Nhồi máu cơ tim thất phải
- Duy trì hỗ trợ co bóp và giảm
hậu gánh: Nếu bù dịch không cải thiện
huyết áp và duy trì cung lượng tim thì
tăng co bóp cơ tim bằng Dobutamine.
Tuy nhiên, rối loạn về huyết động có
thể xảy ra với Dobutamine đặc biệt
trong khi tụt áp do NMCTTP, do đó
cần chú ý khi sử dụng. Khi có kèm
giảm chức năng thất trái thì có thể
dùng bóng ngược dòng ĐMC và/hoặc
truyền TM Natriprusside để giảm hậu
gánh. Do vai trò còn tranh cãi của
đồng bộ nhĩ thất và chuyển nhĩ trong
duy trì tống máu cơ tim, tạo nhịp liên
tiếp nhĩ - thất là lựa chọn hàng đầu
khi cần đặt máy tạo nhịp.
- Tái tưới máu cơ tim sớm: bằng
chứng có giá trị hiện nay chỉ ra rằng
những bệnh nhân có triệu chứng khởi
đầu trong vòng 6 giờ của NMCT thành
dưới và có dấu hiệu tổn thương thất
phải được chẩn đoán trên ĐTĐ và các
tiêu chuẩn không xâm nhập khác có
tỷ lệ sống còn cao nếu sử dụng thuốc
tiêu sợi huyết hay can thiệp mạch
vành. Số liệu ngắn hạn xem xét các
bệnh nhân sau khi khởi phát 12 giờ,
và các bệnh nhân này hầu hết dường
như đáp ứng tốt với điều trị bảo tồn,
bao gồm các biện pháp điều trị suy
thất phải.
- Phẫu thuật: Hở van ba lá nặng
trong bệnh cảnh NMCTTP cấp có thể
giải quyết bằng thay van ba lá hay sửa
vòng van, do khi hở sẽ không bảo đảm
được cung lượng tim ổn định. Cuối
cùng một bệnh nhân có tăng tình trạng
thiếu ôxy do luồng thông phải - trái ở
mức tâm nhĩ cần phải bít lỗ thông liên
nhĩ ngay.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhồi máu cơ tim thất phải, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUyÊN đề đÀo TẠo LIÊN TụC80
chuYeân ñeà ñaøo taïo lieân tuïc
Nhồi máu cơ tim thất phải
GS.TS. Nguyễn Lân Việt
ñaïi cöông
Trước đây, Nhồi máu cơ tim thất phải
(NMCTTP) được nhìn nhận như là một
phân nhóm của NMCT sau dưới với biểu
hiện suy thất phải và tăng áp lực đổ đầy
thất phải trong khi áp lực đổ đầy thất trái
bình thường. Dần sau này, đã có những
hiểu biết sâu hơn về NMCTTP, đặc biệt
khi phối hợp với NMCT thất trái hay đơn
độc cũng như nhấn mạnh các biểu hiển
lâm sàng của thất phải đối với chức năng
toàn bộ quả tim. Những tiến bộ của thăm
dò không chảy máu trong việc đánh giá
NMCTTP đã giúp phát hiện sớm và đề ra
các biện pháp điều trị kết hợp có hiệu quả
cũng như giúp phân biệt các bệnh nhân có
suy giảm chức năng thất phải xuất phát
từ sàng suy thất trái thường gặp hơn.
1. Sinh bệnh học
Thất phải là một buồng tim có thành
mỏng hoạt động với nhu cầu ôxy và áp
lực thấp. Nó được tưới máu trong cả thì
tâm thu và tâm trương của chu chuyển
tim, và khả năng giảm nhu cầu ôxy tăng
lên khi có những biến loạn về huyết động.
Tất cả các yếu tố này làm cho thất phải ít
bị nhồi máu hơn là thất trái.
Nhánh sau dưới của động mạch vành
phải thường cung cấp máu cho thành sau
và dưới của thất phải. Nhánh lề của động
mạch vành phải cung cấp máu cho thành
bên của thất phải. Thành trước thất phải có
hai nhánh cung cấp máu: nhánh chóp của
động mạch vành phải và nhánh trung gian,
bắt nguồn từ động mạch liên thất trước.
Thú vị là, NMCTTP khi xảy ra
thường liên quan đến thành sau và sau
vách hơn là thành tự do thất phải. Các
liên quan của thành trước thất phải rõ
ràng có khả năng hình thành tuần hoàn
bàng hệ cao. Hệ động mạch bàng hệ này
được cho là bắt nguồn từ tĩnh mạch The-
besius và cung cấp máu có ôxy trực tiếp
từ buồng thất. Sự liên quan trực tiếp giữa
giải phẫu chỗ tắc của động mạch vành
phải và sự lan rộng của NMCT thất phải.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng đoạn gần
của động mạch vành phải thì vùng nhồi
máu càng lớn. Đôi khi, thất phải có thể bị
nhồi máu do tắc động mạch mũ.
Do thất phải được coi như bơm
máu với áp lực thấp, sự co bóp của nó
phụ thuộc nhiều váo áp lực tâm trương.
Do đó, khi sự co bóp và chức năng tâm
trương suy giảm do nhồi máu thất phải
thì sẽ làm áp lực tâm trương thất phải
tăng và áp lực tâm thu giảm. Trong hoàn
cảnh như vậy, suy giảm chức năng thất
trái kèm theo có thể làm tăng hậu gánh
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 53 - 2010 81
thất phải. Do đó, tống máu thất phải
giảm nghiêm trọng, và chỉ còn khả năng
tăng áp lực nhĩ phải. Và khi đó thất phải
chỉ như một ống dẫn giữa nhĩ phải và
động mạch phổi.
Tăng áp lực nhĩ phải sau NMCTTP
làm cho tăng thải yếu tố lợi tiểu nhĩ (ANF).
Tăng mức độ của polypeptide này có thể
làm giảm áp lực đổ đầy thất trái. Yếu tố
này tăng khi dùng các chất giãn mạch, lợi
tiểu nhĩ, lợi tiểu, và ức chế aldosterone.
Sự tăng không thoả đáng của ANF làm
trầm trọng thêm triệu chứng lâm sàng
của NMCTT. Sự thay đổi huyết động tức
thời ở bệnh nhân NMCTTP nhạy cảm với
giảm tiền gánh (VD: thể tích) và mất sự
đồng bộ nhĩ - thất. Hai yếu tố này có thể
gây ra sự giảm nặng tống máu thất phải
và tiếp đó là thất trái.
Tái tưới máu bằng tiêu huyết khối
sớm hay can thiệp qua da động mạch
vành bị tắc ở bệnh nhân NMCTTP liên
quan tới sự giảm nhanh chóng áp lực
nhĩ phải. Điều này đặc biệt quan trọng
bởi vì tăng áp lực nhĩ phải thường xuyên
liên quan chặt chẽ với tỷ lệ tử vong bệnh
viện khi nhồi máu xảy ra. Sự lan rộng của
NMCTP biến đổi nhiều và phụ thuộc vào
vị trí tắc của động mạch vành nuôi thất
phải. Nếu tắc xảy ra trước nhánh lề của
động mạch vành phải và không có tuần
hoàn bàng hệ từ động mạch liên thất
trước sang thì vùng nhồi máu là lớn nhất.
Sự lan rộng của nhồi máu còn phụ thuộc
đôi khi vào dòng chảy từ tĩnh mạch The-
besius. Nhìn chung, bất kỳ sự giảm đáng
kể trong cung cấp máu cho thành tự do
của thất phải sẽ có tiên lượng tồi
2. Tần suất
Tại Hoa Kỳ: NMCTTP đơn độc rất
hiếm, thường kết hợp với nhồi máu cơ
tim thành dưới. Tỷ lệ mới mắc của NM-
CTTP là từ 10-50%, phụ thuộc vào từng
nghiên cứu.
Tần suất của NMCTTP, có thể phát
hiện bằng các chuyển đạo trước tim phải,
thường là NMCT không có ST chênh lên
hay không có Q thường là không được biết
và đang được nghiên cứu. Mặc dù NM-
CTTP về lâm sàng là khá nhiều nhưng tỷ
lệ hiện mắc thường ít hơn trên mổ tử thi.
Nguyên nhân chính của sự khác biệt này là
khó khăn trong việc chẩn đoán NMCTTP
trên bệnh nhân còn sống. Thêm nữa, suy
giảm chức năng thất phải thay đổi về lâm
sàng, do đó khẳng định tỷ lệ mới mắc thực
sự còn khó hơn. Tiêu chuẩn đã được đặt ra
để chẩn đoán NMCTTP tuy nhiên khi sử
dụng chặt chẽ thì cũng không thể tìm ra tỷ
lệ mắc thật sự của NMCTTP.
laâm saøng
1. cơ năng
Mặc dù NMCTTP xảy ra ở hơn 30%
bệnh nhân có NMCT sau dưới, biểu hiện
huyết động của NMCTTP chỉ diễn ra ở
dưới 10% bệnh nhân.
NMCTTP nên được đặt ra ở tất cả
các bệnh nhân có biểu hiện của NMCT
sau thành dưới, đặc biệt là với các bệnh
nhân có chức năng tống máu thấp
Bệnh nhân thường có triệu chứng
của tụt áp.
CHUyÊN đề đÀo TẠo LIÊN TụC82
Huyết động của NMCTTP nhạy cảm
với các giảm tiền gánh như nitrat, mor-
phine, hay lợi tiểu.
Các biểu hiện khác bao gồm blốc nhĩ
thất độ cao, hở van ba lá, sốc tim, thủng
thành tự do thất phải, và ép tim.
Bệnh nhân có phải được đặt ra NM-
CTTP nếu có triệu chứng thiếu ôxy không
giải thích được mặc dù được thở ôxy 100%,
shunt P-T ở vùng cùng với suy tim phải và
tăng áp lực nhĩ phải. Mặc dù hiếm, biến
chứng này của NMCTTP phải luôn được
đặt ra khi bệnh nhân có NMCT mà có biểu
hiện thiếu ôxy thứ phát sau NMP không
biểu hiện lâm sàng. Cơ chế của shunt F-T
mà không có tăng áp lực động mạch phổi
tim do sự mở lại của lỗ bầu dục ở bệnh
nhân có sức chứa thất phải giảm và tăng
áp lực đổ đầy nhĩ phải.
Bệnh nhân có hoại tử thất phải lan
rộng có nguy cơ cao thủng cơ tim khi đặt
catheter, và khi đó thủ thuật đặt catheter
có bóng hay máy tạo nhịp cần phải thực
hiện rất cẩn thận.
2. Thực thể
Tam chứng lâm sàng kinh điển của
NMCTTP bao gồm tĩnh mạch cảnh nổi,
phổi trong và tụt huyết áp.
Biểu hiện lâm sàng ít gặp hơn bao
gồm tiếng T3 và T4 thường nghe thấy ở
cạnh ức trái và tăng lên khi hít vào.
Khi đo huyết động, sự không tương
xứng giữa tăng áp lực đổ đầy thất phải
so với thất trái là một chỉ điểm của NM-
CTTP.
Chẩn đoán phân biệt
Bệnh cơ tim phì đại
Bệnh cơ tim hạn chế
Tâm phế mạn
Bệnh xơ hoá nội mạc
Viêm màng ngoài tim
Co thắt màng ngoài tim
Tắc mạch phổi
Tràn khí màng phổi
Tăng huyết áp
Hở van ba lá
caän laâm saøng
1. Thăm dò hình ảnh
Cùng với lâm sàng, chẩn đoán NM-
CTTP cần dùng các kỹ thuật chẩn đoán
không xâm nhập hoặc các biện pháp xâm
nhập như thông tim thất phải hay Thăm
dò huyết động.
Siêu âm có ích trong thăm dò loại trừ
các bệnh màng ngoài tim, tràn dịch màng
tim, thường có biểu hiện lâm sàng giống
với NMCTTP.
- Giãn thất phải, di động bất thường
thành thất phải, di động nghịch thường
vách liên thất và hở van ba lá là các dấu
hiệu của NMCTTP
- Cần phải chú ý khi hở van ba lá
thường hay phát hiện trên siêu âm hơn là
nghe tiếng thổi của hở van.
- Có thể phát hiện shunt qua lỗ
bầu dục.
- Siêu âm có độ nhạy 82% và độ đặc
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 53 - 2010 83
hiệu 93% trong phát hiện NMCTTP khi
so sánh với chụp nhấp nháy thất phải.
- Trong số lớn bệnh nhân có NM-
CTTP, bất thường vận động thành tim
biểu hiện trong vòng 3 tháng.
- Chụp nhấp nháy hạt nhân và
Technetium 99 có ích trong chẩn đoán
NMCTTP không xâm nhập. Trong trường
hợp chụp mạch hạt nhân, thất phải biểu
hiện giãn và co bóp kém cùng với giảm
phân số tống máu. Khi chụp Tech 99 được
dùng, thành tự do thất phải “nóng” biểu
hiện dấu hiệu của nhồi máu.
2. các xét nghiệm khác:
Điện tâm đồ:
Tất cả bệnh nhân có NMCT thành
dưới cần phải làm ĐTĐ bên phải. ST
chênh lên ở chuyển đạo V4R là dấu hiệu
chỉ điểm mạnh nhất của tổn thương thất
phải, chỉ rõ nguy cơ cao ở bệnh nhân
có NMCT thành dưới. ST chênh lên dễ
thay đổi, mất đi trong vòng 10 tiếng từ
lúc xuất hiện triệu chứng ở một nửa số
bệnh nhân. Độ nhạy và độ đặc hiệu của
ST chênh lên lớn hơn 1mm ở V1, V3R và
V4R được trình bày ở bảng sau.
CĐ Độ nhạy (%) Độ đặc hiệu (%)
V1 28 92
V3R 69 97
V4R 93 95
NMCTTP đơn độc thì đặc biệt hiếm
và có thể biểu hiện nhầm lẫn như là
NMCT thành trước thất trái trên ĐTĐ do
ST chênh lên ở chuyển đạo V1-V4 . Một số
người cho rằng chẩn đoán phân biệt giữa
hai hiện tượng trên dựa vào việc phân
tích vector. Vector trung bình của NM-
CTTP thươòng hướng ra trước và sang
phải (>100o). Trong NMCT thành trước
thất trái, vector ST trung bình hướng
sang trái vào khoảng - 30o đến - 90o . Do
đó, phân tích mặt phẳng nằm và đứng
của trục vector ST trung bình có thể phân
biệt hình dạng ĐTĐ giữa NMCT ở hai vị
trí trên.
Hình 1. Hình ảnh ĐTĐ của một bệnh nhân bị NMCT thất phải.
Hình ảnh NMCT sau dưới với ST chênh lên và Q ở D2;D3;aVF. Các chuyển đạo
trước tim cho thấy sóng Q và ST chênh lên (V3R; V4R).
V3R
V4R
CHUyÊN đề đÀo TẠo LIÊN TụC84
Thăm dò huyết động:
Sự tăng không tương xứng của áp
lực đổ đầy bên phải so sánh với huyết
động bên trái là bằng chứng của NM-
CTTP.
Tiêu chuẩn huyết động của NM-
CTTP bao gồm áp lực nhĩ phải lớn hơn
10mmHg, tỷ lệ áp lực nhĩ phải/áp lực
mao mạch phổi bít lớn hơn 0.8 hay áp
lực nhĩ phải nhỏ hơn trong khoảng
5mmHg so với áp lực mao mạch phổi
bít. Những biểu hiện này chỉ có sau khi
tăng gánh thể tích.
Trong NMCTTP, áp lực mao
mạch phổi bít có thể sai và không
phản ánh chính xác thể tích cuối tâm
trương và hơn thế giảm đổ đầy thất
trái do vách liên thất đẩy về phía
thất trái.
Các đặc điểm đặc biệt khác về huyết
động của NMCTTP gồm có:
- Sóng Y nhĩ phải tăng
- Tăng áp lực TM hay nhĩ phải khi hít
vào (dấu hiệu Kussmaul),
- Thay đổi của hít vào bình thường
lênáp lực động mạch hệ thống (dấu hiệu
mạch đảo),
- Tăng áp lực đổ đầy thất phải cùng
với dấu hiệu “dip và plateau” đầu tâm
trương,
Một số trong các dấu hiệu huyết
động trên giống với bệnh lý tắc nghẽn và
hạn chế.
ñieàu trÒ
1. nội khoa
NMCTTP nên luôn đặt ra ở bất
kỳ bệnh nhân nào có nhồi máu cơ tim
thành dưới và có tụt huyết áp, đặc biệt
khi nghe phổi trong. Mục đích trong
việc điều trị NMCTTP là duy trì tiền
gánh thất phải, duy trì hỗ trợ co bóp
trong khi đó lại giảm hậu gánh và tái
tưới máu sớm.
- Duy trì tiền gánh thất phải:
Bước đầu tiên trong điều trị tụt áp
là truyền từ 1- 2 lít dịch muối sinh lý
trong vòng 1 - 2 tiếng đầu. Nếu huyết
áp không lên, thì phải thông tim huyết
động bằng cách đo áp lực ĐMP, giữ
chú ý là có thể làm thủng thất phải.
Bệnh nhân có hoại tử thất phải rộng có
nguy cơ cao thủng thất phải do thông
tim và khi cho đầu bóng ống thông
hay máy tạo nhịp qua cần luôn luôn
rất cẩn thận.
- Duy trì hỗ trợ co bóp và giảm
hậu gánh: Nếu bù dịch không cải thiện
huyết áp và duy trì cung lượng tim thì
tăng co bóp cơ tim bằng Dobutamine.
Tuy nhiên, rối loạn về huyết động có
thể xảy ra với Dobutamine đặc biệt
trong khi tụt áp do NMCTTP, do đó
cần chú ý khi sử dụng. Khi có kèm
giảm chức năng thất trái thì có thể
dùng bóng ngược dòng ĐMC và/hoặc
truyền TM Natriprusside để giảm hậu
gánh. Do vai trò còn tranh cãi của
đồng bộ nhĩ thất và chuyển nhĩ trong
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 53 - 2010 85
duy trì tống máu cơ tim, tạo nhịp liên
tiếp nhĩ - thất là lựa chọn hàng đầu
khi cần đặt máy tạo nhịp.
- Tái tưới máu cơ tim sớm: bằng
chứng có giá trị hiện nay chỉ ra rằng
những bệnh nhân có triệu chứng khởi
đầu trong vòng 6 giờ của NMCT thành
dưới và có dấu hiệu tổn thương thất
phải được chẩn đoán trên ĐTĐ và các
tiêu chuẩn không xâm nhập khác có
tỷ lệ sống còn cao nếu sử dụng thuốc
tiêu sợi huyết hay can thiệp mạch
vành. Số liệu ngắn hạn xem xét các
bệnh nhân sau khi khởi phát 12 giờ,
và các bệnh nhân này hầu hết dường
như đáp ứng tốt với điều trị bảo tồn,
bao gồm các biện pháp điều trị suy
thất phải.
- Phẫu thuật: Hở van ba lá nặng
trong bệnh cảnh NMCTTP cấp có thể
giải quyết bằng thay van ba lá hay sửa
vòng van, do khi hở sẽ không bảo đảm
được cung lượng tim ổn định. Cuối
cùng một bệnh nhân có tăng tình trạng
thiếu ôxy do luồng thông phải - trái ở
mức tâm nhĩ cần phải bít lỗ thông liên
nhĩ ngay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhoi_mau_co_tim_that_phai.pdf