Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được
đánh giá sẽ vượt ra khỏi quy mô công
xưởng, doanh nghiệp khi vạn vật được kết
nối bởi internet. Cụ thể, không những tất cả
máy móc thiết bị trong công xưởng được kết
nối với nhau thông qua Internet, rất nhiều
cảm biến cũng đồng thời được lắp đặt để thu
thập dữ liệu. Điều này cho thấy, trong bối
cảnh tác động cuộc cách mạng công nghiệp
4.0, nền kinh tế số dần dần được hình thành
ở Việt Nam, chính vì thế, các sáng chế, tài
sản trí tuệ dần được phổ biến trong nền kinh
tế số. Bên cạnh đó, việc xâm phạm quyền
SHTT trong giai đoạn hiện nay được thực
hiện bằng nhiều phương thức, thủ đoạn mới
như áp dụng công nghệ cao, sử dụng các
thiết bị hiện đại để sản xuất hàng hoá làm
cho người tiêu dùng và cơ quan quản lý thị
trường khó phát hiện thật/giả. Các hành vi
vi phạm này ngày càng nguy hiểm hơn ở
tính chất vi phạm, có tổ chức chặt chẽ không
những trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam
mà còn mở rộng đối với tổ chức và cá nhân
nước ngoài. Nhóm tội phạm thuộc lĩnh vực
SHTT có đặc điểm rất phức tạp vì chủ thể
của tội phạm hầu hết là những người có điều
kiện kinh tế, trình độ chuyên môn, kỹ thuật,
tay nghề cao, am hiểu những lĩnh vực mình
đang quản lý, một số người còn có chức vụ,
quyền hạn nhất định. Bên cạnh đó, sự bùng
nổ của khoa học, công nghệ đã tạo nhiều
thiết bị, công cụ, phương tiện phạm tội ngày
càng tinh vi nên rất khó phát hiện. Các tội
xâm phạm SHTT đã gây ra hoặc đe dọa đến
thiệt hại nền kinh tế của cả nước cũng như
từng lĩnh vực, từng ngành, ảnh hưởng đến
tài sản, sức khoẻ và tính mạng con người,
tác động đến cả cộng đồng, triệt tiêu sức
sáng tạo và khiến giới đầu tư e ngại.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhu cầu thành lập tòa sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHU CẦU THÀNH LẬP TÒA SỞ HỮU TRÍ TUỆ Ở VIỆT NAM1
1 Bài viết có sử dụng kết quả nghiên cứu của Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Cơ sở lý luận và thực tiễn thành lập
Tòa sở hữu trí tuệ ở Việt Nam” của Viện Nghiên cứu Lập pháp do TS. Nguyễn Văn Luật làm Chủ nhiệm”.
Tóm tắt:
Tòa sở hữu trí tuệ là một trong những tòa chuyên trách được nhiều
quốc gia thành lập nhằm thụ lý và xét xử các tranh chấp về sở hữu
trí tuệ. Hiện nay, tranh chấp về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam ngày một
nhiều và phức tạp, thực tiễn này đặt ra yêu cầu phải thành lập tòa
án chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân nhằm đáp ứng yêu
cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho các cá nhân và tổ chức. Đây là
đòi hỏi khách quan trong quá trình cải cách tư pháp nói chung và
hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói riêng ở
Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Văn Luật*
* TS. Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội
Abstract
The court for intellectual property is a specialized one established
in several countries to deal with disputes on intellectual property.
Currently, disputes on intellectual property in Vietnam are more
and more complicated, this development requires an establishment
of a specialized court in the People's Court system for protection
of property rights. Intellectual property for individuals and entities.
This is an objective requirement in the process of judicial reform
in general and improvement of the legal mechanism to protect
intellectual property rights in Vietnam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: sở hữu trí tuệ, tòa sở hữu trí
tuệ; tranh chấp về sở hữu trí tuệ.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 26/04/2019
Biên tập : 02/06/2019
Duyệt bài : 05/06/2019
Article Infomation:
Keywords: intellectual property; court
for intellectual property; disputes on
intellectual property
Article History:
Received : 26 Apr. 2019
Edited : 02 Jun 2019
Approved : 05 Jun 2019
1. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
Ở Việt Nam, bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT)
là một lĩnh vực còn khá mới mẻ, song ý tưởng
về bảo hộ SHTT mà trước tiên là quyền tác giả
đã được ghi nhận ngay từ bản Hiến pháp đầu
tiên năm 1946 (Điều 10, 12, 13). Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thừa nhận
quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản của
công dân, quyền nghiên cứu khoa học, sáng
tác văn học, nghệ thuật và bảo đảm quyền tư
hữu tài sản cùng quyền lợi của trí thức. Năm
1986 đánh dấu một mốc mới trong hoạt động
bảo hộ SHTT nói chung và quyền tác giả
nói riêng: Chính phủ nước Cộng hòa XHCN
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 15(391) T8/2019
Việt Nam đã ban hành Nghị định 142/CP -
văn bản riêng biệt đầu tiên để điều chỉnh các
quan hệ xã hội về quyền tác giả. Từ đó đến
nay, có nhiều văn bản về bảo hộ quyền SHTT
tiếp tục được ban hành, thể hiện một bước
tiến đáng kể trong hoạt động lập pháp về lĩnh
vực bảo hộ SHTT.
Theo khoản 1 Điều 4 Luật SHTT năm
2005 (sửa đổi năm 2009), quyền SHTT là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản
trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên
quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp (SHCN) và quyền đối với giống cây
trồng, theo đó chủ thể của quyền SHTT gồm
cả cá nhân và pháp nhân. Ở Việt Nam, quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể pháp
luật (gồm cá nhân và pháp nhân) đều được
pháp luật bảo hộ, Tòa án nhân dân (TAND)
có chức năng và nhiệm vụ bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức và các nhân:
“TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân” (khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức TAND
năm 2014).
Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013
quy định: “Ở nước Cộng hòa XHCN, các
quyền con người, quyền công dân về chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến
pháp và pháp luật”. Theo đó, quyền SHTT
được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Cụ thể,
Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ trong
các Điều 40, 41, khoản 2 Điều 62: Mọi người
có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ,
sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi
ích từ các hoạt động đó (Điều 40); Mọi người
2 Điều 207. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời sau đây được áp dụng đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ,
nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó:
a) Thu giữ;
b) Kê biên;
c) Niêm phong; cấm thay đổi hiện trạng; cấm di chuyển;
d) Cấm chuyển dịch quyền sở hữu.
2. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác được áp dụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị
văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử
dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); Nhà nước
ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá
nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển
giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa
học và công nghệ; bảo đảm quyền nghiên cứu
khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền SHTT
(khoản 2 Điều 62).
Luật SHTT năm 2005 (sửa đổi năm 2009)
không có quy định riêng về cơ chế giải quyết
tranh chấp quyền SHTT. Điều 198 Luật này
quy định, khi có cơ sở để cho rằng tài sản trí
tuệ được bảo hộ đang bị xâm phạm bởi một tổ
chức/cá nhân nào đó, chủ sở hữu tài sản trí tuệ
có thể khởi kiện ra tòa án để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình, đây là biện pháp dân
sự. Theo đó, khi xảy ra tranh chấp về tài sản
trí tuệ, chủ sở hữu tài sản trí tuệ căn cứ theo
quy định pháp luật tố tụng dân sự để khởi kiện
ra tòa án để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
mình. Khi khởi kiện vụ án dân sự, chủ sở hữu
tài sản trí tuệ có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; xin
lỗi, cải chính công khai; thực hiện nghĩa vụ
dân sự; bồi thường thiệt hại; tiêu hủy hoặc
buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không
nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa,
nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử
dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng
hoá xâm phạm quyền SHTT với điều kiện
không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác
quyền của chủ thể sở hữu tài sản trí tuệ (Điều
202). Ngoài ra, khi khởi kiện hoặc trong quá
trình Tòa án thụ lý giải quyết tranh chấp, chủ
sở hữu tài sản trí tuệ có quyền yêu cầu Tòa
án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
một số trường hợp2.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 15(391) T8/2019
Theo khoản 2 Điều 30 và khoản 1 Điều 37
Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) năm 2015, khi
xảy ra tranh chấp trong quá trình khai thác và
sử dụng tài sản trí tuệ vì mục đích lợi nhuận
là tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc
thẩm quyền giải quyết sơ thẩm tại TAND cấp
tỉnh. Theo Luật Tổ chức TAND năm 2014,
TAND cấp tỉnh bao gồm: Tòa hình sự, Tòa
dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa
lao động, Tòa gia đình và người chưa thành
niên. Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường
vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên
trách khác theo đề nghị của Chánh án TAND
tối cao (Điểm b, khoản 1, Điều 38). Trong đó,
Tòa dân sự giải quyết các vụ việc dân sự; giải
quyết các vụ việc kinh doanh thương mại,
phá sản, lao động, hành chính trong trường
hợp tại Tòa án đó không tổ chức Tòa kinh
tế, Tòa lao động, Tòa hành chính; Tòa kinh
tế giải quyết các vụ việc kinh doanh thương
mại, phá sản (khoản 2, 3, Điều 3 Thông tư
01/2016/TT-CA3). Như vậy, những tranh
chấp về tài sản trí tuệ không liên quan đến
kinh doanh thương mại sẽ do Tòa dân sự giải
quyết (không có mục đích lợi nhuận), còn
những tranh chấp về tài sản trí tuệ liên quan
đến kinh doanh thương mại (có mục đích lợi
nhuận) do Tòa kinh tế giải quyết, trong đó,
tranh chấp về quyền tác giả, quyền liên quan
được giải quyết theo quy định của pháp luật
về TTDS hoặc trọng tài (khoản 3 Điều 49,
Nghị định 22/2018/NĐ-CP4).
Tuy nhiên, việc áp dụng trình tự như quy
định pháp luật TTDS trong giải quyết tranh
chấp quyền SHTT đã bộc lộ nhiều hạn chế
(đặc biệt là khi giải quyết các tranh chấp
liên quan đến đối tượng đặc thù như sáng
3 Thông tư 01/2016/TT-CA của TAND tối cao ngày 21/01/2016 Quy định việc tổ chức các tòa chuyên trách tại TAND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
4 Nghị định 22/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/02/2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
SHTT năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan.
chế, xác định hành vi cạnh tranh không lành
mạnh liên quan đến đối tượng SHTT được
bảo hộ), cơ chế kiện dân sự rườm rà, tốn kém
và ít hiệu quả, vì thế ngành tòa án cần phải
có cơ chế pháp lý riêng để giải quyết tranh
chấp quyền SHTT, qua đó bảo vệ quyền và
lợi hợp pháp của các chủ thể sở hữu tài sản
trí tuệ.
2. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp sở
hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
Theo số liệu thống kê của TAND tối
cao, việc giải quyết các vụ án tranh chấp về
quyền SHTT từ năm 2000 đến năm 2005
(giai đoạn trước khi có Luật SHTT) của toàn
ngành Tòa án như sau: thụ lý 93 vụ án, đã
giải quyết 61 vụ án, trong đó: đình chỉ, tạm
đình chỉ 16 vụ án; hòa giải thành 12 vụ án;
đưa ra xét xử 33 vụ án (bao gồm 11 vụ án
tranh chấp quyền tác giả và quyền liên quan,
22 vụ án tranh chấp về quyền SHCN). Kể từ
khi Luật SHTT có hiệu lực thi hành (từ ngày
01/7/2006), tình hình giải quyết các tranh
chấp về quyền SHTT tại Tòa án cũng không
có sự chuyển biến đáng kể, theo số liệu
thống kê của TAND tối cao từ 01/7/2006 cho
đến ngày 22/6/2009, toàn ngành Tòa án chỉ
thụ lý được 108 vụ án tranh chấp về quyền
SHTT (trong đó chiếm đa số là tranh chấp về
quyền tác giả với 90 vụ; tranh chấp về quyền
SHCN chiếm 10 vụ; tranh chấp về hợp đồng
sử dụng tác phẩm chiếm 5 vụ; tranh chấp
về hợp đồng chuyển giao công nghệ chiếm
3 vụ). Nếu chỉ tính riêng đối với Tòa phúc
thẩm TAND tối cao tại Hà Nội thì từ ngày
01/7/2006 đến nay, Tòa phúc thẩm TAND
tối cao tại Hà Nội mới chỉ thụ lý giải quyết
có 7 vụ án, nhưng thực chất chỉ là 5 vụ án,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 15(391) T8/2019
vì có 2 vụ án phải xét xử xử phúc thẩm lần
2. Nhìn tổng thế, số lượng các vụ được thụ
lý ở cả hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm
có xu hướng tăng dần, cụ thể, năm 2006 có
7 vụ, năm 2007 có 20 vụ, năm 2008 có 28
vụ, năm 2009 có 36 vụ5. Theo thống kê của
TAND tối cao từ tháng 7/2006 cho đến tháng
6/2012 các Tòa án chỉ thụ lý được 92 vụ án
tranh chấp về quyền tác giả. Số vụ việc còn
quá hạn chế này cho thấy, các chủ thể quyền
SHTT còn e ngại việc khởi kiện ra Tòa án
mà thay vào đó, họ chọn việc xử lý hành vi
xâm phạm bằng biện pháp hành chính. Thực
tế trong giai đoạn này xuất phát từ (i) tính
mất cân xứng của luật nội dung về quyền tác
giả và quyền SHCN, (ii) những bất cập của
pháp luật về tố tụng đối với việc giải quyết
các vụ tranh chấp về quyền SHTT, và (iii)
sự non kém về năng lực chuyên môn của các
cán bộ xét xử, hệ quả là Tòa án chưa thực
sự trở thành kênh giải quyết thuyết phục, ưa
chuộng đối với các tranh chấp về tác quyền6.
Năm 2008, lực lượng quản lý thị trường
đã thụ lý 2.268 vụ xâm phạm nhãn hiệu
và đã xử lý được 2.105 vụ7; năm 2009, Cơ
quan Quản lý thị trường phối hợp chặt chẽ
với các lực lượng chức năng như công an,
y tế... đã tập trung kiểm tra các cơ sở sản
xuất, chế biến, đóng gói, các đầu mối kinh
doanh, tiêu thụ hàng hóa quy mô lớn; đã
phát hiện nhiều vụ tại Hải Phòng, Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh. Tại thành phố Hồ
5 Viện Khoa học xét xử TAND tối cao, Chuyên đề khoa học xét xử: Pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp quyền
SHTT tại TAND, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010, tr. 47.
6 TS. Nguyễn Hợp Toàn - PGS, TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy - PGS.TS Trần Văn Nam, Thực trạng giải quyết tranh chấp
về quyền tác giả tại Việt Nam giai đoạn 2006–2012 và một số đề xuất tiếp tục hoàn thiện pháp luật và thực thi về SHTT,
doan-20062012-v-mot-so-de-xuat-tiep-tuc-hon-thien-php-luat-v-thuc-thi-ve-so-huu-triac/, 19/5/2013
7 Báo cáo tổng quan tình hình thực thi quyền SHTT, Cục SHTT, năm 2008.
8 Báo cáo tổng quan tình hình thực thi quyền SHTT, Cục SHTT, năm 2009.
9 Báo cáo tổng quan tình hình thực thi quyền SHTT, Cục SHTT, năm 2012.
10 Báo cáo Tổng kết Chương trình hành động phòng, chống xâm phạm quyền SHTT giai đoạn 2012-2015.
Chí Minh, lực lượng quản lý thị trường đã
xử lý 201 vụ xâm phạm nhãn hiệu với số
tiền phạt gần 2,7 tỷ đồng. Đồng Nai, Cà
Mau, Hải Dương cũng là những địa phương
có số vụ xâm phạm quyền SHTT bị xử lý
khá cao, chủ yếu liên quan đến nhãn hiệu
(tại Cà Mau, lực lượng quản lý thị trường
đã xử lý 186 vụ xâm phạm nhãn hiệu với số
tiền phạt trên 704 triệu đồng; tại Đồng Nai,
lực lượng quản lý thị trường đã thụ lý 106
vụ xâm phạm nhãn hiệu, xử lý 76 vụ với số
tiền phạt hơn 191 triệu đồng...)8; năm 2012,
lực lượng quản lý thị trường đã tiến hành
xử lý 9.556 vụ việc xâm phạm quyền SHTT,
trong đó có 8.999 vụ giả mạo nhãn hiệu, 67
vụ xâm phạm quyền nhãn hiệu, chỉ dẫn địa
lý, tên thương mại, kiểu dáng công nghiệp9;
trong cả giai đoạn 2012-2015, các lực lượng
chức năng của các bộ, ngành đã chủ trì và
phối hợp với các bộ, ngành liên quan tiến
hành thanh tra, kiểm tra và tiếp nhận 25.966
vụ việc có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT,
sản xuất, buôn bán hàng giả; đã xử lý vi
phạm hành chính 25.543 vụ việc, trong đó
cảnh cáo 68 vụ việc; phạt tiền 23.197 vụ
việc, tổng số tiền xử phạt vi phạm hành
chính gần 97 tỷ đồng; khởi tố 381 vụ với
553 bị can; xét xử 55 vụ (12 vụ án hình sự),
trong đó, Tòa án tiếp nhận giải quyết 177 vụ
việc: (i) xét xử: 55 (12 vụ án hình sự); (ii)
công nhận thỏa thuận: 16; (iii) chuyển:15;
(iv) đình chỉ: 91)10.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 15(391) T8/2019
Những số liệu nêu trên cho thấy, số lượng
các vụ tranh chấp về quyền SHTT ngày một
gia tăng về số lượng, tính chất ngày một
phức tạp thêm. Tuy nhiên, hiện nay chúng
ta chưa có Tòa chuyên trách về SHTT cũng
như không có Thẩm phán chuyên trách về
lĩnh vực này, việc đào tạo, tập huấn chuyên
môn về SHTT chưa đầy đủ và hiệu quả thấp;
vẫn còn có tình trạng người được tập huấn
không phải là người xét xử trực tiếp, hoặc
ngược lại Vì vậy, Việt Nam cần phải thành
lập Tòa chuyên trách về SHTT, tập trung các
Thẩm phán đào tạo về chuyên môn này để
xét xử những vụ án đó, từ đó đưa ra những
phán quyết chính xác, giải quyết được tận
gốc rễ các xâm phạm về SHTT.
3. Xu thế hội nhập quốc tế và khắc
phục kịp thời những bất cập trong xử
lý các tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ ở
Việt Nam
Việt Nam đã ký kết các hiệp định song
phương liên quan đến quyền tác giả như:
Hiệp định thiết lập quan hệ quyền tác giả
Việt Nam - Hoa Kỳ (năm 1997); Hiệp định
giữa Việt Nam và Thụy Sĩ về bảo hộ quyền
SHTT và hợp tác trong lĩnh vực SHTT (năm
1999); Hiệp định Thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ (năm 2000). Năm 2004, Việt Nam
đã nộp đơn xin gia nhập để trở thành thành
viên của Công ước Bơn (Bern) về bảo hộ
các tác phẩm văn học và nghệ thuật đã được
ký tại Bơn (Thụy Sĩ) năm 1886 và Chủ tịch
nước đã ký quyết định gia nhập Công ước
Rô-ma bảo hộ người biểu diễn, nhà sản
xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng được
thông qua tại Rô-ma (Italia) năm 1961. Theo
cam kết tại các Hiệp định song phương với
Hoa Kỳ, Thụy Sỹ và yêu cầu của WTO,
Việt Nam đã gia nhập Công ước Giơ-ne-
vơ, Công ước Brúc-xen và tuân thủ các
quy định của Hiệp định TRIPS (Hiệp định
về các khía cạnh liên quan đến thương mại
của quyền SHTT). Pháp luật Việt Nam cũng
đã ghi nhận thẩm quyền dân sự cho TAND
để giải quyết các tranh chấp về SHTT, bao
gồm: Quyền tác giả, quyền liên quan và
quyền SHCN, chuyển giao công nghệ giữa
cá nhân, tổ chức. Việc giải quyết loại tranh
chấp này dựa trên cơ sở nguyên tắc, trình tự,
thủ tục được quy định chung trong Bộ luật
TTDS. Năm 2005, Việt Nam cũng đã ban
hành Luật SHTT, tuy nhiên, vẫn còn nhiều
khó khăn trong việc xử lý vi phạm quyền
SHTT tại nước ta.
Tại Việt Nam, xử lý xâm phạm quyền
SHTT nói chung và xử lý xâm phạm quyền
sở hữu cá nhân nói riêng phụ thuộc vào chủ
trương, chính sách về SHTT ở từng giai
đoạn. Pháp luật về xử lý xâm phạm quyền
sở hữu cá nhân cũng có những dấu ấn riêng,
trong đó, xử lý xâm phạm quyền các đối
tượng của quyền sở hữu cá nhân được đặc
biệt nhấn mạnh và đã có bước phát triển
đáng kể. Đầu những năm 80 của thế kỷ XX,
Chính phủ đã ban hành một số nghị định về
bảo hộ SHCN như: Nghị định 31/CP ngày
23/01/1981 về bảo hộ sáng chế; Nghị định
197/HĐBT ngày 14/12/1982 về bảo hộ nhãn
hiệu hàng hóa; Nghị định số 85/HĐBT ngày
13/5/1988 về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp;
Nghị định số 200/HĐBT ngày 28/12/1988
về giải pháp hữu ích. Theo nội dung các nghị
định nêu trên, mọi hành vi xâm phạm độc
quyền của chủ văn bằng đều bị xử lý theo
pháp luật. Người xâm phạm phải chấm dứt
hành vi xâm phạm, bồi thường thiệt hại cho
chủ văn bằng và chịu hình thức xử phạt khác
tùy theo mức độ xâm phạm. Chủ văn bằng
bảo hộ khi phát hiện hành vi xâm phạm độc
quyền của mình, có quyền đề nghị cơ quan
có thẩm quyền, yêu cầu người xâm phạm
phải chấm dứt hành vi xâm phạm. Trong
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 15(391) T8/2019
trường hợp tự xét thấy mức độ xâm phạm
gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đề nghị của
mình đến cơ quan có trách nhiệm không
được giải quyết thỏa đáng, chủ văn bằng có
quyền khiếu nại lên TAND có thẩm quyền.
Đến năm 1989, để nâng cao tính pháp lý
của việc bảo hộ quyền sở hữu cá nhân, Hội
đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh Bảo
hộ quyền SHCN. Lần đầu tiên khái niệm
“SHCN” được chính thức sử dụng trong các
văn bản của Nhà nước. Trong đó thừa nhận
quyền SHCN là quyền tư hữu. Năm 1993,
Cục Sáng chế được đổi tên thành Cục SHCN
với chức năng, nhiệm vụ được bổ sung cho
phù hợp với giai đoạn phát triển mới về
SHCN, chuẩn bị đưa hoạt động SHCN đi
vào quỹ đạo của nền kinh tế thị trường. Sự
ra đời của Pháp lệnh đã tạo sự chuyển biến
sâu sắc về bảo hộ quyền sở hữu cá nhân. Kế
thừa các quy định của các văn bản trước đó,
các quy định trong Pháp lệnh đã thừa nhận
quyền tự bảo vệ của các chủ thể quyền sở
hữu cá nhân cũng như quyền yêu cầu các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi
xâm phạm quyền sở hữu cá nhân.
Để xử lý hành vi xâm phạm quyền sở
hữu cá nhân thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa án, ngày 22/7/1989, TAND tối cao đã
ban hành Thông tư số 03/NCLP, trong đó
đề cập đến việc hướng dẫn xử lý các hành
vi xâm phạm quyền sở hữu cá nhân. Ngày
28/10/1995, Quốc hội đã thông qua Bộ
luật Dân sự (BLDS) có hiệu lực từ ngày
01/01/1996, trong đó toàn bộ Chương II,
Phần thứ sáu đã quy định về bảo hộ quyền
sở hữu cá nhân. Đây là cơ sở pháp lý cao
nhất để việc bảo hộ quyền sở hữu cá nhân
được thực hiện, qua đó góp phần quan trọng
thúc đẩy phát triển sự sáng tạo không ngừng
trong lĩnh vực SHCN.
Nhằm đáp ứng quá trình hội nhập và thể
chế hóa các quy định về bảo hộ quyền sở
hữu cá nhân trong BLDS, chúng ta đã ban
hành một số văn bản: Nghị định số 63/CP
ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định
chi tiết về quyền sở hữu cá nhân; Nghị định
06/CP ngày 01/02/2001 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 63/CP; Nghị
định số 54/2000/NĐ-CP ngày 3/10/2000 về
bảo hộ quyền sở hữu cá nhân đối với bí mật
kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại
và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không
lành mạnh liên quan đến SHCN; Nghị định
số 42/2003/NĐ-CP ngày 02/5/2003 về bảo
hộ bố trí thiết kế mạch tích hợp. Các văn
bản này đã có tác dụng tích cực trong việc
chuyển hoá các quy định chung của BLDS
về SHCN.
Ngoài việc ban hành các văn bản pháp
luật nêu trên, Việt Nam đã tích cực tham gia
các điều ước quốc tế trong lĩnh vực SHCN
như: Công ước Paris 1883 về bảo hộ SHCN;
Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn
hiệu hàng hóa; Công ước Stockholm về Tổ
chức SHTT thế giới (WIPO), Hiệp ước hợp
tác sáng chế (PTC), Hiệp định về bảo hộ
SHTT với Liên bang Thụy Sỹ, Hiệp định
thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA)
Đặc biệt, khi quyền SHTT đã trở thành
yếu tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế,
xã hội của đất nước, đứng trước yêu cầu hội
nhập sâu, rộng, ngày 29/11/2005, Quốc hội
Việt Nam đã thông qua Luật SHTT (có hiệu
lực từ ngày 01/7/2005, được sửa đổi bổ sung
ngày 19/6/2009), trong đó vấn đề bảo vệ
quyền SHTT được đặc biệt quan tâm. Lần
đầu tiên thuật ngữ “bảo vệ quyền SHTT” đã
được sử dụng chính thức trong luật và có
hẳn một chương riêng (Chương XVII) quy
định xử lý xâm phạm quyền SHTT bằng
biện pháp dân sự.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 15(391) T8/2019
Hiện nay, các tranh chấp và vụ việc liên
quan đến SHTT và bảo vệ quyền SHTT
ngày một tăng. Trong xu thế phát triển hệ
thống pháp luật nhân quyền và hệ thống tư
pháp, việc bảo vệ quyền còn được xác lập và
thực hiện bằng con đường tố tụng tư pháp.
Luật SHTT hiện hành quy định nguyên tắc
xác định thiệt hại do xâm phạm SHTT và
căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do
xâm phạm quyền SHTT. Tuy nhiên, do tính
chất đặc thù của loại tài sản này nên nhiều
trường hợp nguyên đơn không chứng minh
được thiệt hại hoặc xác định không đầy đủ
về những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế.
Các căn cứ để xác định thiệt hại vật chất như
mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, cơ hội
kinh doanh, danh dự, nhân phẩm và những
tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả
của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học,
v.v.. trên thực tế rất khó để xác định một
cách chính xác, đầy đủ. Hơn nữa, việc xác
định chi phí hợp lý để thuê luật sư cũng khó
khăn, vì chỉ có Luật SHTT hiện hành mới có
quy định bên có hành vi vi phạm phải thanh
toán cho chủ thể quyền SHTT khoản chi
phí thuê luật sư trong các vụ án tranh chấp
về quyền SHTT, còn trong các vụ án khác
không phải chịu chi phí và như thế nào được
coi là chi phí hợp lý thì rất khó xác định. Do
vậy, khi giải quyết vấn đề này, Tòa án đã gặp
rất nhiều khó khăn trong việc xác định thiệt
hại để có được phán quyết chính xác, đúng
pháp luật, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho
các bên đương sự.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc các
vụ án về SHTT ít được giải quyết tại Tòa
11 Mai Thoa, Cần thiết thành lập Tòa chuyên trách về SHTT,
thanh-lap-toa-chuyen-trach-ve-so-huu-tri-tue-179002.html, ngày 16/10/2016.
án, trong đó có nguyên nhân thời gian xử
lý các vụ việc quá lâu; thủ tục giấy tờ khởi
kiện phức tạp, đặc biệt trong trường hợp bên
khởi kiện là doanh nghiệp nước ngoài; các
biện pháp ngăn chặn ngay lập tức hành vi
xâm phạm theo biện pháp dân sự rất khó
áp dụng và ít hiệu quả, đặc biệt, năng lực
chuyên môn về SHTT của Thẩm phán còn
chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Một khó
khăn nữa là xác định thiệt hại do hành vi
xâm phạm quyền SHTT gây ra và các căn
cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm
phạm quyền SHTT11.
Muốn thực hiện tốt được theo phương
thức này cần thiết phải xây dựng và hoàn
thiện hệ thống Tòa án để bảo vệ quyền. Với
lý do như vậy, việc thành lập Tòa SHTT ở
Việt Nam sẽ đáp ứng kịp thời yêu cầu khách
quan này.
4. Yêu cầu phát triển đất nước nhanh,
bền vững, tận dụng thành công cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 cho phát triển kinh
tế - xã hội
Cùng với quá trình toàn cầu hoá, hiện
nay, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã len
lỏi đến mọi khía cạnh đời sống xã hội. Bản
chất của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là
dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp
tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu
hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn
mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác
động lớn, nhất là công nghệ in 3D, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công
nghệ tự động hóa, người máy,... Cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 tạo điều kiện thuận
lợi cho việc tạo ra các “nhà máy thông minh”
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 15(391) T8/2019
hay “nhà máy số”. Trong các nhà máy thông
minh này, các hệ thống vật lý không gian
ảo sẽ giám sát các quá trình vật lý, tạo ra
một bản sao ảo của thế giới vật lý. Với IoT,
các hệ thống vật lý không gian ảo này tương
tác với nhau và với con người theo thời gian
thực, và thông qua IOS người dùng sẽ được
tham gia vào chuỗi giá trị qua việc sử dụng
các dịch vụ này.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được
đánh giá sẽ vượt ra khỏi quy mô công
xưởng, doanh nghiệp khi vạn vật được kết
nối bởi internet. Cụ thể, không những tất cả
máy móc thiết bị trong công xưởng được kết
nối với nhau thông qua Internet, rất nhiều
cảm biến cũng đồng thời được lắp đặt để thu
thập dữ liệu. Điều này cho thấy, trong bối
cảnh tác động cuộc cách mạng công nghiệp
4.0, nền kinh tế số dần dần được hình thành
ở Việt Nam, chính vì thế, các sáng chế, tài
sản trí tuệ dần được phổ biến trong nền kinh
tế số. Bên cạnh đó, việc xâm phạm quyền
SHTT trong giai đoạn hiện nay được thực
hiện bằng nhiều phương thức, thủ đoạn mới
như áp dụng công nghệ cao, sử dụng các
thiết bị hiện đại để sản xuất hàng hoá làm
cho người tiêu dùng và cơ quan quản lý thị
trường khó phát hiện thật/giả. Các hành vi
vi phạm này ngày càng nguy hiểm hơn ở
tính chất vi phạm, có tổ chức chặt chẽ không
những trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam
mà còn mở rộng đối với tổ chức và cá nhân
nước ngoài. Nhóm tội phạm thuộc lĩnh vực
SHTT có đặc điểm rất phức tạp vì chủ thể
của tội phạm hầu hết là những người có điều
kiện kinh tế, trình độ chuyên môn, kỹ thuật,
tay nghề cao, am hiểu những lĩnh vực mình
12 Phương Loan, Có nên lập Tòa SHTT?, ngày 4/6/2012.
đang quản lý, một số người còn có chức vụ,
quyền hạn nhất định. Bên cạnh đó, sự bùng
nổ của khoa học, công nghệ đã tạo nhiều
thiết bị, công cụ, phương tiện phạm tội ngày
càng tinh vi nên rất khó phát hiện. Các tội
xâm phạm SHTT đã gây ra hoặc đe dọa đến
thiệt hại nền kinh tế của cả nước cũng như
từng lĩnh vực, từng ngành, ảnh hưởng đến
tài sản, sức khoẻ và tính mạng con người,
tác động đến cả cộng đồng, triệt tiêu sức
sáng tạo và khiến giới đầu tư e ngại.
Tòa chuyên trách không chỉ giải quyết
tranh chấp về quyền sáng chế, nhãn hiệu,
bản quyền thông thường mà còn phải mở
rộng hơn với tranh chấp về quảng cáo, tiếp
thị, tranh chấp tên miền trong lĩnh vực kỹ
thuật số, việc ăn cắp bản quyền trên mạng
Song song đó phải bổ sung quy định liên
quan. “Việc này rất quan trọng để giúp các
tác giả bảo vệ quyền đối với tác phẩm của
mình trong kỷ nguyên công nghệ số”12.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu
rộng, tài sản SHTT ngày một đa dạng và
phong phú, đặc biệt trong kỷ nguyên công
nghiệp 4.0, Việt Nam cần phải tiếp tục hoàn
thiện thể chế và thiết chế pháp luật nhằm
bảo hộ quyền SHTT ngày một hiệu quả hơn,
đặc biệt thành lập Tòa SHTT ở cấp tỉnh. Đây
là tòa chuyên trách trong hệ thống TAND
cấp tỉnh nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu
giải quyết các tranh chấp về quyền SHTT
và nâng cao chất lượng giải quyết các tranh
chấp này, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân có quyền SHTT,
tạo dựng cơ sở pháp lý vững chắc cho nền
kinh tế tri thức ở Việt Nam phát triển
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 15(391) T8/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhu_cau_thanh_lap_toa_so_huu_tri_tue_o_viet_nam.pdf