gây ra các bệnh
tiêu chảy và các loại ung th. Tổ chức Y tế Thế
giới ớc tính các bệnh tiêu chảy liên quan đến
thực phẩm và nớc uống giết chết 2,2 triệu
ngời mỗi năm, trong đó có 1,9 triệu trẻ em.
Tỷ lệ ngộ độc thực phẩm ở Việt Nam hiện
còn ở mức cao. Theo số liệu từ Chơng trình
mục tiêu về vệ sinh an toàn thực phẩm, hằng
năm có khoảng 150-250 vụ ngộ độc thực phẩm
đợc báo cáo với từ 3.500 đến 6.500 ngời mắc,
tử vong từ 37 đến 71 ngời một năm. Tuy nhiên
trong thực tế con số này có thể cao hơn nhiều.
Ngày nay, có nhiều vụ ngộ độc thực phẩm tại
các bếp ăn tập thể của các nhà máy, xí nghiệp
liên doanh, khu công nghiệp hoặc tại các đám
cới, đám tang Ngộ độc thực phẩm do hóa
chất, đặc biệt là hóa chất sử dụng trong nông
nghiệp nh hóa chất bảo vệ thực vật, một số hóa
chất bảo quản thực phẩm, chiếm khoảng 25%
tổng số các vụ ngộ độc thực phẩm.
Tình hình ngộ độc thực phẩm tuy có giảm
gần đây, nhng diễn biến vẫn còn khá phức tạp.
Với sự phát triển và công nghiệp hóa mạnh mẽ,
nguy cơ ngộ độc thực phẩm có thể tăng vì những
bếp tập thể phục vụ hàng trăm ngời và những lô
hàng thực phẩm chế biến theo phơng pháp
công nghiệp đợc bán cho số ngời rất đông.
Ngộ độc thực phẩm xảy ra do nhiều nguyên
nhân, trong đó do vi sinh vật là 7,8%, do hóa
chất là 0,5%, do độc tố tự nhiên là 25,4%, và do
các nguyên nhân không xác định đợc là 66,3%.
Số ngời mắc tập trung ở các vụ ngộ độc bếp ăn
tập thể, thức ăn đờng phố, đám cới/đám giỗ,
số ngời chết tập trung ở các vụ ngộ độc thực
phẩm bếp ăn gia đình.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 13 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhiệm vụ trọng tâm công tác y tế năm 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
hát huy những thành tựu đã đạt được, khắc
Pphục những hạn chế, tồn tại, nắm bắt thời
cơ, Ngành Y tế quyết tâm thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI,
tập trung vào một số phương hướng và nhiệm vụ
trọng tâm trong năm 2011 và giai đoạn 2011-
2015 như sau:
Trong năm 2011, nhiệm vụ bao trùm của
Ngành Y tế là thực hiện Kết luận số 42-KL/TW
ngày 01/4/2009 về Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ
chế tài chính (trong đó có tiền lương và giá dịch
vụ y tế) đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công
lập; Kết luận số 43-KL/TW ngày 01/4/2009 về 3
năm thực hiện Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày
23/02/2005 của Bộ Chính trị (khoá IX) về “Công
tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân
dân trong tình hình mới” và 5 năm thực hiện Chỉ
thị số 06-CT/TW ngày 22/01/2002 của Ban Bí
thư về “Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ
sở”; Kết luận số 44-NQ/TW ngày 22/03/2005
của Bộ Chính trị (khoá IX) về “Tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá
gia đình”; Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 18 và
23/2008/QH12 của Quốc hội (đặc biệt là tập
trung triển khai Quyết định 930/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề á n đầu tư xây
dựng, nâng cấp, cải tạo các bệnh viện chuyên
khoa lao, tâm thần, ung bướu, chuyên khoa nhi
và một số bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng
miền núi khó khăn sử dụng vốn trái phiếu Chính
phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn
2009-2013), Nghị quyết 30/2008/HQ-CP của
Chính phủ về những giải pháp cấp bách nhằm
ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng
kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội.
Nhiệm vụ cụ thể:
1. Về phát triển hệ thống y tế: Tiếp tục ổn
định, củng cố và phát triển hệ thống y tế, đặc
biệt là tuyến y tế cơ sở: Mở rộng mạng lưới
khám chữa bệnh tới tận tuyến cơ sở, vùng sâu,
vùng xa; Củng cố mạng lưới y tế dự phòng;
Triển khai thực hiện Chuẩn quốc gia y tế dự
phòng tại các Trung tâm y tế dự phòng tỉnh; Xây
dựng và triển khai thực hiện Đề á n Phát triển y tế
nông thôn.
2. Về khám chữa bệnh:
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình
hành động nâng cao chất lượng khám, chữa
bệnh nhằm mục tiêu đáp ứng sự hài lòng của
người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế (BHYT); tuyên
truyền, vận động và thực hiện tốt chính sách hỗ
trợ người cận nghèo mua thẻ BHYT.
- Đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số
06/2007/CT-BYT ngày 07/12/2008 của Bộ
trưởng Bộ Y tế về việc nâng cao chất lượng
khám, chữa bệnh, trong đó đặc biệt lưu ý không
lạm dụng thuốc, xét nghiệm cận lâm sàng, dịch
vụ kỹ thuật cao, thực hiện tốt công tác giáo dục
nâng cao y đức. Tập trung vào việc sử dụng hiệu
quả ngân sách nhà nước và các nguồn thu để
nâng cao chất lượng các dịch vụ khám chữa
bệnh, sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng, trang thiết
bị của các cơ sở y tế, đặc biệt là các bệnh viện
tuyến huyện, bệnh viện khu vực đã và đang được
đầu tư trong thời gian vừa qua để giảm bớt và
giải quyết về cơ bản tình trạng quá tải ở các bệnh
viện tỉnh, bệnh viện trung ương và các thành phố
lớn. Tiếp tục thực hiện chính sách quốc gia về y
dược học cổ truyền, củng cố, đầu tư, nâng cấp
NHIệM Vụ TRọNG TÂM CÔNG TáC Y Tế NĂM 2011
(Trích từ Báo cáo số 87/BC-BYT của Bộ Y tế “Về việc triển khai kế hoạch công tác năm 2011”
ngày 11/02/2011).
4CHíNh luận
các bệnh viện, cơ sở KCB và chất lượng KCB y
học cổ truyền.
- Đẩy mạnh công tác chỉ đạo tuyến, xây dựng
phương á n thực hiện Quyết định 1816/QĐ-BYT
ngày 26/05/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc
phê duyệt Đề án “ Cử cán bộ chuyên môn luân
phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh
viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng
khám, chữa bệnh” tại địa phương.
- Đổi mới cơ chế quản lý tài chính của các
bệnh viện công, nghiên cứu để đề xuất cơ chế
phân bổ ngân sách mới cho các bệnh viện.
Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư
phát triển các dịch vụ y tế. Các tỉnh, thành phố
có điều kiện kinh tế phát triển phải có các giải
pháp cụ thể để khuyến khích phát triển các bệnh
viện ngoài công lập.
- Phát triển y học cổ truyền cả trong hệ thống
công lập và ngoài công lập trên cơ sở thực hiện
tốt Quyết định số 222/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ và Chỉ thị số 24 của Ban Bí thư Trung
ương.
- Tiếp tục triển khai mở rộng luân phiên cán
bộ (Đề án 1816) từ tuyến trên về tuyến dưới
nhằm bổ sung cán bộ có năng lực, chuyển giao
kỹ thuật để nâng cao chất lượng điều trị cho
tuyến dưới, góp phần giảm quá tải cho các bệnh
viện tuyến trên; đẩy mạnh việc thực hiện tự chủ
toàn diện theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP của
Chính phủ.
- Từng bước xây dựng các bệnh viện xanh -
sạch - đẹp, ưu tiên kinh phí để xử lý chất thải
bệnh viện nhằm đảm bảo vệ sinh môi trường.
3. Về Y tế dự phòng:
- Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục
để người dân hiểu và chủ động thực hiện tốt các
biện pháp tự phòng chống bệnh dịch.
- Nâng cấp và củng cố hệ thống giám sát dịch
bệnh; xây dựng và phát triển hệ thống cảnh báo
sớm, đáp ứng nhanh; chủ động giám sát dịch tễ
để phát hiện sớm các nguy cơ ô nhiễm và bệnh
dịch, dự phòng thuốc, hoá chất để chủ động
phòng chống dịch bệnh, không để các dịch bệnh
lớn xảy ra sau thiên tai, thảm hoạ, khống chế và
đẩy lùi các bệnh dịch mới phát sinh, giảm tỷ
lệ mắc và chết của các bệnh truyền nhiễm gây
dịch.
- Tăng cường hoạt động an toàn tiêm chủng,
an toàn sinh học trong phòng xét nghiệm. Tiếp
tục triển khai thực hiện có hiệu quả CTMTQG
phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch
nguy hiểm và HIV/AIDS.
- Phòng chống và quản lý được các bệnh
không lây nhiễm như bệnh tim mạch, ung thư,
tiểu đường; bệnh nghề nghiệp, phòng chống tai
nạn và thương tích. Tiếp tục vận động nhân dân
triển khai xây dựng phong trào làng văn hoá sức
khoẻ, phong trào vệ sinh nông thôn với 3 công
trình: nước sạch, nhà tắm, nhà tiêu hợp vệ sinh
để hạn chế, tiến tới xóa bỏ những tác hại đối với
sức khoẻ nhân dân do tập quán, lối sống không
lành mạnh, không hợp vệ sinh, hoặc do môi
trường bị ô nhiễm.
Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật
về quản lý chất lượng, vệ sinh ATTP theo Nghị
quyết số 34/2009/NQ-QH12 ngày 19/06/2009 của
Quốc hội.
4. Tăng cường huy động nguồn lực đầu tư
cho y tế:
- Tiếp tục thực hiện Nghị định 79/2008/NĐ-CP
của Chính phủ và Quyết định số 154/2006/QĐ-
TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt đề á n “Quản lý nhà nước về dược phẩm,
an toàn vệ sinh thực phẩm, mỹ phẩm giai đoạn
2006-2015”: xây dựng các trung tâm xét nghiệm,
phòng thí nghiệm, trung tâm kiểm tra chất lượng
vệ sinh an toàn thực phẩm đủ năng lực và điều
kiện hoạt động.
- Tăng cường đầu tư, nâng cấp, củng cố hoàn
thiện hệ thống y tế dự phòng tuyến tỉnh, các trung
tâm y tế dự phòng huyện; đầu tư, nâng cấp, củng
5cố hoàn thiện hệ thống phòng chống HIV/AIDS
tuyến tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đối
với các trung tâm phòng chống HIV/AIDS theo
Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 28/07/2009
về việc phê duyệt Đề á n Tăng cường năng lực hệ
thống phòng, chống HIV/AIDS tuyến tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương giai đoạn 2010-2015...
- Triển khai thực hiện có hiệu quả việc đầu tư,
nâng cấp các bệnh viện huyện theo Quyết định
số 47/2008/QĐ-TTg; một số bệnh viện đa khoa
tỉnh thuộc vùng miền núi, khó khăn, các bệnh
viện lao, tâm thần, ung bướu, nhi theo Quyết
định số 930 của Thủ tướng Chính phủ; các trung
tâm y tế huyện theo Quyết định 1402/2008/QĐ-
TTg; các trung tâm phòng chống HIV/AIDS
theo Quyết định 1107 của Thủ tướng Chính phủ.
Xây dựng, nâng cấp BV chuyên khoa Lao, Tâm
thần, Nhi, Ung Bướu và một số bệnh viện đa
khoa vùng khó khăn tuyến tỉnh (theo Quyết
định số 930/2009/QĐ-TTg).
- Tiếp tục ưu tiên các nguồn vốn để đầu tư,
nâng cấp các trạm y tế xã theo Quyết định
950/QĐ-TTg, Quyết định 800/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, đặc biệt ưu tiên các xã chưa có
trạm y tế hoặc có nhưng là nhà tạm; các xã mới
chia tách; phấn đấu hết năm 2010, số xã có trạm
y tế đạt 100% và khoảng 40% số xã đạt chuẩn
quốc gia theo chuẩn mới.
- Mở rộng hợp tác quốc tế song phương, đa
phương, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ,
các tổ chức Ngân hàng, tài chính nhằm tăng
cường thu hút nguồn lực đầu tư, tiếp cận công
nghệ mới, tiên tiến của thế giới, góp phần đẩy
nhanh quá trình hội nhập trong lĩnh vực y dược.
- Triển khai có hiệu quả các dự án ODA, dự
án NGO. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các Dự á n
hỗ trợ Y tế Đồng bằng Sông Cửu Long, Dự á n hỗ
trợ Y tế các tỉnh Nam Trung Bộ Sớm hoàn
thành việc chuẩn bị để triển khai các dự án Hỗ
trợ y tế các tỉnh Bắc Trung Bộ (vay WB ); Dự á n
hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực y tế
(ADB ); Dự á n phát triển bệnh viện tỉnh, vùng từ
nguồn vốn vay JICA giai đoạn 2. Tiếp tục huy
động và tranh thủ nguồn viện trợ của các tổ chức
Chính phủ, Phi Chính phủ khác cho phát triển hệ
thống y tế địa phương.
- Huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để
đầu tư cho y tế, tận dụng cơ sở vật chất hiện có
để tăng số giường bệnh; xây dựng thêm các
bệnh viện mới.
5. Phát triển mạnh hệ thống y tế ngoài công
lập:
Tạo điều kiện khuyến khích xây dựng và
phát triển các bệnh viện tư nhân.
6. Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài
chính:
- Triển khai Nghị định đổi mới cơ chế hoạt
động, cơ chế tài chính khi được Chính phủ ban
hành; Tăng cường tự chủ toàn diện cho giám
đốc các đơn vị; Đổi mới phương thức phân bổ
ngân sách; Triển khai khung giá dịch vụ y tế mới
trên cơ sở tính đúng tính đủ, phần nào nhà nước
chi thì không thu.
- Đẩy mạnh việc vay vốn tín dụng ưu đãi
Ngân hàng Phát triển để đầu tư phát triển. Tiếp
tục đẩy mạnh việc thực hiện tự chủ, tự chịu trách
nhiệm theo Nghị định 43 của Chính phủ,
chuyển các bệnh viện từ loại hình tự đảm bảo
một phần kinh phí thường xuyên để phát huy
quyền chủ động, sáng tạo trong việc sử dụng các
nguồn tài chính; sắp xếp, bố trí nhân lực để hoàn
thành nhiệm vụ được giao, huy động các nguồn
vốn ngoài ngân sách để tổ chức các hoạt động
dịch vụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các tầng
lớp nhân dân, tăng thu nhập hợp pháp cho người
lao động.
- Tập trung triển khai kế hoạch 5 năm 2011-
2015, tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch phát triển
các chuyên khoa, các đơn vị.
7. Đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát
triển nguồn nhân lực:
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các cơ sở y tế từ
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
6trung ương đến địa phương theo hướng dẫn tại
Nghị định 13; 14/2008/NĐ-CP về tổ chức các
cơ quan chuyên môn ở địa phương; Nghị định
79/2008/NĐ-CP về hệ thống tổ chức quản lý,
thanh tra và kiểm nghiệm vệ sinh an toàn thực
phẩm, công tác quản lý vắc-xin, sinh phẩm y tế,
phòng chống tai nạn thương tích. Tiếp tục thực
hiện Đề án 1816 của Bộ Y tế về việc luân phiên
cán bộ y tế cho tuyến dưới để hướng dẫn và nâng
cao tay nghề, trình độ chuyên môn cho cán bộ
tuyến dưới.
- Hoàn thiện hệ thống đào tạo liên tục cán bộ
y tế từ trung ương đến địa phương, xây dựng hệ
thống đánh giá, kiểm định các cơ sở đào tạo liên
tục cán bộ y tế. Bổ sung đào tạo công nghệ thông
tin theo Chỉ thị số 02/CT-BYT ngày 25/02/2009.
- Tăng cường đầu tư nâng cấp nhằm củng cố
và phát triển các cơ sở đào tạo nhân lực y tế công
lập; đẩy mạnh đào tạo cử tuyển, đào tạo theo địa
chỉ, mở rộng các hình thức đào tạo nhằm bảo
đảm nhân lực, số lượng, cơ cấu lao động cho các
cơ sở y tế trong thời gian tới; mở thêm nhiều mã
ngành mới, tăng chỉ tiêu tuyển sinh; khuyến
khích các cơ sở đào tạo ngoài công lập tham gia
đào tạo theo nhu cầu của người học, theo địa chỉ
cho các tỉnh, vùng khó khăn, quan tâm đến đào
tạo chuyên sâu, đáp ứng nhu cầu phát triển kỹ
thuật cao, chuyển giao công nghệ, tiếp cận với
các kỹ thuật y tế mới, nâng cao trình độ quản lý.
- Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng các kết
quả nghiên cứu vào công tác khám chữa bệnh,
công tác y tế dự phòng, sản xuất thuốc, vắc xin,
sinh phẩm, đào tạo, quản lý nhà nước, hoạch
định chính sách...
8. Công tác Dược:
- Đảm bảo đủ thuốc thiết yếu phục vụ công
tác điều trị, triển khai các biện pháp hữu hiệu để
bình ổn giá thuốc. Phối hợp chặt chẽ với các địa
phương, các Bộ, ngành liên quan tăng cường
kiểm tra, giám sát để đảm bảo chất lượng thuốc.
Đẩy mạnh triển khai các giải pháp để sử dụng
thuốc an toàn, hợp lý, từng bước giảm việc lạm
dụng thuốc trong điều trị ở các cơ sở y tế Nhà
nước và tư nhân. Xây dựng quy hoạch phát triển
sản xuất và lưu thông phân phối thuốc, phát
triển dược liệu và thuốc Đông y. Chỉ đạo đơn vị
thực hiện tốt việc đấu thầu mua thuốc theo quy
định góp phần bình ổn giá thuốc trên thị trường.
Trong năm 2010, tiếp tục giữ vững thị trường
dược phẩm được ổn định và phù hợp với sự phát
triển chung của nền kinh tế, trên cơ sở đảm bảo
tỷ lệ tăng giá thuốc luôn thấp hơn tỷ lệ tăng giá
CPI nói chung.
9. Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình:
- Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục
và thực hiện đồng bộ các giải pháp để kiểm soát
tốc độ tăng dân số, nâng cao chất lượng việc thử
nghiệm, nhân rộng các mô hình, giải pháp can
thiệp về kỹ thuật, kinh tế xã hội để phấn đấu đạt
chỉ tiêu về giảm tỷ lệ sinh, giảm tỷ số giới tính
khi sinh và nâng cao chất lượng dân số.
- Phấn đấu đạt chỉ tiêu giảm tỷ lệ sinh đã
được Quốc hội giao.
- Tiếp tục kiện toàn và nâng cao chất lượng
mạng lưới chăm sóc sức khoẻ sinh sản từ trung
ương tới cơ sở.
10. Các công tác khác:
- Tổ chức triển khai Luật BHYT và Nghị định
của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật BHYT,
tăng cường công tác tuyên truyền, vận động và
hỗ trợ người cận nghèo mua thẻ BHYT để đảm
bảo an sinh xã hội. Tiếp tục thực hiện có hiệu
quả chương trình hành động nâng cao chất
lượng khám, chữa bệnh nhằm mục tiêu đáp ứng
sự hài lòng của người bệnh có thẻ BHYT.
- Tập trung vào việc đẩy mạnh cải cách hành
chính, phát huy dân chủ cơ sở, ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý các đơn vị sự
nghiệp. Tăng cường công tác thanh tra y tế,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà
nước.
CHíNh luận
- Tăng cường công tác truyền thông giáo dục
sức khoẻ, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, góp
phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ khác.
- Triển khai các nhiệm vụ liên quan tới y tế
trường học, quản lý môi trường y tế, sức khoẻ
nghề nghiệp, phòng chống tai nạn thương tích,
sức khoẻ môi trường. Kiện toàn tổ chức liên
quan tới quản lý môi trường y tế, phòng chống
các bệnh không lây nhiễm.
Để thực hiện được các mục tiêu nhiệm vụ
công tác y tế năm 2011, Ngành Y tế tiến hành
đồng thời nhiều giải pháp, trong đó có các giải
pháp về củng cố hệ thống tổ chức và phát triển
nguồn nhân lực, tiếp tục chuyển đổi cơ chế
thống nhất quản lý về chuyên môn, nhân lực và
tài chính y tế tại địa phương; Đổi mới cơ chế
hoạt động và cơ chế tài chính; Đổi mới về đầu tư
và cơ cấu phân bổ ngân sách theo hướng đầu tư
Ngân sách nhà nước cho y tế cơ sở, y tế dự
phòng, chương trình mục tiêu y tế quốc gia.
Tăng cường xã hội hoá trong lĩnh vực khám
chữa bệnh; nâng cao hiệu quả quản lý điều hành
của Bộ, ngành và chính quyền các cấp trong
công tác y tế; nâng cao trình độ kỹ thuật nghiệp
vụ; đẩy mạnh thông tin truyền thông giáo dục
sức khoẻ; mở rộng hợp tác quốc tế, đẩy mạnh xã
hội hoá huy động sự đóng góp của toàn xã hội
đối với công tác y tế,...
Kiến nghị, đề xuất với Chính phủ:
1. Căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu của chương
trình cải cách hành chính, để nâng cao hiệu lực,
hiệu quả chỉ đạo điều hành của Chính phủ, đề
nghị thực hiện một cách mạnh mẽ hơn việc cải
tiến lề lối làm việc: phân định rõ trách nhiệm và
thẩm quyền của tập thể Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ và mỗi thành viên Chính phủ, đề cao
trách nhiệm cá nhân; thực hiện mỗi việc chỉ giao
một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính;
giải quyết tốt mối quan hệ phối hợp liên ngành,
tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính, bảo
đảm cho toàn bộ hệ thống hành chính vận hành
thông suốt, hiệu quả hơn. Đề nghị Chính phủ
đẩy nhanh tiến độ phê duyệt các đề án của
ngành y tế để ngành kịp thời triển khai thực hiện
đáp ứng yêu cầu thực tế như đề án về quy định
chế độ phụ cấp ưu đãi đối với cán bộ công chức
viên chức tại các cơ sở y tế nhà nước; đổi mới cơ
chế hoạt động và cơ chế tài chính...
2. Đề nghị Chính phủ tăng tỷ lệ chi ngân sách
hàng năm cho sự nghiệp y tế, bảo đảm tốc độ
tăng chi cho y tế cao hơn tốc độ tăng chi bình
quân của ngân sách nhà nước; dành ít nhất 30%
ngân sách y tế chi cho y tế dự phòng, chương
trình mục tiêu y tế quốc gia (bao gồm cả kinh
phí đầu tư phát triển cho hệ thống phòng chống
HIV/AIDS và an toàn thực phẩm); tăng kinh phí
bổ sung có mục tiêu cho các địa phương có khó
khăn (ưu tiên cho trung tâm y tế dự phòng và y tế
các huyện ).
Đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho tiếp tục
thực hiện chương trình phát triển kỹ thuật
chuyên sâu y tế; ưu tiên đầu tư cho dự án phát
triển trung tâm y tế kỹ thật cao bằng nguồn ngân
sách nhà nước và các nguồn vốn hợp pháp khác;
tiếp tục cho phép phát hành trái phiếu Chính phủ
để đầu tư nâng cấp hệ thống bệnh viện đa khoa,
một số bệnh viện chuyên khoa; tăng số giường
bệnh, đặc biệt là giường bệnh của một số
chuyên khoa đang quá tải ở bệnh viện tuyến trên
như ung bướu, tim mạch, nhi khoa.
3. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ ngành rà
soát, sửa đổi bổ sung, ban hành các văn bản pháp
luật để đẩy nhanh việc thực hiện xã hội hoá công
tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân; chỉ đạo Bộ Tài
chính và Bộ Kế hoạch và đầu tư bố trí đủ ngân
sách cho việc triển khai Đề án Đổi mới cơ chế
hoạt động, cơ chế tài chính trong đó có tiền lương
và giá dịch vụ y tế đối với các đơn vị sự nghiệp y
tế công lập, Đề á n 47, Đề á n 930, đầu tư xây dựng
hệ thống kiểm nghiệm đủ năng lực và điều kiện
hoạt động theo Nghị định 79/2008/NĐ-CP của
Chính phủ và Quyết định 154/2006/QĐ-TTg về
việc phê duyệt đề á n “Quản lý Nhà nước về dược
phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm, mỹ phẩm giai
7
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
đoạn 2006 - 2015”; tăng cường đầu tư, nâng cấp,
củng cố hoàn thiện hệ thống y tế dự phòng tuyến
tỉnh, các trung tâm y tế dự phòng huyện.
4. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cấp tiếp tục
nâng mức đầu tư ngân sách địa phương cho y tế;
đồng thời huy động các nguồn lực của xã hội để
phát triển hệ thống y tế. Tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo, xây dựng lộ trình phù hợp để thực hiện
mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Thực hiện tốt
chính sách chăm sóc sức khoẻ cho các đối tượng
chính sách, người nghèo và trẻ em, người cao
tuổi.
5. Tạo môi trường thuận lợi về cơ sở hạ tầng,
đất, thuế để mở rộng và phát triển các bệnh viện
và xã hội hoá y tế, phát triển hệ thống bệnh viện
ngoài công lập.
6. Đổi mới quản lý nhà nước đối với sự
nghiệp y tế, tập trung vào việc hoàn thiện các
chính sách, pháp luật và tăng cường kiểm tra,
giám sát và đánh giá. Phát huy vai trò của các
hội nghề nghiệp trong quản lý chất lượng dịch
vụ y tế. Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài
chính của các cơ sở y tế công lập theo hướng
cung ứng dịch vụ tự chủ, hiệu quả, công khai,
minh bạch.
7. Thay đổi mô hình tổ chức quản lý bảo
hiểm y tế, tập trung đầu mối quản lý nhà nước về
bảo hiểm y tế, bao gồm cả quỹ bảo hiểm y tế,
thành lập Hội đồng quản lý Bảo hiểm y tế, giao
Bộ trưởng Bộ Y tế làm Chủ tịch Hội đồng quản
lý Bảo hiểm y tế để đảm bảo sự chỉ đạo, điều
hành tập trung, toàn diện về chất lượng dịch vụ y
tế và quản lý quỹ Bảo hiểm y tế, tăng quyền hạn
và trách nhiệm của người đứng đầu.
Mô hình tổ chức hệ thống bảo hiểm y tế như
hiện nay là nguyên nhân của những vướng mắc
và hạn chế trong tổ chức thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế trong thời
gian qua. Theo Luật Bảo hiểm y tế, Bộ Y tế có
trách nhiệm xây dựng và trình Chính phủ các
giải pháp nhằm bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm y
tế, nhưng việc thực hiện có nhiều khó khăn:
- Bộ Y tế được giao quản lý nhà nước về bảo
hiểm y tế, nhưng không chỉ đạo, quản lý trực
tiếp hệ thống tổ chức thực hiện, không quản lý
kinh phí, không tham gia duyệt quyết toán,
không có đủ thông tin, số liệu để tổng hợp, phân
tích, đánh giá và ra các quyết định, chính sách.
- Bộ trưởng Bộ Tài chính là Chủ tịch Hội
đồng quản lý bảo hiểm xã hội Việt Nam, trong
đó có chức năng chỉ đạo và giám sát thu-chi,
quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm y tế của Bảo hiểm
xã hội.
- Các vướng mắc tại địa phương không được
giải quyết kịp thời do Uỷ ban nhân dân các tỉnh
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo
hiểm y tế ở địa phương nhưng không điều hành
được cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh trong việc thu
phí, phát hành thẻ, thanh toán chi phí khám,
chữa bệnh, tuyên truyền về bảo hiểm y tế, những
hoạt động này do cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh
chỉ đạo theo ngành dọc.
8. Thực hiện tốt các chính sách, giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng dân số và kế hoạch
hóa gia đình, duy trì mức sinh hợp lý, quy mô
gia đình ít con; giảm thiểu tình trạng mất cân
bằng giới tính khi sinh.
9. Trong khi Ngành Y tế thiếu nhân lực trầm
trọng thì việc để cán bộ y tế nghỉ hưu ở độ tuổi
55 đối với nữ và 60 đối với nam là một sự lãng
phí lớn. Năm 1960, tuổi thọ bình quân của người
dân Việt Nam là 45,4 tuổi; đến nay tuổi thọ bình
quân của Việt Nam đã tăng lên 73 tuổi (trong
khi đó Thái Lan là 69,3; Philippines 72,3 và tuổi
thọ bình quân ở khu vực Đông á - Thái Bình
Dương là 72,8, Nga là 57 tuổi). Chính vì vậy, đề
nghị Chính phủ cho phép tăng tuổi làm việc của
cán bộ nữ lên 60 tuổi và nam 65 tuổi để tận dụng
đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm này.
8
CHíNh luận
91. Các yếu tố dân số
Kết quả sơ bộ tổng điều tra dân số và nhà ở
ngày 1/4/2009 cho thấy dân số Việt Nam là
85.789.573 người; tốc độ tăng dân số đã giảm
mạnh. Tỷ lệ phát triển dân số bình quân hằng
năm giai đoạn 1999-2009 còn 1,2%. Báo cáo
chung Tổng quan ngành y tế (JAHR) 2010 là
báo cáo thứ tư do Bộ Y tế cùng với các đối tác
phát triển y tế phối hợp thực hiện hằng năm. Báo
cáo năm 2010 phân tích tổng thể thực trạng
ngành y tế, xác định các vấn đề ưu tiên và các
giải pháp trong thời gian tới, góp phần xây dựng
Chiến lược bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, Kế hoạch 5
năm ngành Y tế giai đoạn 2011-2015, 50 năm
qua. Một số yếu tố về dân số có ảnh hưởng tới
sức khỏe của người dân được nêu dưới đây.
Quy mô dân số lớn và tiếp tục tăng nên mật độ
2
dân số Việt Nam tăng từ 231 người/km năm
2
1999 lên 259 người/km năm 2009. Mật độ
dân số Việt Nam cao, đứng thứ ba ở khu vực
Đông Nam á (Sau Singapore và Philippines).
Đồng bằng sông Hồng có mật độ dân số cao
2
nhất 930 người/km , sau đến Đông Nam Bộ
2
(594 người/km ), thấp nhất là Tây Nguyên
2
(93 người/km ). Mật độ dân số cao là yếu tố
nguy cơ đối với nhiều vấn đề sức khỏe, trong
đó có các bệnh lây nhiễm và tình hình sử
dụng dịch vụ y tế của người dân.
Cơ cấu dân số biến động mạnh: Tỷ trọng dân
số của nhóm dưới 15 tuổi giảm từ 33% năm
1999 xuống còn 25%. Ngược lại tỷ trọng dân
số của nhóm 15-59 tuổi (là nhóm chủ lực của
lực lượng lao động) lại tăng từ 58% năm
1999 lên 66% và nhóm dân số từ 60 tuổi trở
lên tăng từ 8% năm 1999 lên 9% năm 2009.
Theo mô hình dân số của Liên hợp quốc, dân
số nước ta đang thuộc “cơ cấu dân số vàng”
hay cơ cấu dân số tối ưu vì tỷ trọng người
trong tuổi lao động chiếm tỷ lệ rất lớn so với
tỷ trọng người trong tuổi phụ thuộc. Tuy
nhiên, nhóm phụ nữ bước vào tuổi sinh đẻ
cũng rất lớn, sẽ ảnh hưởng nhiều tới nhu cầu
sử dụng dịch vụ sức khỏe sinh sản, và nhi
khoa trong những năm tới.
Tuy nhiên, do tỷ lệ người cao tuổi tăng lên
trong khi tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi giảm mạnh
trong 10 năm qua 1999-2009, “chỉ số già
hóa” đã tăng 11 điểm phần trăm sau 10 năm
(từ 24,5% năm 1999 lên 35,9%). Chỉ số già
hóa của nước ta hiện nay cao hơn mức trung
bình của khu vực Đông Nam á (30%), tương
đương với mức già hóa của Indonesia và
Philippines, nhưng thấp hơn mức của
Singapore (85%) và Thái Lan (52%). Kèm
theo già hóa dân số thường có các bệnh
không lây nhiễm, có tiềm năng tăng đáng kể
trong thời gian tới.
Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh
ngày càng nghiêm trọng. Tỷ số giới tính khi
sinh đã tăng lên trong 10 năm, rõ nét nhất là
Lời tòa soạn: Báo cáo chung tổng quan ngành y tế (JAHR) của Bộ Y tế và nhóm đối tác y tế năm 2010 là
báo cáo thứ tư do Bộ Y tế cùng với các đối tác phát triển y tế phối hợp thực hiện hằng năm. Báo cáo năm 2010
phân tích tổng thể thực trạng ngành y tế, xác định các vấn đề ưu tiên và các giải pháp trong thời gian tới, góp
phần xây dựng Chiến lược bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, Kế hoạch 5
năm ngành Y tế giai đoạn 2011-2015. Trong số này, Tạp chí Chính sách Y tế trích đăng nội dung về Các yếu tố
ảnh hưởng đến sức khỏe (từ chương I Tình trạng sức khỏe và các yếu tố ảnh hưởng) của Báo cáo để trân
trọng giới thiệu với quý độc giả (số thứ tự các tiểu mục được biên tập lại cho phù hợp với phần được trích
đăng).
CáC YếU Tổ ảNH HƯởNG ĐếN SứC KHỏE (Phần 1)
(Trích từ Chương I - Tình trạng sức khỏe và các yếu tố ảnh hưởng,
Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2010).
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
10
Nghiên cứu về chính sách y tế
trong vòng 5 năm qua. Năm 1999, tỷ số này
là 108 bé trai/100 bé gái, đến 2009 đã tăng
lên 111 bé trai/100 bé gái. Đây là chủ đề xã
hội nóng bỏng đã được dư luận nước ta đặc
biệt quan tâm.
Mặc dù tuổi thọ trung bình tăng, nhưng chất
lượng dân số còn hạn chế. Việt Nam vẫn nằm
trong nhóm các nước có chỉ số phát triển con
người (HDI) ở mức trung bình. Số năm trung
bình sống khỏe mạnh chỉ đạt 66 tuổi và xếp
thứ 116/182 nước trên thế giới vào năm 2009.
2. Toàn cầu hóa, công nghiệp hóa, đô thị
hóa, di cư và thay đổi lối sống
Di cư ngày càng tăng gây áp lực cho vấn đề
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ở các thành
phố lớn và tổ chức hệ thống cung cấp dịch vụ y
tế. Di cư từ nông thôn ra thành thị cũng nảy sinh
nhiều vấn đề ảnh hưởng đến sức khoẻ. Số người
di cư trong 5 năm qua là 3,3 triệu người, tăng
163. 000 người. Sau 10 năm (1999-2009), tổng
số người di cư tăng lên 1,4 triệu người, đặc biệt
là số người di cư tăng theo khoảng cách di cư.
Vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên luôn là địa
điểm thu hút các luồng di cư. Đông Nam Bộ là
vùng nhập cư cao nhất. Các khu công nghiệp tập
trung và các thành phố lớn luôn có sức hút mạnh
mẽ nhiều người chuyển đến làm ă n sinh sống: tỷ
0
suất di cư thuần túy của Bình Dương là 341,7 / ,
00
0
Thành phố Hồ Chí Minh là 116 / , và Đà Nẵng
00
0
là 77,9 / .
00
Đến nay đã có 29,6% dân số sống ở khu vực
thành thị so với 23,7% vào năm 1999. Đông
Nam Bộ là vùng có mức đô thị hóa cao nhất, dân
số thành thị chiếm 57,1% (năm 1999 là 55,1%).
Đồng bằng sông Hồng có mức đô thị hóa cũng
tương đối cao với 29,2% dân số thành thị (năm
1999 là 21,1%).
Đô thị hóa cùng với quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa còn tạo ra những thách thức lớn đối
với công tác chăm sóc sức khỏe. Sự gia tăng
nhịp độ của cuộc sống là yếu tố nguy cơ cho các
bệnh tâm thần, tim mạch, và bệnh không lây
nhiễm khác. Công nghiệp hóa tăng nguy cơ tiếp
xúc với các yếu tố gây bệnh nghề nghiệp. Ô
nhiễm không khí, nước sạch do tăng nhanh công
suất sử dụng cơ sở hạ tầng đô thị cũng đang đe
dọa đến sức khỏe người dân. Ngoài ra, cơ sở hạ
tầng xã hội không theo kịp với tốc độ tăng dân
số, đặc biệt cung ứng nước sạch, xử lý rác thải,
nước cống, cơ sở y tế KCB, giáo dục, nhà ở, vv...
Nhu cầu tập thể dục để nâng cao sức khỏe ngày
càng lớn trong khi các công viên, không gian
xanh ngày càng đông và thiếu.
3. Biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu là một trong những thách
thức lớn nhất trong thời đại của chúng ta. Biến
đổi khí hậu gồm các hiện tượng nóng lên toàn
cầu và mực nước biển dâng... gây ra lũ lụt, hạn
hán và các hiện tượng thời tiết cực đoan khác
trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Biến đổi khí
hậu không chỉ đe dọa làm thay đổi lối sống mà
còn có tác động trực tiếp tới sức khỏe con người,
môi trường, đa dạng sinh học và tài nguyên
nước.
Việt Nam là một trong số các quốc gia đang
bị ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí hậu
và mực nước biển dâng. Thực trạng biến đổi khí
hậu ở Việt Nam:
Về nhiệt độ: Từ năm 1951 đến năm 2000
0
nhiệt độ trung bình năm đã tăng 0,7 C, hậu quả
làm thay đổi các hệ sinh thái; gia tăng sức ép
nhiệt độ lên cơ thể và tăng các bệnh nhiệt đới,
truyền nhiễm.
Về lượng mưa: Trong những năm gần đây,
lượng mưa giảm đi trong tháng 7, 8 và tăng cao ở
tháng 9, 10, 11. Mưa phùn ở Hà Nội giảm dần từ
thập kỷ 1981-1990 và chỉ còn một nửa (15
ngày/năm) trong 10 năm gần đây. Từ năm 1958-
2007, lượng mưa hằng năm giảm 2%. Hậu quả
là tác động rõ rệt đến sự hình thành và phát triển
của một số vật mang mầm bệnh.
Về nước biển dâng: Theo Tổng cục Khí tượng
Thủy văn: mực nước biển mỗi năm dâng lên
khoảng 3 mm. Năm 1990 tăng 5 cm so với
những năm 1960. Hậu quả tạo điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của vật mang mầm bệnh.
11
Do biến đổi khí hậu, gia tăng các bệnh truyền
nhiễm nguy hiểm, các bệnh do vật mang mầm
bệnh, đe dọa tới sức khỏe con người đặc biệt
những người nghèo và cận nghèo. Các bệnh nhạy
cảm với khí hậu nằm trong số những bệnh gây tử
vong lớn nhất toàn cầu. Tiêu chảy, sốt rét và suy
dinh dưỡng làm tử vong hơn 3 triệu người trên
toàn thế giới. Thời tiết ấm hơn đồng nghĩa với
việc mở rộng phạm vi địa lý phát triển của muỗi,
ngắn lại chu kỳ sinh sản của muỗi, hoặc thay đổi
mô hình di cư của chim và các loài vật khác. Sự
xuất hiện của bệnh SARS, Cúm A(H5N1), và
một số lượng lớn hiện tượng bất thường liên quan
đến sốt xuất huyết hiện đang xảy ra tại Châu á và
dịch sốt xuất huyết quay trở lại ở Việt Nam trong
mấy năm gần đây có thể cho chúng ta thấy rõ sự
ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
Ngoài ra, các loại thiên tai có ảnh hưởng rất
lớn tới sức khỏe người dân do hậu quả là mất
nguồn nước sạch, thiếu ă n, tai nạn, chấn thương,
khó tiếp cận với dịch vụ y tế. Mô hình cung ứng
dịch vụ y tế ổn định, bảo đảm y tế công cộng khi
thiên tai xảy ra cần được xây dựng và bảo đảm.
Nếu như Việt Nam không có các giải pháp,
kế hoạch ngay từ bây giờ thì biến đổi khí hậu sẽ
đe dọa làm đảo ngược những tiến bộ mà Việt
Nam đã đạt được trong công cuộc đấu tranh
phòng chống bệnh tật và nghèo đói những năm
gần đây. Biến đổi khí hậu cũng làm tăng thêm
khoảng cách về các điều kiện y tế, tình trạng sức
khỏe giữa những người giàu nhất và những
người nghèo nhất.
4. Sức khỏe môi trường
Sức khỏe môi trường là một trong những vấn
đề thu hút sự quan tâm của toàn xã hội và đặt cho
ngành y tế trọng trách trong việc tuyên truyền
giáo dục nhận thức về vệ sinh môi trường cũng
như đối phó với các bệnh liên quan nhất là các
vùng nông thôn khó khăn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa.
Theo số liệu báo cáo sơ bộ Tổng điều tra dân
số và nhà ở ngày 01/4/2009, đến nay đã có 87%
hộ gia đình sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh,
54% hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh. Trung du và
miền núi phía Bắc có tỷ lệ sử dụng nước hợp vệ
sinh thấp nhất (61,5%). Tỷ lệ hộ có nhà tiêu hợp
vệ sinh dưới 50% ở các vùng Trung du miền núi
phía Bắc (26,1%), Bắc Trung Bộ và Duyên hải
miền Trung (47,3%), Tây Nguyên (46,5%) và
Đồng bằng sông Cửu Long (42,4%).
Cùng với quá trình công nghiệp hóa và đô thị
hóa, vấn đề ô nhiễm môi trường đô thị, ô nhiễm
không khí và nguồn nước khu dân cư ngày càng
nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe
nguời dân. Ô nhiễm không khí đô thị chủ yếu do
giao thông (70%), do quá tải ô tô, xe máy và do
các thành phố đang xây dựng, đô thị hoá một
cách mạnh mẽ. Có hàng loạt các vấn đề có liên
quan đến sức khoẻ cấp tính và mãn tính nảy sinh
do phơi nhiễm ngắn hạn và dài hạn với các chất
gây ô nhiễm không khí. Ô nhiễm không khí
nguy hiểm nhất đối với những người mắc bệnh
hô hấp, tim mạch, những người cao tuổi...
Môi trường và điều kiện lao động tuy đã được
cải thiện đáng kể nhất là từ khi các nhà đầu tư, cơ
sở sản xuất nhập đồng bộ dây chuyền công
nghệ. Tuy nhiên, một số cơ sở sản xuất vẫn sử
dụng dây chuyền cũ, lạc hậu, gây ô nhiễm môi
trường. Một số cơ sở sản xuất xử lý chất thải
không đảm bảo theo các yêu cầu đề ra, dẫn đến
gây ô nhiễm môi trường trầm trọng ở một số địa
phương. Đối với các doanh nghiệp nhỏ, doanh
nghiệp tư nhân, cơ sở làng nghề, điều kiện lao
động chưa được giám sát hoặc giám sát ở mức
rất thấp. Lực lượng lớn di cư tự do từ nông thôn
vào thành thị làm việc kiếm sống với nhiều công
việc phức tạp, điều kiện lao động của những
người này không được đảm bảo, có nhiều yếu tố
nguy cơ đối với tình trạng sức khỏe và bệnh tật
trong khi không có hỗ trợ đầy đủ từ y tế lao
động.
5. An toàn vệ sinh thực phẩm
Thức ăn không an toàn có thể gây ngộ độc
thực phẩm, nhiều bệnh cấp tính và mạn tính liên
quan đến vi khuẩn, hóa chất và các công nghệ
mới chưa được kiểm nghiệm.
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
12
Tại nhiều quốc gia, trong vài thập niên qua,
có sự gia tăng đáng kể về tỷ lệ mắc bệnh liên
quan vi khuẩn lây truyền qua thức ăn như
Salmonella hoặc E.Coli. Một số nguy cơ mới
đang nổi lên từ bệnh động vật sang người cũng
tạo ra thách thức mới cho an toàn thực phẩm.
Nguy cơ nhiễm hóa chất trong thực phẩm
vẫn còn là một nguyên nhân quan trọng của
bệnh tật liên quan đến thực phẩm. Hóa chất gây
nhiễm thực phẩm gồm các chất độc tự nhiên như
loại nấm độc, hải sản độc, các chất ô nhiễm môi
trường như thủy ngân và chì, các chất tự nhiên
trong thực vật. Các vi chất, hóa chất đưa vào
thực phẩm khi chế biến, hóa chất nông nghiệp
và thuốc thú y được chủ động sử dụng trong
chuỗi sản xuất thực phẩm, nhưng có thể có tác
động tiêu cực tới sức khỏe.
Các công nghệ mới, ví dụ như kỹ thuật di
truyền, chiếu xạ thực phẩm và những công nghệ
bao gói thực phẩm, đều có thể cải tiến được việc
chế biến thực phẩm và an toàn thực phẩm, tuy
nhiên cũng có những rủi ro.
ảnh hưởng của việc thiếu an toàn thực phẩm
đối với sức khỏe bao gồm việc gây ra các bệnh
tiêu chảy và các loại ung thư. Tổ chức Y tế Thế
giới ước tính các bệnh tiêu chảy liên quan đến
thực phẩm và nước uống giết chết 2,2 triệu
người mỗi năm, trong đó có 1,9 triệu trẻ em.
Tỷ lệ ngộ độc thực phẩm ở Việt Nam hiện
còn ở mức cao. Theo số liệu từ Chương trình
mục tiêu về vệ sinh an toàn thực phẩm, hằng
năm có khoảng 150-250 vụ ngộ độc thực phẩm
được báo cáo với từ 3.500 đến 6.500 người mắc,
tử vong từ 37 đến 71 người một năm. Tuy nhiên
trong thực tế con số này có thể cao hơn nhiều.
Ngày nay, có nhiều vụ ngộ độc thực phẩm tại
các bếp ăn tập thể của các nhà máy, xí nghiệp
liên doanh, khu công nghiệp hoặc tại các đám
cưới, đám tang Ngộ độc thực phẩm do hóa
chất, đặc biệt là hóa chất sử dụng trong nông
nghiệp như hóa chất bảo vệ thực vật, một số hóa
chất bảo quản thực phẩm, chiếm khoảng 25%
tổng số các vụ ngộ độc thực phẩm.
Tình hình ngộ độc thực phẩm tuy có giảm
gần đây, nhưng diễn biến vẫn còn khá phức tạp.
Với sự phát triển và công nghiệp hóa mạnh mẽ,
nguy cơ ngộ độc thực phẩm có thể tăng vì những
bếp tập thể phục vụ hàng trăm người và những lô
hàng thực phẩm chế biến theo phương pháp
công nghiệp được bán cho số người rất đông.
Ngộ độc thực phẩm xảy ra do nhiều nguyên
nhân, trong đó do vi sinh vật là 7,8%, do hóa
chất là 0,5%, do độc tố tự nhiên là 25,4%, và do
các nguyên nhân không xác định được là 66,3%.
Số người mắc tập trung ở các vụ ngộ độc bếp ă n
tập thể, thức ăn đường phố, đám cưới/đám giỗ,
số người chết tập trung ở các vụ ngộ độc thực
phẩm bếp ă n gia đình.
Nghiên cứu về chính sách y tế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhiem_vu_trong_tam_cong_tac_y_te_nam_2011.pdf