Những biện pháp hỗ trợ chung dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

Kết luận: Thứ nhất, Luật Hỗ trợ DNNVV đã dành sự quan tâm đáng kể cho việc ghi nhận các biện pháp hỗ trợ chung dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bảy nhóm biện pháp hỗ trợ được trình bày trong Luật là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam cũng như kinh nghiệm lập pháp của nhiều nước trên thế giới. Thứ hai, các biện pháp hỗ trợ chung được ghi nhận trong Luật Hỗ trợ DNNVVmang tính chất nguyên tắc, chưa đảm bảo tính cụ thể, do đó các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa thể biết được mình được hưởng những lợi ích cụ thể gì và cần phải làm như thế nào để hưởng được các lợi ích đó. Tuy nhiên, cách quy định như vậy là phù hợp với vai trò, vị trí, chức năng, tính chất của đạo luật này (đây là luật chung, luật khung, luật cơ bản chứ không phải là luật chi tiết) về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời, cũng phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, đặc biệt là khả năng tài chính còn rất eo hẹp của Nhà nước ta hiện nay. Việc quy định cụ thể các biện pháp hỗ trợ chung cho các DNNVV trong Luật, trong điều kiện hiện nay là không thực thi, có thể gây ra nhiều khó khăn, lúng túng cho các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện luật.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 205 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những biện pháp hỗ trợ chung dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 27 NHỮNG BIỆN PHÁP HỖ TRỢ CHUNG DÀNH CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Trịnh Thị Hương1 Tóm tắt: Để bảo đảm điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) phát triển, Luật Hỗ trợ DNNVV được xây dựng theo hướng thiết lập 2 nhóm biện pháp hỗ trợ. Nhóm thứ nhất dành cho tất cả các DNNVV và nhóm thứ 2 chỉ dành riêng cho những doanh nghiệp DNNVV hoạt động trong những lĩnh vực đặc thù mà Nhà nước thấy cần phải khuyến khích phát triển. Tương ứng với hai nhóm biện pháp này là hai mục trong chương II của Luật. Trong chương này, xuất phát từ các yếu điểm mang tính cố hữu của DNNVV, Luật Hỗ trợ DNNVV dành riêng Mục 1, gồm 8 Điều (từ Điều 8 đến Điều 15) quy định về các biện pháp hỗ trợ chung cho tất cả các DNNVV. Đây là các biện pháp hỗ trợ thiết yếu đối với tất cả các DNNVV như hỗ trợ tiếp cận vốn từ các ngân hàng, thuế, thuê mặt bằng sản xuất trong các khu, cụm công nghiệp, đào tạo, thông tin, tư vấn. Bài viết này trình bày những biện pháp hỗ trợ chung đó. Từ khóa: Biện pháp hỗ trợ chung, Hỗ trợ về tín dụng, Hỗ trợ về mặt bằng, sản xuất, Hỗ trợ về đào tạo nguồn nhân lực, Hỗ trợ thông tin, tư vấn, pháp lý. Nhận bài: 01/8/2017; Hoàn thành biên tập:15/8/2017; Duyệt đăng: 05/9/2017 Abstract: To ensure good conditions for the development of SMEs, the Law on Supporting SMEs is developed under the way of creating 2 groups of supporting.The first group is given to all SMEs and the second one is given to only SMEs operating in specific fields which is seen by the state as enterprises should be encouraged for development. Corresponding to 2 these groups are 2 items in Chapter II of the Law. In which, from inherent weak points of SMEs, the law regulates method of supporting for all SMEs in Item 1, including 8 articles (from Article 8 to Article 15). Those are essential supporting methods with all SMEs such as supporting to get fund from banks, tax, renting place for production in industrial areas, cluster, training on information, consultancy. This article presents methods of general support of SMEs. Keywords: Method of general support, support of fund, support of place, production, support of training human resource, Support of information, consultancy, legal support. Date of receiving: 01/8/2017; Date of editing: 15/8/2017; Date of approval: 05/9/2017 1. Hỗ trợ tiếp cận tín dụng2 Trong nhiều năm qua, một trong những khó khăn lớn nhất đối với các DNNVV là khả năng tiếp cận các nguồn vốn phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Để phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình, DNNVV có thể sử dụng nguồn vốn tự có hoặc nguồn vốn bên ngoài, chủ yếu thông qua tiếp cận vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại (NHTM). Theo tính toán, việc sử dụng nguồn vốn bên ngoài rẻ hơn sử dụng nguồn vốn tự có, tuy nhiên trong thực tế tỷ lệ tiếp cận tín dụng của DNNVV từ NHTM còn khá khiêm tốn, chưa thực sự góp phần tháo gỡ khó khăn cố hữu này của DNNVV. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, hiện chỉ có khoảng hơn 30% các DNNVV tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng từ NHTM, gần 70% DNNVV còn lại phải tiếp tục sử dụng nguồn vốn tự có hoặc vay từ nguồn vốn khác với chi phí và rủi ro rất cao3. Theo báo cáo, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã từng bước điều hành chính sách tiền tệ để kiểm soát hoạt 1 Cục Phát triển doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2 Điều 8 và Điều 9 Luật Hỗ trợ doang nghiệp nhỏ và vừa 3 Thống kê của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCC1) 28 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP động tín dụng của các ngân hàng theo hướng tập trung phục vụ các nhu cầu vốn đối với các lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp và DNNVV, điều chỉnh lãi suất theo hướng giảm dần, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và tiền tệ, góp phần tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế như: điều chỉnh giảm mức trần lãi suất làm cơ sở để các tổ chức tín dụng (TCTD) giảm lãi suất cho vay; tiếp tục giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam đối với một số lĩnh vực ưu tiên, trong đó có DNNVV với mức lãi suất thấp hơn 1-2%/năm4 so với các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác, qua đó góp phần tháo gỡ khó khăn về chi phí vay vốn của DNNVV Đồng thời, NHNN cũng thực hiện nhiều giải pháp khác như triển khai các chương trình kết nối Ngân hàng-Doanh nghiệp trên tất cả 63 tỉnh, thành phố; linh hoạt xử lý các trường hợp cho vay bằng ngoại tệ nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh Tuy nhiên, kết quả cho vay đối với DNNVV vẫn còn khá khiêm tốn: tỷ lệ dư nợ cho vay đối với DNNVV trong giai đoạn 2011-2015 trung bình khoảng 25% tổng dư nợ cho vay toàn bộ nền kinh tế5. Các nội dung hỗ trợ DNNVV tiếp cận tín dụng đã được quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP nhưng mới chỉ dừng ở mức khuyến khích các tổ chức tài chính mở rộng tín dụng cho DNNVV; đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ phù hợp với DNNVV; hỗ trợ DNNVV nâng cao năng lực lập dự án, phương án kinh doanh nhằm đáp ứng yêu cầu của TCTD khi thẩm định hồ sơ vay vốn. Các chính sách này trên thực tế chưa đủ mạnh để thay đổi nhận thức cũng như “khẩu vị” của các ngân hàng chuyển từ cho vay doanh nghiệp lớn sang cho vay DNNVV. Việc các ngân hàng không muốn cho DNNVV vay phần lớn vì họ sợ rủi ro cao hơn khi cho doanh nghiệp lớn vay. Trong khi đó, theo thống kê, khu vực DNNVV (chiếm hơn 97%) sử dụng hơn 51% lực lượng lao động, tạo ra trên 40% GDP đồng thời là khối kinh tế có tỷ lệ nợ xấu ngân hàng rất thấp so với phía doanh nghiệp lớn nhưng chỉ sở hữu dưới 40% tổng nguồn vốn của khu vực công nghiệp. Đồng nghĩa với điều này là không đầy 3% số doanh nghiệp còn lại chiếm quy mô vốn lên tới 64-68%, cũng là khu vực chiếm tỷ lệ nợ xấu cao. Theo các khảo sát, thủ tục vay vốn phức tạp và thiếu tài sản đảm bảo là hai rào cản cơ bản khiến cho các DNNVV không vay được vốn. Về thủ tục, theo đánh giá chung cho thấy, quá trình xin vay vốn đòi hỏi nhiều văn bản giấy tờ; thủ tục công chứng gây mất thời gian và chi phí; các yêu cầu xây dựng phương án/dự án sản xuất, kinh doanh và chứng minh hiệu quả của phương án/dự án vượt quá khả năng của nhiều DNNVV. Về tài sản đảm bảo, các ngân hàng chủ yếu yêu cầu tài sản đảm bảo là bất động sản, trong khi đó, giá trị bất động sản của các DNNVV thường rất nhỏ, không đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng. Một số doanh nghiệp được giao đất sử dụng, nhưng chưa được cấp giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, do vậy, cũng không có tài sản đảm bảo để vay vốn ngân hàng. Một số doanh nghiệp đã sử dụng toàn bộ tài sản đảm bảo cho các khoản vay cũ nên không có tài sản đảm bảo để vay các khoản vay mới. Để tạo ra những điều kiện thuận lợi cho DNNVV tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng, Điều 8 Luật quy định: “1. Trong từng thời kỳ, Chính phủ quyết định chính sách hỗ trợ tổ chức tín dụng tăng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa; khuyến khích tổ chức tín dụng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp và biện pháp phù hợp khác; khuyến khích thành lập tổ chức tư vấn độc lập để xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp nhỏ và vừa. 2. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ xây dựng phương án sản 4 Năm 2014, các lĩnh vực nông nghiệp, xuất khẩu, DNNVV, công nghiệp hỗ trợ được vay lãi suất 7-8%, sản xuất kinh doanh thông thường 9-10% (ngắn hạn) và 10,5-12%/năm (trung dài hạn). 5 Tính đến 31/12/2015, tổng dư nợ cho vay DNNVV đạt khoảng 1.052 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 23% tổng dư nợ cho vay toàn bộ nền kinh tế. Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 29 xuất, kinh doanh khả thi, tăng cường năng lực quản trị, kỹ năng quản lý, minh bạch hóa tài chính của doanh nghiệp để nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng.” Quy định trên đã góp phần thúc đẩy sự thay đổi nhận thức của các ngân hàng về hoạt động tín dụng cho DNNVV. Việc khuyến khích các ngân hàng cho vay DNNVV thông qua một số chính sách hỗ trợ của Chính phủ dành cho ngân hàng cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Ví dụ, tại Đài Loan, Chính phủ đã thực hiện các biện pháp khuyến khích ngân hàng cung cấp tín dụng cho DNNVV như điều chỉnh lãi suất, quy định tỷ lệ cung cấp tín dụng cho DNNVV tăng lên hàng năm; Philippines cũng quy định tỷ lệ tín dụng nhất định dành cho DNNVV, v.v Ngoài ra, một trong những giải pháp để tăng cường tiếp cận nguồn vốn tại các ngân hàng thương mại là nâng cao hiệu quả của công tác bảo lãnh tín dụng. Tuy nhiên, đánh giá chung thời gian qua cho thấy, hoạt động bảo lãnh tín dụng thông qua hệ thống Ngân hàng phát triển Việt Nam và các quỹ bảo lãnh tín dụng (BLTD) địa phương còn hạn chế, chưa góp phần đáng kể trong việc hỗ trợ DNNVV tiếp cận tín dụng. Qua rà soát, đánh giá cho thấy kết quả hạn chế nằm ở một số nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, năng lực tài chính của Quỹ BLTD tại các địa phương còn hạn chế, vốn hoạt động bảo lãnh tín dụng thấp, một số Quỹ chưa đáp ứng đủ vốn điều lệ theo quy định của pháp luật; quy mô còn nhỏ, số dư trích lập dự phòng rủi ro của Quỹ thấp, chưa đảm bảo bù đắp chi phí khi có rủi ro xảy ra. Nguồn thu từ phí bảo lãnh thấp không đảm bảo để thực hiện nhiệm vụ trong khi rủi ro bảo lãnh cao nên hoạt động của Quỹ còn gặp nhiều khó khăn. Thứ hai, một số NHTM, doanh nghiệp và Quỹ BLTD chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm, vai trò của người cho vay, người sử dụng vốn vay và người bảo lãnh trong hoạt động cấp bảo lãnh tín dụng; công tác phối hợp giữa các bên còn hạn chế trong quá trình thẩm định hồ sơ, cấp bảo lãnh, giải ngân, kiểm soát sử dụng vốn vay Thứ ba, công tác điều hành, quản trị rủi ro cũng như năng lực thẩm định dự án, phương án sản xuất kinh doanh của các Quỹ BLTD của địa phương còn hạn chế, đội ngũ cán bộ của Quỹ thiếu kinh nghiệm đặc biệt liên quan đến nghiệp vụ ngân hàng và nghiệp vụ bảo lãnh, nhiều cán bộ còn làm kiêm nhiệm dẫn đến Quỹ chưa chủ động được công tác thẩm định dự án để bảo lãnh, quyết định bảo lãnh chủ yếu dựa vào ý kiến đề nghị và kết quả thẩm định của ngân hàng cho vay. Thứ tư, do khó khăn chung của nền kinh tế nên hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DNNVV không cao, thiếu bền vững; cơ chế BLTD tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận được vốn tín dụng, tuy nhiên còn khá nhiều doanh nghiệp chưa đáp ứng được các điều kiện để được bảo lãnh theo quy định; mặt khác khi đã được bảo lãnh vay vốn, một số doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, không có khả năng trả nợ ngân hàng. Thứ năm, ý thức tuân thủ các quy định của các bên liên quan trong hoạt động BLTD cho DNNVV còn chưa nghiêm, chưa chấp hành và tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Các DNNVV còn khó khăn về tài chính đã không trả được nợ cho ngân hàng, một số NHTM chưa quan tâm đúng mực, chưa tích cực đôn đốc thu nợ, dồn trách nhiệm và rủi ro cho tổ chức bảo lãnh. Thứ sáu, đối với hệ thống NHPT: các tồn tại phát sinh xuất phát từ việc chưa thống nhất về nguyên tắc phối hợp, điều kiện, trình tự, thủ tục, quy trình cấp bảo lãnh, mẫu chứng thư bảo lãnh, hợp đồng cấp bảo lãnhgiữa NHPT và các bên liên quan; sự phối hợp giữa NHPT và NHTM trong quá trình xử lý, thu hồi nợ còn chưa chặt chẽ, các bên chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong quá trình kiểm tra, giám sát khách hàng. Một số NHTM xem chứng thư bảo lãnh của NHPT là vô điều kiện, chưa thực sự nỗ lực trong công tác thu hồi nợ. NHPT không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay vì cho rằng, NHTM không thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm trong kiểm tra, giám sát cho vay, thu nợ HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 30 dẫn đến doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích, dẫn đến tranh chấp giữa các bên và phải đưa ra Tòa án để giải quyết. Bên nhận bảo lãnh là các tổ chức tín dụng luôn muốn áp dụng chính sách bảo lãnh vô điều kiện. Theo đó, khi DNNVV không trả được nợ cho TCTD thì bên bảo lãnh (Quỹ BLTN, NHPT) phải trả nợ thay cho doanh nghiệp. Do đó, việc tham gia xây dựng cơ chế chính sách dẫn đến một số vấn đề có ý kiến chưa đồng thuận. Với mục tiêu khắc phục những hạn chế,yếu kém nêu trên, Điều 9 Luật quy định về tổ chức và hoạt động của Quỹ BLTD như sau: “1. Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập. 2. Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện chức năng cấp bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên tài sản bảo đảm hoặc phương án sản xuất, kinh doanh khả thi hoặc xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp nhỏ và vừa. 3. Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết; không được từ chối bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đủ điều kiện được bảo lãnh”. 2. Hỗ trợ thuế, kế toán6 Ngoài các quy định hỗ trợ về tín dụng cho DNNVV vay vốn tại các TCTD, quỹ BLTD và Quỹ Phát triển DNNVV, Nghị định56/2009/NĐ- CP không đưa ra quy định hỗ trợ về thuế. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước gặp khó khăn và khủng hoảng kinh tế những năm qua (giai đoạn 2008-2013), Quốc hội và Chính phủ đã ban hành một số chính sách về miễn, giảm, giãn thuế cho các doanh nghiệp nói chung, DNNVV nói riêng. Cụ thể: - Năm 2008-20097: thực hiện giảm 30% và giãn số thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) phải nộp của một số quý trong năm 2008 và cả năm 2009 cho DNNVV, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất gia công, chế biến nông, lâm thủy sản, dệt may, gia giầy; Giảm 50% mức thuế suất thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với một số hàng hóa, dịch vụ đầu vào của sản xuất, vật liệu xây dựng Tổng số tiền thuế, lệ phí được giảm, giãn hơn 34.000 tỷ đồng, trong đó số tiền thuế TNDN được giảm, giãn là 21.630 tỷ đồng; thuế GTGT là 9.256 tỷ đồng; lệ phí trước bạ là 3.366 tỷ đồng. - Thực hiện giãn thời hạn nộp thuế TNDN của năm 20108 cho các DNNVV và đối với thu nhập từ hoạt động sản xuất, gia công dệt, may, da, giầy. Theo đó, tổng số doanh nghiệp được giãn thuế trong năm 2010 là 163.783 doanh nghiệp với số thuế được giãn nộp là 20.104 tỷ đồng; Năm 2011, thực hiện giảm 30% và giãn số thuế TNDN phải nộp cho DNNVV, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong một số lĩnh vực sản xuất; miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ một số hoạt động khác của cá nhân Số tiền thuế được miễn, giảm, giãn là 5.607 tỷ đồng. - Năm 20129: thực hiện giảm 30% và giãn số thuế TNDN cho các DNNVV, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong một số lĩnh vực sản xuất, gia công chế biến; Miễn thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và từ một số hoạt động kinh doanh của cá nhân. Các giải pháp miễn, giảm thuế này đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp năm 2012 là 2.468 tỷ đồng tiền thuế TNDN (trong đó có 197.719 DNNVV 6 Điều 10 Luật Hỗ trợ doang nghiệp nhỏ và vừa. 7 Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP của Chính phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội 8 Quyết định số 12/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc gia hạn nộp thuế TNDN nhằm tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy kinh tế năm 2010, Thông tư hướng dẫn số 39/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính 9 Nghị quyết số 08/2011/QH 13 của Quốc hội về ban hành bổ sung một số giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cá nhân Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 31 được giảm thuế với tổng số tiền là 1.827 tỷ đồng và 892 doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động được giảm thuế với tổng tiền là 640 tỷ đồng); Miễn 62,4 tỷ đồng tiền thuế TNDN và thuế GTGT (1,4 tỷ đồng từ thuế TNDN và 61 tỷ đồng tiền thuế giá trị gia tăng (GTGT) cho tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia ổn định sản xuất, kinh doanh và khoảng 1.388 tỷ đồng thuế TNCN trong 6 tháng cuối năm 2012 cho cá nhân có thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền công và từ kinh doanh. - Năm 2013, giãn thời hạn nộp thuế GTGT, thuế TNDN đối với DNNVV; miễn thuế khoán (thuế GTGT, thuế TNCN) và thuế TNDN đối với hộ, cá nhân và tổ chức kinh doanh nhà trọ, phòng trọ cho thuê đối với công nhân, người lao động, sinh viên, học sinh, sinh viên Tổng số tiền được gia hạn là 9.326 tỷ đồng (chưa bao gồm số tiền thuế được miễn, giảm). - Năm 2014, tiếp tục thực hiện việc miễn thuế khoán và thuế TNDN đối với hộ cá nhân và tổ chức kinh doanh nhà trọ, phòng trọ cho thuê đối với công nhân, người lao động, sinh viên, học sinh Về mức thuế suất: Trước ngày 01/01/2014, mức thuế suất phổ thông là 25%. Từ ngày 01/01/2014 mức thuế suất thuế TNDN hạ xuống còn 22%, riêng đối với các doanh nghiệp có tổng doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng được áp dụng thuế suất 20% từ 01/7/2013. Mức thuế suất phổ thông là 20% áp dụng đối với mọi doanh nghiệp kể từ ngày 01/01/2016. Việc quy định lộ trình giảm thuế suất như trên nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa nhằm tạo sự hấp dẫn cho doanh nghiệp để thu hút đầu tư. Có thể nói, những giải pháp về giảm, giãn thuế của Chính phủ tuy ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách trong ngắn hạn, nhưng đã phát huy tác dụng tích cực, góp phần giúp doanh nghiệp giảm mức đóng góp từ lợi nhuận chịu thuế, khuyến khích những doanh nghiệp đầu tư mới, đầu tư mở rộng, đầu tư vào những lĩnh vực, địa bàn có nhiều khó khăn Để khắc phục bất cập quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP và đáp ứng nhu cầu phát triển trong từng thời kỳ, Điều 10 Luật quy định hỗ trợ thuế suất thuế TNDN đối với DNNVV như sau: “1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được áp dụng có thời hạn mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường áp dụng cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp. 2. Doanh nghiệp siêu nhỏ được áp dụng các thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán đơn giản theo quy định của pháp luật về thuế, kế toán”. Việc giảm thuế TNDN theo quy mô doanh nghiệp của Nhà nước được xem như là một khoản đầu tư để nuôi dưỡng nguồn thu, tăng mức độ tích lũy của DNNVV, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, đảm bảo an sinh xã hội. Các quy định hỗ trợ thuế cho doanh nghiệp cũng phù hợp với thông lệ quốc tế tại nhiều quốc gia (Trung Quốc, Mỹ, EU, v.v). Để đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật, phù hợp với Luật Thuế TNDN, Luật chỉ quy định bổ sung đối tượng và các trường hợp được hưởng ưu đãi thuế TNDN và tham chiếu đến Luật Thuế TNDN. Mức thuế suất, thời hạn miễn, giảm thuế TNDN được quy định hoặc sửa đổi, bổ sung tại Luật Thuế TNDN. 3. Hỗ trợ mặt bằng sản xuất10 Đánh giá từ cộng đồng DNNVV cho thấy, khó khăn trong tiếp cận mặt bằng sản xuất, kinh doanh vẫn là một trong những khó khăn lớn nhất của DNNVV. Nội dung hỗ trợ mặt bằng sản xuất cho DNNVV tuy được quy định tại Điều 8 Nghị định 56/2009/NĐ-CP nhưng cũng chỉ dừng ở việc quy định mang tính “khẩu hiệu” và khuyến khích. Nhằm cải thiện tình trạng nêu trên, Điều 11 Luật Hỗ trợ DNNVV đưa ra quy định để UBND cấp tỉnh căn cứ vào điều kiện thực tế của địa phương bố trí quỹ đất phát triển các khu, cụm cho DNNVV; hỗ trợ giá thuê mặt bằng, tiền thuê 10 Điều 11 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 32 đất cho DNNVV tại các khu, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao. Cụ thể: “1. Căn cứ vào điều kiện quỹ đất thực tế tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định bố trí quỹ đất để hình thành, phát triển cụm công nghiệp; khu chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản, hải sản tập trung cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt. 2. Căn cứ vào điều kiện ngân sách địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định hỗ trợ giá thuê mặt bằng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp trên địa bàn. Thời gian hỗ trợ tối đa là 05 năm kể từ ngày ký hợp đồng thuê mặt bằng. 3. Việc hỗ trợ giá thuê mặt bằng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định tại khoản 2 Điều này được thực hiện thông qua việc bù giá cho nhà đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp để giảm giá cho thuê mặt bằng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Số tiền bù giá được trừ vào số tiền thuê đất hoặc được hỗ trợ từ ngân sách địa phương”. 4. Hỗ trợ cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung11 Trên cơ sở quy định việc Nhà nước khuyến khích thành lập vườn ươm doanh nghiệp tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP, hoạt động ươm tạo doanh nghiệp đã đạt được một số kết quả bước đầu đáng khích lệ về số lượng doanh nghiệp được ươm tạo. Hoạt động ươm tạo tập trung vào một số lĩnh vực công nghệ quan trọng có tác động đến nhiều ngành, lĩnh vực như: công nghệ thông tin - truyền thông; công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp, thuỷ sản, y tế; công nghệ tự động hoá, vi điện tử; công nghệ vật liệu mới; công nghệ chế biến, xử lý chất thải v.v Mặc dù hoạt động của các vườn ươm đã đạt được một số kết quả bước đầu đáng khích lệ, tuy nhiên còn khá nhiều vấn đề cần phải giải quyết từ phía cơ chế, chính sách của Nhà nước cũng như từ cách thức hoạt động của các vườn ươm để tạo ra sức hút thực sự đối với các doanh nghiệp. Ngoài các cơ sở ươm tạo doanh nghiệp, hiện nay nhiều DNNVV, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất có nhu cầu sử dụng các thiết bị liên quan đến đo lường, phân tích, giám định, kiểm định sản phẩm, hàng hóa, vật liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, để đầu tư vào những thiết bị này thường đòi hỏi nguồn vốn tương đối lớn, ngoài khả năng của DNNVV. Trong khi đó, tần suất sử dụng các thiết bị không thường xuyên, do đó việc đầu tư vào các thiết bị này thường không mang lại hiệu quả tối ưu cho các DNNVV. Để khắc phục hạn chế này, Chính phủ nhiều nước trên thế giới (Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v) thường đầu tư mua sắm những máy móc, thiết bị đáp ứng nhu cầu của DNNVV để cho DNNVV thuê sử dụng mỗi khi có nhu cầu. Ngoài ra, Chính phủ các nước cũng khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư cơ sở kỹ thuật để cho DNNVV thuê dùng chung nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng thiết bị. Nhằm tiếp tục triển khai tư tưởng khuyến khích thành lập các vườn ươm DNNVV quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP, đồng thời qua thực tiễn xây dựng và vận hành các vườn ươm doanh nghiệp, cơ sở ươm tạo thời gian qua và nhu cầu sử dụng chung các cơ sở kỹ thuật cho DNNVV thuê chung, Điều 12 Luật Hỗ trợ DNNVV quy định: “1. Nhà nước có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nghiên cứu, đổi mới công nghệ, tiếp nhận, cải tiến, hoàn thiện, làm chủ công nghệ thông qua các hoạt động nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, tìm kiếm, giải mã, chuyển giao công nghệ; xác lập, khai thác, quản lý, bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp. 2. Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập hoặc tham gia thành lập theo hình thức đối tác công tư cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung. Doanh nghiệp và tổ chức đầu tư, kinh doanh khác được thành lập cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung. 3. Cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung được hưởng các hỗ trợ sau đây: 11 Điều 12 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 33 a) Miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp theo quy định của pháp luật; b) Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp”. 5. Hỗ trợ mở rộng thị trường12 Điều 13 Luật Hỗ trợ DNNVV quy định các chính sách ưu đãi để khuyến khích các tổ chức kinh doanh chuỗi phân phối sản phẩm cho DNNVV, cụ thể: “1. Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập hoặc tham gia thành lập chuỗi phân phối sản phẩm theo hình thức đối tác công tư. Doanh nghiệp và tổ chức đầu tư, kinh doanh khác được thành lập chuỗi phân phối sản phẩm. 2. Doanh nghiệp, tổ chức đầu tư, kinh doanh chuỗi phân phối sản phẩm có ít nhất 80% số doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cung ứng cho chuỗi sản phẩm sản xuất tại Việt Nam được hưởng các hỗ trợ sau đây: a) Miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp theo quy định của pháp luật; b) Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp”. Nhằm tiếp tục tạo cơ hội cho DNNVV thực hiện hợp đồng hoặc đơn đặt hàng cung cấp các sản phẩm, dịch vụ công, khoản 3, Điều 13 Luật Hỗ trợ DNNVV quy định: Doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ được hưởng ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu. Thông lệ quốc tế cho thấy, nhiều quốc gia cũng có chính sách ưu đãi DNNVV tham gia vào mua sắm công. Chẳng hạn, Chính phủ Hàn Quốc quy định tăng tỷ lệ trong mua sắm trực tiếp đối với sản phẩm là nguyên vật liệu xây dựng, sản phẩm công nghệ cao của DNNVV. Hay tại Trung Quốc, Luật Xúc tiến DNNVV quy định khi mua sắm hàng hoá, dịch vụ, Chính phủ phải ưu tiên cho DNNVV. Chính phủ Mỹ quy định 35% số tiền liên bang cấp cho các hợp đồng được dành riêng cho các doanh nghiệp nhỏ xúc tiến xuất khẩu. 6. Hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý13 Điều 12 Nghị định 56/2009/NĐ-CP đưa ra quy định hỗ trợ về thông tin và tư vấn cho DNNVV. Các nội dung hỗ trợ được quy định chỉ mang tính khuyến khích. Thực tế triển khai Nghị định 56/2009/NĐ-CP cho thấy, phạm vi hỗ trợ tư vấn chưa rộng và nguồn lực thực hiện chưa được bố trí, đặc biệt là tư vấn sản xuất và quản lý mới chỉ dừng lại ở việc một số Bộ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học và Công nghệ,) triển khai ở một số địa phương dựa trên nguồn lực hạn chế và chưa được nhân rộng ra các địa phương khác. Về thông tin, tuy nhu cầu về thông tin lớn nhưng thông tin được cung cấp vẫn chưa đáp ứng được theo đúng nhu cầu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nhiều văn bản được ban hành cùng thời điểm nhưng không nhất quán, chồng chéo cũng gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Chất lượng thông tin mà doanh nghiệp có được chưa cao thể hiện ở cả tính đầy đủ, tính kịp thời và độ tin cậy. Đa số các trang thông tin cho doanh nghiệp chung chung, lạc hậu, thiếu các thông tin mang tính chất dự báo, cập nhật về thị trường và phục vụ thiết thực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho DNNVV thời gian qua được thực hiện trên cơ sở Nghị định số 66/2008/NĐ-CP của Chính Phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV rất cần mở rộng và tăng cường các hoạt động này để bảo vệ được chính doanh nghiệp mình trong các giao dịch thương mại xuyên biên giới. Nhằm khắc phục những bất cập nêu trên của Nghị định 56/2009/NĐ-CP và Nghị định số 66/2008/NĐ-CP, để tăng cường hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý cho DNNVV, Điều 14 Luật đã quy định như sau: 12 Điều 13 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. 13 Điều 14 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 34 “1. Các thông tin sau đây được công bố trên Cổng thông tin quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, trang thông tin điện tử của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp: a) Thông tin về kế hoạch, chương trình, dự án, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; b) Thông tin chỉ dẫn kinh doanh; thông tin về tín dụng, thị trường, sản phẩm, công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp; c) Các thông tin khác theo nhu cầu của doanh nghiệp phù hợp với quy định của pháp luật. 2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xây dựng mạng lưới tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi là mạng lưới tư vấn viên). Doanh nghiệp nhỏ và vừa được miễn, giảm chi phí tư vấn khi sử dụng dịch vụ tư vấn thuộc mạng lưới tư vấn viên. 3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan, tổ chức, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện các hoạt động sau đây để hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa: a) Xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu về pháp luật; b) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý để cung cấp thông tin, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, tư vấn pháp luật”. 7. Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực14 Căn cứ quy định tại Điều 13 Nghị định 56/2009NĐ-CP, hoạt động trợ giúp đào tạo nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp cho các DNNVV đã được đưa vào kế hoạch hàng năm của các Bộ, ngành và địa phương. Đây có thể coi là một trong những chương trình xã hội hoá đầu tiên của nhà nước trong việc hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cho các DNNVV (Nhà nước hỗ trợ tối đa 50% kinh phí). Theo đánh giá của các học viên, đặc biệt là các DNNVV ở vùng sâu, vùng xa thì tác động của các khóa đào tạo là rất tích cực. Đội ngũ cán bộ của các DNNVV được trang bị các kiến thức về quản trị doanh nghiệp một cách có hệ thống, giúp doanh nghiệp tự tin hơn trong kinh doanh và xây dựng chiến lược kinh doanh với tầm nhìn dài hạn. Nhằm tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được trong hoạt động hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho DNNVV trong thời gian qua, Điều 15 Luật Hỗ trợ DNNVV quy định: “1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được miễn, giảm chi phí tham gia các khóa đào tạo có sử dụng ngân sách nhà nước về khởi sự kinh doanh và quản trị doanh nghiệp, đào tạo nghề cho lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 2. Nhà nước tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo trực tuyến, chương trình đào tạo trên các phương tiện thông tin đại chúng khác cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; hỗ trợ hoạt động đào tạo trực tiếp tại doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực sản xuất, chế biến”. Kết luận: Thứ nhất, Luật Hỗ trợ DNNVV đã dành sự quan tâm đáng kể cho việc ghi nhận các biện pháp hỗ trợ chung dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bảy nhóm biện pháp hỗ trợ được trình bày trong Luật là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam cũng như kinh nghiệm lập pháp của nhiều nước trên thế giới. Thứ hai, các biện pháp hỗ trợ chung được ghi nhận trong Luật Hỗ trợ DNNVVmang tính chất nguyên tắc, chưa đảm bảo tính cụ thể, do đó các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa thể biết được mình được hưởng những lợi ích cụ thể gì và cần phải làm như thế nào để hưởng được các lợi ích đó. Tuy nhiên, cách quy định như vậy là phù hợp với vai trò, vị trí, chức năng, tính chất của đạo luật này (đây là luật chung, luật khung, luật cơ bản chứ không phải là luật chi tiết) về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời, cũng phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, đặc biệt là khả năng tài chính còn rất eo hẹp của Nhà nước ta hiện nay. Việc quy định cụ thể các biện pháp hỗ trợ chung cho các DNNVV trong Luật, trong điều kiện hiện nay là không thực thi, có thể gây ra nhiều khó khăn, lúng túng cho các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện luật./. 14 Điều 15 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_bien_phap_ho_tro_chung_danh_cho_doanh_nghiep_nho_va_vu.pdf
Tài liệu liên quan