Chẩn đoán
Vì bệnh hiếm khi xảy ra, nên một chẩn đoán
trước mổ chính xác thiếu máu ruột không do tắc
nghẽn đòi hỏi phải có sự nghi ngờ cao ở bệnh
nhân có yếu tố nguy cơ. Những nghiên cứu
trước đây đã nhận ra những yếu tố nguy cơ đối
với bệnh nhân trên 50 tuổi, có bệnh van tim hoặc
xơ vữa động mạch, suy tim ứ huyết kéo dài, rối
loạn nhịp tim, có bệnh cảnh tụt huyết áp trước
đó, hoặc mới xảy ra nhồi máu cơ tim(8,10).
Chướng bụng hoặc xuất huyết tiêu hóa
không thể giải thích được có thể là những chỉ
điểm duy nhất của thiếu máu ruột cấp, đặc biệt
ở bệnh nhân thiếu máu mạc treo không do tắc
nghẽn. Có đến 25% bệnh nhân này không có đau
bụng. Ở những bệnh nhân được cứu sống sau
hồi sức tim phổi có kết quả cấy máu dương tính
và tiêu chảy nên được nghi ngờ là có thiếu máu
mạc treo ở giai đoạn sớm. Chướng bụng, trong
khi không có ở giai đoạn sớm của thiếu máu
mạc treo, thì thường là dấu hiệu đầu tiên của
nhồi máu ruột sắp xảy đến(1).
Trong nghiên cứu của Howard và cộng sự(2),
đau bụng là triệu chứng thường gặp nhất (77%),
chướng bụng (54%), ấn bụng đau (54%), tăng
bạch cầu (54%), và tụt huyết áp (54%). Tiền sử
bệnh tăng huyết áp hoặc bệnh mạch vành tương
ứng là 62% và 54%.
Phương tiện chẩn đoán chính của bệnh này
là chụp mạch máu (angiography), bốn tiêu
chuẩn đáng tin cậy trên hình chụp mạch máu để
chẩn đoán co thắt mạch máu mạc treo đã được
xác định là (1) hẹp tại gốc các nhánh của động
mạch mạc treo tràng trên; (2) có những chỗ giãn,
hẹp luân phiên của các nhánh động mạch mạc
treo, dấu hiệu “chuỗi xúc xích” (string of
sausage sign); (3) co thắt những cung mạch máu
mạc treo; (4) giảm sự đổ đầy các mạch máu dưới
niêm mạc. Chỉ định chụp mạch máu được thực
hiện càng sớm càng tốt, khi lâm sàng nghi ngờ
có tình trạng thiếu máu mạc treo cấp. Nếu chẩn
đoán đúng là thiếu máu ruột cấp không do tắc
nghẽn thì qua catheter chụp động mạch chúng ta
tiến hành truyền ngay thuốc giãn mạch
(papaverine) vào trực tiếp động mạch mạc treo
mong tránh được tình trạng thiếu máu ruột tiếp
diễn đến nhồi máu(1,3,8,10).
Bệnh nhân của chúng tôi 73 tuổi, có tụt huyết
áp kéo dài sau mổ vùng bụng, hôn mê, thở máy
được điều trị tại phòng hồi sức và dùng thuốc
vận mạch Noradrenaline và Dopamine liều cao
liên tục sau mổ để nâng huyết áp. Do không thể
khai thác được bệnh sử nên việc chẩn đoán chủ
yếu dựa vào theo dõi các dấu hiệu sinh tồn và
thăm khám. Triệu chứng lâm sàng chủ yếu là tụt
huyết áp, chướng bụng. Những triệu chứng này
có thể thấy ở những bệnh nhân sau mổ viêm
phúc mạc. Điều này làm khó khăn cho việc chẩn
đoán dẫn đến chẩn đoán trễ khi dịch dẫn lưu có
màu nâu đỏ, lúc này thì ruột đã nhồi máu.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 156 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhồi máu mạc treo không do tắc nghẽn: Một trường hợp lâm sàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 1
NHỒI MÁU MẠC TREO KHÔNG DO TẮC NGHẼN:
MỘT TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Nguyễn Tuấn*, Nguyễn Tấn Cường**, Võ Tấn Long**, Nguyễn Minh Hải***, Nguyễn Văn Hải**
TÓM TẮT
Tác giả báo cáo 1 trường hợp nhồi máu mạc treo không do tắc nghẽn. Bệnh nhân nữ, 73 tuổi, vào viện vì đau bụng cấp
sau mổ gãy xương chày trái. Bệnh nhân được chẩn đóan thủng tạng rộng và được mổ khâu lỗ thủng. Tình trạng hậu phẫu
tiếp tục xấu với tụt huyết áp. Vào ngày hậu phẫu thứ 7, bệnh nhân có dấu hiệu họai tử ruột nên được mổ lại. Khi mổ thấy
họai tử gần tòan bộ ruột non và đại tràng phải. Cắt phần ruột họai tử, bệnh nhân tử vong 4 ngày sau. Tác giả ôn lại Y văn về
vhẩn đóan và điều trị bệnh này.
ABSTRACT
NONOCCUSIVE MESENTERIC ISCHEMIA: REPORT 1 CASE
Nguyen Tuan, Nguyen Tan Cuong, Vo Tan Long, Nguyen Minh Hai, Nguyen Van Hai
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 229 - 232
Authors reported a case of nonocclusive mesenteric ischemia. A 73 year-old female admitted because of acute abdomen
after surgical treatment for left tibia fracture. She was diagnosed of having perforated peptic ulcer and was operated to close
perforation. Her postoperative period was complicated with persistent shock. On the 7thpostop day, she had signs of bowel
gangrene so she was reoperated to resect gangrenous bowel which invovled nearly total of small bowel and right colon. The
patient died 4 days after that. Authors also reviewed diagnosis and treatment of this disease.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu máu mạc treo không do tắc nghẽn
(Nonocclusive mesenteric ischemia), hoặc “hoại
tử ruột mà có mạch máu mạc treo thông
thoáng”, là một tình trạng hiếm gặp, do các
mạch máu nhỏ bị co thắt nặng, liên tục gây ra
thiếu máu ruột(1,10). Chụp động mạch mạc treo và
truyền thuốc giãn mạch (papaverine) trực tiếp
vào động mạch mạc treo là cách điều trị duy
nhất cho thấy có hiệu quả trong việc làm giảm
sự co thắt mạch máu mạc treo, cải thiện hoàn
toàn tình trạng thiếu máu ruột nên tạo cơ hội
cứu sống ruột và làm giảm tỉ lệ tử vong. Để việc
điều trị thuốc giãn mạch có hiệu quả, cần phải
chẩn đoán đúng tình trạng bệnh ở giai đoạn sớm
trước khi có nhồi máu ruột(1,3,8,10). Phẫu thuật
đóng vai trò thứ yếu trong thiếu máu ruột không
do tắc nghẽn và được dùng riêng cho việc đánh
giá khả năng sống của ruột và cắt những phần
ruột hoại tử hoặc thiếu máu kéo dài không hồi
phục(1,10).Chúng tôi trình bày một trường hợp
nhồi máu mạc treo không do tắc nghẽn và qua
đó giúp nhìn lại vấn đề chẩn đoán và điều trị
bệnh này.
BỆNH ÁN LÂM SÀNG
Bệnh nhân Nguyễn Thị B, 73 tuổi, số hồ sơ là
07027628, vào viện ngày 09/04/2007, ra viện ngày
21/04/2007.
Bệnh nhân được chuyển đến Bệnh viện Chợ
Rẫy từ tuyến dưới với bệnh cảnh là đau bụng
một ngày sau khi được mổ đóng đinh nội tủy
xương chày do gãy hở hai xương cẳng chân trái
ba ngày. Lúc vào viện, bệnh nhân mê, mạch
120/phút, huyết áp 80/50 mmHg, nhiệt độ 370C
và nhịp thở 20/phút. Xét nghiệm máu có số
lượng bạch cầu là 3400/mm3, tỉ lệ bạch cầu đa
* Khoa Ngoại, Bệnh viện Hoàn Mỹ
** Bộ môn Ngoại Đại học Y dược tp HCM
*** Khoa Ngoại Tiêu Hóa bệnh viện Chợ Rẫy
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ bản Soá 4 * 2007 Nghieân cöùu Y hoïc
Ngoại Tổng quát 2
nhân trung tính 77,6%, nồng độ hemoglobin 8,3
g/dl, BUN 31 mg/dl và creatinin 2,0 mg/dl. Siêu
âm bụng thấy có ít dịch ở hai hố chậu. Trên
phim bụng đứng có liềm hơi dưới hoành hai
bên. Lúc này được chẩn đoán là viêm phúc mạc
do thủng tạng rỗng và chỉ định mổ mở bụng. Ổ
bụng có nhiều dịch và thức ăn, thủng ổ loét hành
tá tràng có đường kính 1,5 cm. Tiến hành khâu
lỗ thủng, rửa bụng và dẫn lưu. Sau mổ bệnh
nhân được theo dõi và điều trị tại khoa săn sóc
tăng cường trong tình trạng hôn mê và thở máy.
Diễn tiến lâm sàng có sốt từ 38 đến 390C, mạch
thay đổi từ 100 đến 140/phút, huyết áp dao động
từ 60/00 đến 90/50 mmHg. Bụng chướng dần và
ấn đau không rõ, có nhiễm trùng vết mổ. Chụp
bụng đứng có nhiều quai ruột giãn, chướng hơi.
Bệnh nhân được nuôi ăn đường tĩnh mạch hoàn
toàn, bồi hoàn nước và chất điện giải, kháng sinh
đường tĩnh mạch với Forkaxim 2g/ ngày,
Netromycin 0,1g/ngày. Bệnh nhân được dùng
thuốc vận mạch liên tục từ sau mổ với
Noradrenaline và Dopamine liều cao. Hậu phẫu
ngày 7, có khoảng 800 ml dịch nâu đỏ chảy qua
ống dẫn lưu. Lúc này, bệnh nhân được chỉ định
mổ lại với chẩn đoán theo dõi bục chỗ khâu lỗ
thủng ổ loét hành tá tràng. Vào ổ bụng có nhiều
dịch hôi thối, gần toàn bộ ruột non tím đen và có
nhiều chỗ hoại tử đến ½ phải của đại tràng
ngang nghi do thiếu máu mạch treo. Có xì lỗ nhỏ
chỗ khâu hành tá tràng. Tiến hành khâu tăng
cường lỗ thủng, cắt gần toàn bộ ruột non (còn lại
10 cm hỗng tràng) và đại tràng phải hoại tử và
đưa hai đầu ra ngoài. Không thấy huyết khối
trong lòng mạch. Giải phẫu bệnh lý là hoại tử
thành ruột non trên nền thiểu dưỡng xơ mạch
mạc treo. Sau mổ bốn ngày, tình trạng lâm sàng
bệnh nhân diễn tiến nặng, suy đa cơ quan và
được thân nhân xin về.
BÀN LUẬN
Xuất độ của thiếu máu mạc treo cấp do bởi
thuyên tắc, huyết khối, và tình trạng không tắc
nghẽn chiếm khoảng 0,1% bệnh nhân nhập viện,
và có tỉ lệ tử vong chung khoảng 60-100%(1,10).
Ước tính khoảng 20% trường hợp thiếu máu
mạc treo cấp là không do nguyên nhân tắc
nghẽn(2,8,10).
Cơ chế bệnh sinh
Có nhiều lý thuyết cho rằng nguyên nhân
của thiếu máu mạc treo không tắc nghẽn gồm
có: sự co thắt mạch máu mạc treo liên tục, thiếu
ô-xy ruột, tổn thương do tái tưới máu sau giai
đoạn thiếu máu, tăng nhu cầu chuyển hóa của
ruột và nhiễm trùng(2). Trong thiếu máu mạc treo
không do tắc nghẽn, các nhánh nhỏ của động
mạch mạc treo bị co thắt làm ngưng tưới máu
ruột, gây ra thiếu máu và nhồi máu ruột trong
khi mạch máu lớn vẫn còn thông thoáng. Nếu
can thiệp không kịp thời, diễn tiến tự nhiên của
thiếu máu mạc treo không tắc nghẽn là một sự
tiến triển từ thiếu máu ruột đến nhồi máu xuyên
niêm mạc, cuối cùng dẫn đến thủng ruột, viêm
phúc mạc, và tử vong(5,6,7,9). Tất cả các dạng thiếu
máu mạc treo cấp có thể tiến tới nhồi máu ruột
trong vòng vài giờ từ khi bắt đầu có triệu chứng;
do đó, việc tiếp cận tích cực đã được tán thành
cả trong chẩn đoán và điều trị bước đầu bất cứ
lúc nào có sự nghi ngờ về lâm sàng.
Chẩn đoán
Vì bệnh hiếm khi xảy ra, nên một chẩn đoán
trước mổ chính xác thiếu máu ruột không do tắc
nghẽn đòi hỏi phải có sự nghi ngờ cao ở bệnh
nhân có yếu tố nguy cơ. Những nghiên cứu
trước đây đã nhận ra những yếu tố nguy cơ đối
với bệnh nhân trên 50 tuổi, có bệnh van tim hoặc
xơ vữa động mạch, suy tim ứ huyết kéo dài, rối
loạn nhịp tim, có bệnh cảnh tụt huyết áp trước
đó, hoặc mới xảy ra nhồi máu cơ tim(8,10).
Chướng bụng hoặc xuất huyết tiêu hóa
không thể giải thích được có thể là những chỉ
điểm duy nhất của thiếu máu ruột cấp, đặc biệt
ở bệnh nhân thiếu máu mạc treo không do tắc
nghẽn. Có đến 25% bệnh nhân này không có đau
bụng. Ở những bệnh nhân được cứu sống sau
hồi sức tim phổi có kết quả cấy máu dương tính
và tiêu chảy nên được nghi ngờ là có thiếu máu
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ bản Soá 4 * 2007 Nghieân cöùu Y hoïc
Ngoại Tổng quát 3
mạc treo ở giai đoạn sớm. Chướng bụng, trong
khi không có ở giai đoạn sớm của thiếu máu
mạc treo, thì thường là dấu hiệu đầu tiên của
nhồi máu ruột sắp xảy đến(1).
Trong nghiên cứu của Howard và cộng sự(2),
đau bụng là triệu chứng thường gặp nhất (77%),
chướng bụng (54%), ấn bụng đau (54%), tăng
bạch cầu (54%), và tụt huyết áp (54%). Tiền sử
bệnh tăng huyết áp hoặc bệnh mạch vành tương
ứng là 62% và 54%.
Phương tiện chẩn đoán chính của bệnh này
là chụp mạch máu (angiography), bốn tiêu
chuẩn đáng tin cậy trên hình chụp mạch máu để
chẩn đoán co thắt mạch máu mạc treo đã được
xác định là (1) hẹp tại gốc các nhánh của động
mạch mạc treo tràng trên; (2) có những chỗ giãn,
hẹp luân phiên của các nhánh động mạch mạc
treo, dấu hiệu “chuỗi xúc xích” (string of
sausage sign); (3) co thắt những cung mạch máu
mạc treo; (4) giảm sự đổ đầy các mạch máu dưới
niêm mạc. Chỉ định chụp mạch máu được thực
hiện càng sớm càng tốt, khi lâm sàng nghi ngờ
có tình trạng thiếu máu mạc treo cấp. Nếu chẩn
đoán đúng là thiếu máu ruột cấp không do tắc
nghẽn thì qua catheter chụp động mạch chúng ta
tiến hành truyền ngay thuốc giãn mạch
(papaverine) vào trực tiếp động mạch mạc treo
mong tránh được tình trạng thiếu máu ruột tiếp
diễn đến nhồi máu(1,3,8,10).
Bệnh nhân của chúng tôi 73 tuổi, có tụt huyết
áp kéo dài sau mổ vùng bụng, hôn mê, thở máy
được điều trị tại phòng hồi sức và dùng thuốc
vận mạch Noradrenaline và Dopamine liều cao
liên tục sau mổ để nâng huyết áp. Do không thể
khai thác được bệnh sử nên việc chẩn đoán chủ
yếu dựa vào theo dõi các dấu hiệu sinh tồn và
thăm khám. Triệu chứng lâm sàng chủ yếu là tụt
huyết áp, chướng bụng. Những triệu chứng này
có thể thấy ở những bệnh nhân sau mổ viêm
phúc mạc. Điều này làm khó khăn cho việc chẩn
đoán dẫn đến chẩn đoán trễ khi dịch dẫn lưu có
màu nâu đỏ, lúc này thì ruột đã nhồi máu.
Điều trị
Như đã đề cập trên, nếu được chẩn đoán ở
giai đoạn thiếu máu ruột thì có thể hồi phục
hoàn toàn với điều trị truyền thuốc giãn mạch
(papaverine) trực tiếp vào động mạch mạc treo.
Khi đã có hiện tượng nhồi máu ruột hoặc có
bằng chứng của viêm phúc mạc thì cần phải mổ
bụng thám sát ngay sau khi có chẩn đoán. Mục
đích của mổ bụng là đánh giá tình trạng thiếu
máu ruột, khả năng hồi phục của ruột và tiến
hành cắt bỏ phần ruột nhồi máu hoặc không thể
sống được(2,8).
Bệnh nhân của chúng tôi được phát hiện ở
giai đoạn trễ, tuy nhiên chẩn đoán trước mổ là
bục chỗ khâu lỗ thủng hành tá tràng nên phải
mổ lại. Trong mổ chúng tôi phải đối mặt với một
tình trạng khó xử là hoại tử toàn bộ ruột non và
đại tràng do thiếu máu. Việc chọn lựa cắt bỏ
toàn bộ ruột hay để lại tổn thương là vấn đề khó
khăn vì hậu quả thường dẫn đến tử vong sau
mổ.
Kết quả
Tỉ lệ tử vong sau mổ của bệnh này khoảng
70-90%(1,3,4,10). Bệnh nhân của chúng tôi diễn tiến
đến suy đa cơ quan, thân nhân xin về sau mổ 4
ngày, và tử vong ngay sau đó.
Tiên lượng của thiếu máu mạc treo không do
tắc nghẽn là xấu nhất trong ba loại nguyên nhân
gây thiếu máu ruột cấp, vì bệnh diễn tiến âm
thầm, với những triệu chứng lâm sàng không
đặc hiệu lại kèm thêm nhiều bệnh nền nặng.
Chẩn đoán chủ yếu dựa vào kết quả chụp mạch
máu mạc treo. Tuy nhiên, không phải ở đâu và
lúc nào cũng chụp được mạch máu để chẩn
đoán sớm. Do đó, bệnh thường được chẩn đoán
ở giai đoạn trễ khi mà chỉ được điều trị bằng
phẫu thuật cắt bỏ ruột hoại tử.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Boley SJ, Kaleya RN. Mesenteric ischemic disorders. In:
Maingot’s abdominal operations. 10th ed: 655-689.
2. Howard TJ, Plaskon LA, Wiebke EA, et al. Nonocclusive
mesenteric ischemia remains a diagnostic dilemma. Am J
Surg. 1996; 171: 405-408.
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ bản Soá 4 * 2007 Nghieân cöùu Y hoïc
Ngoại Tổng quát 4
3. Kozuch PL, Brandt LJ. Review article: diagnosis and
management of mesenteric ischemia with an emphasis on
pharmacotherapy. Aliment Pharmacol Ther. 2005; 21: 201-215.
4. Malazgirt Z, Arik N, Guven H, et al. Nonocclusive
mesenteric infarction: a rare complication of continuous
ambulatory peritoneal dialysis. Grand Rounds. 2002; 2: 50-
52.
5. Mansour MA. Management of acute mesenteric ischemia.
Arch Surg. 1999; 134: 328-330.
6. Merida MAA, Gomez JM, Miller MH, et al. Identification
of risk factors for perioperative mortality in acute
mesenteric ischemia. World J Surg. 2006; 30:1579-1585.
7. Oldenburg WA, Lau LL, Rodenberg TJ, et al. Acute
mesenteric ischemia – A clinical review. Arch Intern Med.
2004; 164:1054-1062.
8. Piqué JM. Management of gut ischemia. Indian J
Gastroenterol. 2006; 25 (supp 1): S39-S42.
9. Sreenarasimhaiah J. Diagnosis and management of
intestinal ischaemic disorders. BMJ. 2003; 326: 1372-1376.
10. Sternbach Y, Perler BA. Acute mesenteric ischemia. In:
Zuidema D, Yeo CJ. Shackelford’s surgery of the
alimentary tract. 5th ed: 17-31.
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ bản Soá 4 * 2007 Nghieân cöùu Y hoïc
Ngoại Tổng quát 5
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ bản Soá 4 * 2007 Nghieân cöùu Y hoïc
Ngoại Tổng quát 6
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhoi_mau_mac_treo_khong_do_tac_nghen_mot_truong_hop_lam_sang.pdf