Tóm lại có thể nói, Dù kê là một loại nghệ
thuật rất đặc biệt của người Khmer. Việc Dù kê ra
đời như một cuộc cách tân quan trọng, đánh dấu
sự chuyển biến về hình thức lẫn nội dung và cách
thức của người biểu diễn từ cái cũ – cái truyền
thống chuyển sang một cái mới mẻ hơn, sáng tỏ
hơn và đa dạng hơn. Tuy nhiên, một thực tế hiện
nay đó là sân khấu Dù kê hiện nay đang bị mai
một rất nhiều, mà phần lớn là do thiếu một lớp
diễn viên trẻ tài năng trong khi diễn viên gạo cuội
lùi dần (bằng chứng là các đoàn Dù kê ít dần,
không còn nhiều như lúc trước), nội dung vở diễn
Dù kê không đổi mới và sự quan tâm không sâu
sắc của chính quyền địa phương với Dù kê, đã vô
tình làm nó bị mai một đi. Do đó, một trong những
nhiệm vụ của chúng ta (nhất là những người làm
bên Dù kê) là – làm thế nào để vực dậy nền sân
khấu Dù kê vốn sắp suy tàn và biến mất này?
Theo chúng tôi, tạm thời sẽ có ba giải pháp: thực
hiện đãi ngộ thỏa đáng với nghệ sĩ Dù kê; đầu tư
thỏa đáng cho các đoàn để họ còn có đất để diễn;
thực hiện phối hợp cơ quan chức năng chuyên
ngành văn hóa với chính quyền địa phương để
đề ra biện pháp bảo vệ nó. Tuy nhiên, như thế
cũng chưa hẳn là đủ. Rồi đây sẽ còn có thêm, có
nhiều hơn nữa những biện pháp để cứu vãn một
nền nghệ thuật sân khấu Khmer dần mai một này;
để đưa văn hóa Việt Nam trở thành nền văn hóa
phong phú, đậm bản sắc dân tộc Việt Nam.
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 512 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những đặc điểm của nghệ thuật Dù kê Khmer Nam Bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014170 Soá 13, thaùng 3/2014 171
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NGHỆ THUẬT DÙ KÊ KHMER NAM BỘ
Thái Nguyễn Đức Minh Quân1
Tóm tắt:
Người Khmer Nam Bộ từ lâu đời đã có một kho tàng văn hóa vô cùng phong phú và độc đáo. Đặc
biệt về nghệ thuật sân khấu, người Khmer có đóng góp rất quan trọng trong kho tàng văn hóa – nghệ
thuật Khmer Nam Bộ, đó là đã khai sinh ra hai loại hình nghệ thuật sân khấu là Rô băm và Dù kê (hay
Yu kê). Bài báo đề cập về lịch sử hình thành và phát triển, những đặc điểm của nghệ thuật sân khấu Dù
kê trong văn hóa Khmer Nam Bộ Việt Nam.
Từ khóa: Khmer, Dù kê, Nam Bộ, nghệ sĩ, Ream kê
Abstracts:
The Khmer of Southern Vietnam from long had a cultural treasure extremely rich and unique.
Especially in theater arts, Khmer important contribution in cultural treasure - South Khmer art,
which they gave birth to the two art forms theater is the hash Ro-bam and Du-ke (of Yu ke). In the
framework paper for the Journal of Yu ke Khmer, the article will discuss the history and development,
the characteristics of theater arts Du ke in Khmer culture of Southern in Vietnam.
Key words: Khmer, Du ke, Southern of Vietnam, artists, Ream Ke
1 Khoa Sư phạm Khoa học Xã hội, Trường Đại học Sài Gòn
DẪN NHẬP
Người Khmer Nam Bộ từ lâu đời đã có một
kho tàng văn hóa vô cùng phong phú và độc đáo.
Đặc biệt, về nghệ thuật sân khấu, người Khmer có
đóng góp rất quan trọng trong kho tàng văn hóa –
nghệ thuật Khmer Nam Bộ, đó là họ đã khai sinh
ra hai loại hình nghệ thuật sân khấu là Rô băm và
Dù kê (hay Yu kê). Trong khuôn khổ bài báo, tác
giả sẽ đề cập về lịch sử hình thành và phát triển,
những đặc điểm của nghệ thuật sân khấu Dù kê
trong văn hóa Khmer Nam Bộ Việt Nam.
1. Khái lược về lịch sử hình thành, phát triển
của nghệ thuật Dù kê
Dù kê (còn có tên khác: Dì kê (Yikê), Atrác-
ty-bay (Dì kê có thuyết minh trích tuồng), Lăm
Rom Rương (Dì kê hát múa truyện) là một loại
hình nghệ thuật sân khấu rất đặc trưng của người
Khmer Nam Bộ từ lâu đời. Theo nhiều tài liệu
ghi lại, loại hình nghệ thuật này do ông Thạch
Sua là sư cả chùa Ksach Kandan sáng lập ở tỉnh
Trà Vinh2.
2 Có khá nhiều ý kiến khác nhau về người sáng lập và nơi khai sinh
của nghệ thuật Dù kê Khmer Nam Bộ: Một số nghệ sĩ ở Sóc Trăng
cho rằng, người sáng lập là Lý Con. Số khác lại cho rằng do một đoàn
hát có tên “Kru-cưu” ở Trà Vinh. Thế nhưng, được số đông đồng tình
là do nghệ nhân Thạch Sua lập ra ở Trà Vinh vào thập niên 20 của
thế kỷ XX
Ra đời trong bổi cảnh cuộc khai thác thuộc
địa lần II của Pháp ở Việt Nam, sự hưng thịnh của
nhiều loại hình sân khấu lớn ở Nam Bộ nên Dù kê
có điều kiện tiếp thu và phát triển. Về nguồn gốc,
từ “Dù kê” có gốc là từ “À Kê” (thằng Kê). Do
tiếng tăm vang dội nên nhiều người Kinh đến xem
rần rần và họ gọi là “Vũ Kê” (múa của thằng Kê).
Do cách phát âm gần giống của người Kinh (chữ
“V” và “D”), họ đã đọc trại “Vũ kê” thành từ “Dũ
kê”. Qua thời gian, từ “Dũ kê” trở thành “Dù kê”
(tiếng Khmer viết là Dur-Kêrti)3. Tên gọi dù trong
tiếng Khmer có nghĩa là gom góp, vớt vát, sửa đổi;
còn kê nghĩa là kế thừa, sợi dây nối dài4.
Ban đầu khi mới thành lập, sân khấu Dù kê
còn được gọi là Sân khấu giàn bầu (Lo-khôn Trơn
Khlôk). Các vở diễn đầu tiên của Dù kê thường lấy
truyện tích Ấn Độ như Ream kê, Chia Đok (tích
Phật). Về sau, các nghệ sĩ Khmer liên tục soạn
thảo và đã trình làng nhiều vở diễn mới: “Satra
Rương” khot Bondam Xây; Túp Xăng Wa thu
3 Sang Sết. 2013. “Nghệ thuật sân khấu Dù kê là di sản văn
hóa”. Kỷ yếu Hội thảo Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer
Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc. Trường Đại học Trà Vinh
xuất bản nội bộ. tr.13 – 14.
4 Thạch Ba Xuyên . 2013. “Từ múa Rô-băm đến diễn xướng
Dù kê của người Khmer Nam Bộ”. Kỷ yếu Hội thảo Nghệ
thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân
tộc. Trường Đại học Trà Vinh xuất bản nội bộ. tr. 306
hút số đông khán giả xem và ủng hộ nhiệt tình. Lối
diễn ban đầu của Dù kê là Àpei (hay À pêk) và diễn
viên toàn là nam (vai nữ cũng do nam đóng giả).
Đến những năm 30, do tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế và cao trào Xô Viết - Nghệ
Tĩnh đang diễn ra ở Bắc Trung Bộ, các đoàn nghệ
thuật Dù kê đã di chuyển sang Campuchia vì
cho rằng vùng này khá yên bình, có thể trú chân
được5. Người dân xứ Chùa Tháp vì yêu mến loại
hình nghệ thuật mới này nên họ đã đặt tên rất gần
gũi, thân quen là Lo-khon Bassac (kịch hát miền
sông Hậu). Vào thời gian này (1930 – 1970), đã
có 16 đoàn Dù kê6 hoạt động rải rác trên hai tỉnh
Trà Vinh và Sóc Trăng. Các đoàn hát mạnh nhất
và có ảnh hưởng nhất là gánh Tự Lập Ban của Xã
Kọl, Tự Lập Thành của Tà Tia (em trai Xã Kọl) và
Nhật Nguyệt Quang của ông Sơn Kưu (tách khỏi
gánh Tự Lập Thành). Các đoàn hát này đã làm việc
không biết mệt mỏi và cho ra đời nhiều tác phẩm
có chất lượng và một dàn diễn viên diễn xuất rất
tuyệt vời.
Đến thời kháng Mỹ, nghệ thuật sân khấu Dù kê
vẫn phát triển; mạnh nhất ở vùng phía Nam sông
Hậu. Tại đây, đoàn nghệ thuật Khmer Ánh Bình
Minh được thành lập (tháng 4/1963, Trà Vinh) và
hoạt động mạnh mẽ, cổ vũ nhân dân miền Nam
5 Thời đó, Campuchia bị Pháp thống trị từ lâu. Khi các đoàn
nghệ thuật Dù kê Khmer di chuyển sang đây, người Pháp
đã đàn áp đẫm máu cuộc khởi nghĩa Preivieng - Congpong
Ch’nang (1925) nên Campuchia khá yên bình nên các đoàn
Dù kê Khmer qua là một điều tất yếu.
6 16 đoàn Dù kê là:
- Trà Vinh là đoàn Tự Lập Ban của Xã Kọl (1919 - 1944, xã
An Ninh, huyện Mỹ Tú), Tự Lập Ban của bà Lý Thị Sô Phi
(1946 - 1972), con Xã Kọl); đoàn Tổ Lập Thành của Tà Thại
(1934 - 1943), Tổ Lập Thành của Xã Tỷ (1934 - 1945, Vũng
Thơm), đoàn Ánh Sáng cùa Tà Kươn (1946 - 1968, xã Đại
Tâm, huyện Mỹ Xuyên).
- Sóc Trăng: đoàn Bà Bầu (1926, xã Nguyệt Hóa), Xã
Nhượng (1929, Tri Tân), Quản Sách (1930, xã Lương Hòa),
Tà Chuôl (xã Tập Ngãi), Tà Tưng – Tà Mục (xã Long Đức),
Tà Yên (huyện Càng Long), Tự Lập Thành của Tà Tia (xã Lưu
Nghiệp Anh, huyện Trà Cú), Võ Lập Thành (do 2 gánh Tự Lập
Thành – Tà Yên sát nhập), Hoa Long Thành của Thạch Hoa
(1934), Nhật Nguyệt Quang của Sơn Kưu – Đại An (1930 –
1975, huyện Trà Cú), Nhật Nguyệt Thành của Thạch Vông
– Thạch Tu Quang (1952 – 1953).
Xem trong Sơn Lương (2012), Tìm hiểu nghệ thuật sân
khấu Dù kê Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn Sóc Trăng,
Nxb Hội Văn hóa nghệ thuật Sóc Trăng; tr. 100, 130 và 133;
Huỳnh Ngọc Trảng (1987), Người Khmer Cửu Long, Sở Văn
hóa Thông tin Cửu Long xuất bản; tr. 181 – 184.
cùng với Lào, Campuchia đánh thắng quân Mỹ
xâm lược. Sau năm 1975, được sự quan tâm của
chính quyền và nhân dân các địa phương mà nghệ
thuật Dù kê đã và đang tồn tại, trở thành một món
ăn tinh thần bổ ích cho người Khmer và các dân
tộc khác ở Nam Bộ hiện nay.
2. Những đặc điểm của nghệ thuật Dù kê Khmer
Nam Bộ
Đặc điểm thứ nhất, Dù kê ra đời muộn hơn so
với các loại hình nghệ thuật khác (Cải lương của
người Kinh, hát Tiều của Trung Hoa). Sở dĩ như
thế vì loại hình nghệ thuật của người Khmer trước
đó là Rô băm bị lạc hậu và lỗi thời, không theo
kịp xu hướng thời đại mới. Bên cạnh đó, sự xuất
hiện của các loại hình sân khấu của người Kinh
(Chèo, Tuồng, Cải lương), người Hoa (hát Tiều,
hát Quảng) và sân khấu của người Pháp với một
sự phong phú về nội dung vở diễn, diễn viên đã
thổi một luồng sinh khí mới cho nghệ thuật sân
khấu của người Khmer Nam Bộ. Trước tình thế
đó, để theo kịp với xu hướng thời đại, những nghệ
sĩ Khmer có tâm huyết với sân khấu đã sáng tạo ra
một loại hình sân khấu Khmer mới – đó là nghệ
thuật sân khấu Dù kê.
Vừa ra đời, nghệ thuật sân khấu Dù kê nhanh
chóng phát triển và dần tạo được chỗ đứng trong
lòng khán giả. Các nghệ sĩ Dù kê khi đó đã kế thừa
nền nghệ thuật sân khấu Khmer trước đó (nghệ
thuật Rô băm), đồng thời tiếp thu một cách có chọn
lọc và sáng tạo những thành tựu của nghệ thuật sân
khấu của người Kinh, Hoa, phương Tây để từ đó
cho ra đời những vở diễn Dù kê hay, có chất lượng
và một dàn diễn viên Dù kê có tài, có tâm huyết
với nghề. Họ đã làm việc hăng say, không biết mệt
mỏi và đã tạo ra những vở diễn Dù kê thành công,
nhận được sự hướng ứng nhiệt tình của đông đảo
người xem.
Đặc điểm thứ hai, nội dung các vở diễn Dù
kê được thay đổi cho phù hợp với thị hiếu quần
chúng và làm cho nghệ thuật Dù kê phát triển
mạnh hơn. Lúc đầu, do Dù kê ra đời một cách vội
vã để cứu vãn nghệ thuật sân khấu cũ sắp tàn (Rô
băm), chống lại những trào lưu sân khấu ngoại lai
của người Kinh, người Hoa nên Dù kê chưa có vở
diễn cụ thể. Để hợp thức hóa và khẳng định sự tồn
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014170 Soá 13, thaùng 3/2014 171
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NGHỆ THUẬT DÙ KÊ KHMER NAM BỘ
Thái Nguyễn Đức Minh Quân1
Tóm tắt:
Người Khmer Nam Bộ từ lâu đời đã có một kho tàng văn hóa vô cùng phong phú và độc đáo. Đặc
biệt về nghệ thuật sân khấu, người Khmer có đóng góp rất quan trọng trong kho tàng văn hóa – nghệ
thuật Khmer Nam Bộ, đó là đã khai sinh ra hai loại hình nghệ thuật sân khấu là Rô băm và Dù kê (hay
Yu kê). Bài báo đề cập về lịch sử hình thành và phát triển, những đặc điểm của nghệ thuật sân khấu Dù
kê trong văn hóa Khmer Nam Bộ Việt Nam.
Từ khóa: Khmer, Dù kê, Nam Bộ, nghệ sĩ, Ream kê
Abstracts:
The Khmer of Southern Vietnam from long had a cultural treasure extremely rich and unique.
Especially in theater arts, Khmer important contribution in cultural treasure - South Khmer art,
which they gave birth to the two art forms theater is the hash Ro-bam and Du-ke (of Yu ke). In the
framework paper for the Journal of Yu ke Khmer, the article will discuss the history and development,
the characteristics of theater arts Du ke in Khmer culture of Southern in Vietnam.
Key words: Khmer, Du ke, Southern of Vietnam, artists, Ream Ke
1 Khoa Sư phạm Khoa học Xã hội, Trường Đại học Sài Gòn
DẪN NHẬP
Người Khmer Nam Bộ từ lâu đời đã có một
kho tàng văn hóa vô cùng phong phú và độc đáo.
Đặc biệt, về nghệ thuật sân khấu, người Khmer có
đóng góp rất quan trọng trong kho tàng văn hóa –
nghệ thuật Khmer Nam Bộ, đó là họ đã khai sinh
ra hai loại hình nghệ thuật sân khấu là Rô băm và
Dù kê (hay Yu kê). Trong khuôn khổ bài báo, tác
giả sẽ đề cập về lịch sử hình thành và phát triển,
những đặc điểm của nghệ thuật sân khấu Dù kê
trong văn hóa Khmer Nam Bộ Việt Nam.
1. Khái lược về lịch sử hình thành, phát triển
của nghệ thuật Dù kê
Dù kê (còn có tên khác: Dì kê (Yikê), Atrác-
ty-bay (Dì kê có thuyết minh trích tuồng), Lăm
Rom Rương (Dì kê hát múa truyện) là một loại
hình nghệ thuật sân khấu rất đặc trưng của người
Khmer Nam Bộ từ lâu đời. Theo nhiều tài liệu
ghi lại, loại hình nghệ thuật này do ông Thạch
Sua là sư cả chùa Ksach Kandan sáng lập ở tỉnh
Trà Vinh2.
2 Có khá nhiều ý kiến khác nhau về người sáng lập và nơi khai sinh
của nghệ thuật Dù kê Khmer Nam Bộ: Một số nghệ sĩ ở Sóc Trăng
cho rằng, người sáng lập là Lý Con. Số khác lại cho rằng do một đoàn
hát có tên “Kru-cưu” ở Trà Vinh. Thế nhưng, được số đông đồng tình
là do nghệ nhân Thạch Sua lập ra ở Trà Vinh vào thập niên 20 của
thế kỷ XX
Ra đời trong bổi cảnh cuộc khai thác thuộc
địa lần II của Pháp ở Việt Nam, sự hưng thịnh của
nhiều loại hình sân khấu lớn ở Nam Bộ nên Dù kê
có điều kiện tiếp thu và phát triển. Về nguồn gốc,
từ “Dù kê” có gốc là từ “À Kê” (thằng Kê). Do
tiếng tăm vang dội nên nhiều người Kinh đến xem
rần rần và họ gọi là “Vũ Kê” (múa của thằng Kê).
Do cách phát âm gần giống của người Kinh (chữ
“V” và “D”), họ đã đọc trại “Vũ kê” thành từ “Dũ
kê”. Qua thời gian, từ “Dũ kê” trở thành “Dù kê”
(tiếng Khmer viết là Dur-Kêrti)3. Tên gọi dù trong
tiếng Khmer có nghĩa là gom góp, vớt vát, sửa đổi;
còn kê nghĩa là kế thừa, sợi dây nối dài4.
Ban đầu khi mới thành lập, sân khấu Dù kê
còn được gọi là Sân khấu giàn bầu (Lo-khôn Trơn
Khlôk). Các vở diễn đầu tiên của Dù kê thường lấy
truyện tích Ấn Độ như Ream kê, Chia Đok (tích
Phật). Về sau, các nghệ sĩ Khmer liên tục soạn
thảo và đã trình làng nhiều vở diễn mới: “Satra
Rương” khot Bondam Xây; Túp Xăng Wa thu
3 Sang Sết. 2013. “Nghệ thuật sân khấu Dù kê là di sản văn
hóa”. Kỷ yếu Hội thảo Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer
Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc. Trường Đại học Trà Vinh
xuất bản nội bộ. tr.13 – 14.
4 Thạch Ba Xuyên . 2013. “Từ múa Rô-băm đến diễn xướng
Dù kê của người Khmer Nam Bộ”. Kỷ yếu Hội thảo Nghệ
thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân
tộc. Trường Đại học Trà Vinh xuất bản nội bộ. tr. 306
hút số đông khán giả xem và ủng hộ nhiệt tình. Lối
diễn ban đầu của Dù kê là Àpei (hay À pêk) và diễn
viên toàn là nam (vai nữ cũng do nam đóng giả).
Đến những năm 30, do tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế và cao trào Xô Viết - Nghệ
Tĩnh đang diễn ra ở Bắc Trung Bộ, các đoàn nghệ
thuật Dù kê đã di chuyển sang Campuchia vì
cho rằng vùng này khá yên bình, có thể trú chân
được5. Người dân xứ Chùa Tháp vì yêu mến loại
hình nghệ thuật mới này nên họ đã đặt tên rất gần
gũi, thân quen là Lo-khon Bassac (kịch hát miền
sông Hậu). Vào thời gian này (1930 – 1970), đã
có 16 đoàn Dù kê6 hoạt động rải rác trên hai tỉnh
Trà Vinh và Sóc Trăng. Các đoàn hát mạnh nhất
và có ảnh hưởng nhất là gánh Tự Lập Ban của Xã
Kọl, Tự Lập Thành của Tà Tia (em trai Xã Kọl) và
Nhật Nguyệt Quang của ông Sơn Kưu (tách khỏi
gánh Tự Lập Thành). Các đoàn hát này đã làm việc
không biết mệt mỏi và cho ra đời nhiều tác phẩm
có chất lượng và một dàn diễn viên diễn xuất rất
tuyệt vời.
Đến thời kháng Mỹ, nghệ thuật sân khấu Dù kê
vẫn phát triển; mạnh nhất ở vùng phía Nam sông
Hậu. Tại đây, đoàn nghệ thuật Khmer Ánh Bình
Minh được thành lập (tháng 4/1963, Trà Vinh) và
hoạt động mạnh mẽ, cổ vũ nhân dân miền Nam
5 Thời đó, Campuchia bị Pháp thống trị từ lâu. Khi các đoàn
nghệ thuật Dù kê Khmer di chuyển sang đây, người Pháp
đã đàn áp đẫm máu cuộc khởi nghĩa Preivieng - Congpong
Ch’nang (1925) nên Campuchia khá yên bình nên các đoàn
Dù kê Khmer qua là một điều tất yếu.
6 16 đoàn Dù kê là:
- Trà Vinh là đoàn Tự Lập Ban của Xã Kọl (1919 - 1944, xã
An Ninh, huyện Mỹ Tú), Tự Lập Ban của bà Lý Thị Sô Phi
(1946 - 1972), con Xã Kọl); đoàn Tổ Lập Thành của Tà Thại
(1934 - 1943), Tổ Lập Thành của Xã Tỷ (1934 - 1945, Vũng
Thơm), đoàn Ánh Sáng cùa Tà Kươn (1946 - 1968, xã Đại
Tâm, huyện Mỹ Xuyên).
- Sóc Trăng: đoàn Bà Bầu (1926, xã Nguyệt Hóa), Xã
Nhượng (1929, Tri Tân), Quản Sách (1930, xã Lương Hòa),
Tà Chuôl (xã Tập Ngãi), Tà Tưng – Tà Mục (xã Long Đức),
Tà Yên (huyện Càng Long), Tự Lập Thành của Tà Tia (xã Lưu
Nghiệp Anh, huyện Trà Cú), Võ Lập Thành (do 2 gánh Tự Lập
Thành – Tà Yên sát nhập), Hoa Long Thành của Thạch Hoa
(1934), Nhật Nguyệt Quang của Sơn Kưu – Đại An (1930 –
1975, huyện Trà Cú), Nhật Nguyệt Thành của Thạch Vông
– Thạch Tu Quang (1952 – 1953).
Xem trong Sơn Lương (2012), Tìm hiểu nghệ thuật sân
khấu Dù kê Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn Sóc Trăng,
Nxb Hội Văn hóa nghệ thuật Sóc Trăng; tr. 100, 130 và 133;
Huỳnh Ngọc Trảng (1987), Người Khmer Cửu Long, Sở Văn
hóa Thông tin Cửu Long xuất bản; tr. 181 – 184.
cùng với Lào, Campuchia đánh thắng quân Mỹ
xâm lược. Sau năm 1975, được sự quan tâm của
chính quyền và nhân dân các địa phương mà nghệ
thuật Dù kê đã và đang tồn tại, trở thành một món
ăn tinh thần bổ ích cho người Khmer và các dân
tộc khác ở Nam Bộ hiện nay.
2. Những đặc điểm của nghệ thuật Dù kê Khmer
Nam Bộ
Đặc điểm thứ nhất, Dù kê ra đời muộn hơn so
với các loại hình nghệ thuật khác (Cải lương của
người Kinh, hát Tiều của Trung Hoa). Sở dĩ như
thế vì loại hình nghệ thuật của người Khmer trước
đó là Rô băm bị lạc hậu và lỗi thời, không theo
kịp xu hướng thời đại mới. Bên cạnh đó, sự xuất
hiện của các loại hình sân khấu của người Kinh
(Chèo, Tuồng, Cải lương), người Hoa (hát Tiều,
hát Quảng) và sân khấu của người Pháp với một
sự phong phú về nội dung vở diễn, diễn viên đã
thổi một luồng sinh khí mới cho nghệ thuật sân
khấu của người Khmer Nam Bộ. Trước tình thế
đó, để theo kịp với xu hướng thời đại, những nghệ
sĩ Khmer có tâm huyết với sân khấu đã sáng tạo ra
một loại hình sân khấu Khmer mới – đó là nghệ
thuật sân khấu Dù kê.
Vừa ra đời, nghệ thuật sân khấu Dù kê nhanh
chóng phát triển và dần tạo được chỗ đứng trong
lòng khán giả. Các nghệ sĩ Dù kê khi đó đã kế thừa
nền nghệ thuật sân khấu Khmer trước đó (nghệ
thuật Rô băm), đồng thời tiếp thu một cách có chọn
lọc và sáng tạo những thành tựu của nghệ thuật sân
khấu của người Kinh, Hoa, phương Tây để từ đó
cho ra đời những vở diễn Dù kê hay, có chất lượng
và một dàn diễn viên Dù kê có tài, có tâm huyết
với nghề. Họ đã làm việc hăng say, không biết mệt
mỏi và đã tạo ra những vở diễn Dù kê thành công,
nhận được sự hướng ứng nhiệt tình của đông đảo
người xem.
Đặc điểm thứ hai, nội dung các vở diễn Dù
kê được thay đổi cho phù hợp với thị hiếu quần
chúng và làm cho nghệ thuật Dù kê phát triển
mạnh hơn. Lúc đầu, do Dù kê ra đời một cách vội
vã để cứu vãn nghệ thuật sân khấu cũ sắp tàn (Rô
băm), chống lại những trào lưu sân khấu ngoại lai
của người Kinh, người Hoa nên Dù kê chưa có vở
diễn cụ thể. Để hợp thức hóa và khẳng định sự tồn
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014172 Soá 13, thaùng 3/2014 173
tại của loại hình nghệ thuật mới này, các nhà viết
kịch bản Dù kê đã nghĩ đến việc sử dụng lại vở
diễn Ream kê – vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của
trường ca Ramayana Ấn Độ cách đây hơn 20 thế
kỷ để biên soạn kịch và biểu diễn. Với lối diễn đặc
sắc, đậm chất sử thi Ấn Độ nên nghệ thuật Dù kê
đã nhanh chóng gặt hái những thành công lớn bước
đầu, thu hút nhiều người Khmer (và cả người Kinh,
Hoa, Chăm) đến xem và hưởng ứng nhiệt liệt.
Mãi đến những năm 30, khi các đoàn Dù kê
phải chạy sang Campuchia trong khi Việt Nam có
biến cố; thì nội dung của nó đã thay đổi khác xa
ban đầu. Dù kê đã tiếp thu các loại hình sân khấu
của người Kinh (Cải lương, Chèo), người Hoa
(hát Tiều, hát Quảng) và sân khấu phương Tây nên
đã sáng tạo ra nội dung vở kịch mới, mang đậm
tính dung hòa giữa các nền văn hóa Khmer – Kinh
- Hoa nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc
Khmer. Trong thời gian từ 1930 – 1975, các nghệ
sĩ Dù kê đã sáng tác và cho ra đời những vở kịch
Dù kê có giá trị như Nghĩa tình giông tố (Thạch
Voi), vở diễn Cởi áo cà sa, Nỗi lòng trong rào gai
của Kim Siêm, Giữ đền Vehia của Thạch Chân...
Ngoài các vở diễn lấy từ các điển tích Khmer, nghệ
sĩ Dù kê còn sử dụng điển tích truyện cổ Việt, Hoa
và sáng tác các vở kịch như: Thạch Sanh chém
Chằn, Chuyện chàng Tum nàng Tiêu. Chủ đề chính
trong những vở kịch đó chính là sự ca ngợi lòng
hướng thiện của những con người bình thường
trong cuộc sống; đồng thời lên án những thói hư tật
xấu, sự tham lam của những kẻ coi trọng đồng tiền
hơn nghĩa tình. Nói cách khác, những câu chuyện
dân gian là tiếng lòng của người Khmer Nam Bộ,
phản ánh quy luật tồn tại của xã hội: ở hiền gặp
lành, ở ác gặp ác.
Đặc điểm thứ ba, đó là về nhân vật trong Dù
kê Khmer Nam Bộ. Giống như các loại hình sân
khấu khác, nhân vật Dù kê có hai tuyến: Thiện
– Ác. Nhân vật tượng trưng cho cái thiện là vua,
hoàng tử, công chúa và đó là những con người
thực tế, đời thực. Vai “Thiện” thường do nam thủ
vai chính. Họ thường đóng vai vua, hoàng tử, Tiên
ông, hay là một bậc anh hùng cái thế, đứng ra cứu
giúp mọi người khỏi cơn hoạn nạn. Bên cạnh vai
chính nam luôn có vai chính nữ, đó là người phụ
nữ, người vợ đức hạnh. Ngoài hai vai chính ra còn
có các vai phụ: thị nữ, quân lính.
Đối lập với vai “Thiện” là vai “Ác”, đại diện
là Chằn tinh. Chằn tinh là biểu tượng của cái ác,
cái xấu và tàn bạo trong văn hóa Khmer; “Chằn”
thường có nhiều loại: công chúa, tiểu thư, quan lại,
tướng sĩ là những con người của đời thực. Theo
Sơn Lương, đối với ông thầy tuồng, tuồng tích
Khmer luôn có phe tốt, phe xấu – đại diện là chằn.
Nó trở thành biểu trưng sân khấu của những nhân
vật phản diện, mang đậm tính chất thế sự. Việc
diệt chằn, hướng tới cái tốt đẹp và cái thiện đã trở
thành quán tính thị hiếu của người Khmer, thể hiện
một xu hướng sáng tạo độc đáo của người Khmer.
Vai Chằn trong sân khấu Khmer dùng màu để
vẽ mặt, gần giống “kép núi” trong tuồng tích của
gánh hát Bội hay Hồ Quảng. Đặc biệt, chằn mang
cặp nanh (thường là nanh heo rừng) cong và dài,
lúc ngậm vào lúc lồi ra hai bên mép, làm tăng tính
hung dữ của chằn. Để làm được như thế, nhiều
nghệ sĩ đã khổ luyện rất nhiều. Nghệ sĩ Thạch
Sovana, một “Chằn tinh” của đoàn nghệ thuật
Khmer Triều An (Trà Vinh), kể lại: để luyện thành
vai Chằn, anh phải tập ngậm cái nanh trong nhiều
tháng trời. Ban đầu khi ngậm nanh vào người, anh
không sao tránh phải sự buồn nôn. Nhiều lúc anh
ngậm nanh quá lâu, vận động cơ hàm trong miệng
liên tục đến nỗi vạt cả các nướu răng, rách mép
hàm, máu tuôn như nước. Ngoài ngậm răng nanh,
nhiều nghệ sĩ đã học nhiều thế võ dành riêng cho
nhân vật phản diện được Khmer hóa, luyện thanh
sao cho giọng la cũng nghe vang hơn, dữ tợn hơn.
Chính vì khổ nhọc như thế mà ít người có thể đảm
nhiệm được vai Chằn một cách hoàn thiện trong
nghệ thuật Dù kê.
Một vai diễn cũng rất đặc biệt và thường xuất
hiện trên sân khấu Dù kê là vai Hề. Tuy không phải
vai chính, nhưng hề xuất hiện là điều cần thiết.
Các diễn viên vào vai Hề đều biết nhiều thứ tiếng:
Hoa, Kinh, Khmer để dễ sử dụng vào nghề nghiệp
của mình. Hề gây cười cho khán giả bằng nhiều
cách: bằng giọng nói khi lên khi xuống, khi nói sai,
bằng dáng đứng, dáng đi và điệu bộ. Hề còn một
nhiệm vụ là giải thích vở Dù kê mà các diễn viên
sắp diễn, để khán giả biết được nội dung vở diễn.
Xong nhiệm vụ, Hề nhường sân khấu cho các diễn
viên ra diễn xuất, còn mình thì đứng phía trong để
dẫn truyện và bình luận về suy nghĩ, cảm xúc của
nhân vật trong truyện.
Đặc điểm thứ tư, đó là về lối diễn xuất. Có thể
nói trong nghệ thuật sân khấu Khmer, ít có loại
hình sân khấu nào có nhiều hình thức diễn xuất
như Dù kê. Thời gian đầu khi thành lập, Dù kê chỉ
gồm có múa, hát, Rom Rô băm, hát Tiều và hát Bộ.
Các diễn viên hát Dù kê thuở ban đầu toàn là nam
(vai nữ cũng do nam đóng giả).
Đến năm 1930, khi Dù kê có sự tham gia của
các diễn viên nữ thì lối diễn xuất của Dù kê khác
xa ban đầu. Trước khi diễn, các diễn viên Dù kê
phải làm lễ xin ông Tà trước rồi mới cúng ông Tổ
khai diễn; mục đích là mong mọi chuyện diễn ra
tốt đẹp, không có tai ương. Khi cúng ông Tổ khai
diễn, các diễn viên phải dâng lên ông Tổ nhiều lễ
vật như: con gà, dừa, cốm nổ, 1 đầu heo; đồng
thời hát các bài Tô Tevada (coi sóc thế gian, thổ
thần bản xứ), Quỷ sắc đen “Meu Tây” sau là
Neang On và Neang Óc để cầu xin sự bình an cho
đêm diễn.
Màn được mở lên, chú Hề ra chào khán giả,
nói những lời vui và dí dỏm để gây không khí vui
tươi cho đêm diễn. Tiếp đến, đoàn hát sẽ ra chào
khán giả bằng một dàn đồng ca và tự giới thiệu
(thường là thành viên trong đoàn hoặc trưởng
đoàn) về tài năng và sự tích của từng nghệ sĩ xong
rồi mới vào tuồng. Một điều khác với Cải lương
Nam Bộ, đó là từ lúc giới thiệu cho đến vào tuồng,
các nghệ sĩ đều có hát cả. Các bài hát họ hát theo
tuần tự là: Sa-Thu (xin phép thần đất thần nước)
=> Dao-lê-dao-lê (hát hiến tổ) => noi-ơ-noi (tỏ ý
thần tổ đã bằng lòng) => Sà-do (ra mắt khán giả)
=> ô-rơ-nong-nong-khuây-ơi (thầy tuồng hát cổ
động người xem) => Sâm-pôn-phạch-chây (thầy
tuồng giới thiệu vở tuồng). Khi hát, nghệ sĩ Dù kê
đều có múa. Những động tác múa của họ rất mềm
mại, uyển chuyển và sâu sắc. Đến các pha giao
đấu thì họ dùng võ thuật tạo được cảnh sinh động,
kết hợp với xiếc đu bay giao chiến rất hấp dẫn. Vì
cống hiến hết mình cho các vai diễn, các nghệ sĩ
Dù kê đã diễn rất thành công vỡ diễn và tạo nhiều
xúc cảm với khán giả.
Đặc điểm thứ năm là về ngôn ngữ của nghệ
thuật Dù kê. Trong sân khấu Dù kê, ngôn ngữ chính
được sử dụng trong diễn xuất là tiếng Khmer. Khi
diễn xuất, diễn viên dùng điệu hát (tức là dùng
ngôn ngữ) để truyền đạt nội dung vở diễn; trong
khi đó, diễn viên chỉ dùng các điệu múa để minh
họa cho cách thể hiện bằng ngôn ngữ. Nói cách
khác, trong sân khấu Dù kê phần vũ đạo (múa) giữ
vai trò thứ yếu, còn lời ca (tức ngôn ngữ) giữ vai
trò chủ yếu, mới chính là yếu tố quan trọng thể
hiện nội dung tích diễn.
Kịch hát của Dù kê có các làn điệu sau:
- Hun rôn: làn điệu bài hát cúng tổ ra mắt
khán giả.
- Sâm-phôn: là những làn điệu hát vui
vẻ. Một tài liệu khác của Viện Văn hóa (1986)
cho biết, Sâm-phôn là các làn điệu tả khung cảnh
biệt ly, hay bị đánh đập (nó có 3 điệu: phân,
toeng và thu).
- Angkoreach: dành cho tâm trạng buồn
thảm (hơn cả Sâm-phôn).
- Sầm chriêng pôn, Tăng-sầm pôn Thu:
làn điệu hát có giọng cao và thấp, thường dùng vào
vai Công chúa.
- Mahôri: giọng nữ buồn
- Chriêng bompeKôn: các làn điệu ru con
- Che chông: làn điệu hát của trai gái yêu
nhau (hát huê tình).
- Phách chê và Xen trea: những làn
điệu giận dữ, khỏe mạnh thường dùng cho vai
Chằn, Phù thủy và Thợ săn trong những trường
hợp đối địch.
Trong mỗi bản nhạc của bốn giai điệu trên,
còn chia nhiều tiểu bản nhỏ và một số giai điệu
phụ khác. Các làn điệu chính được sử dụng trong
hát Dù kê là: Sâm-phôn, Angkoreach, Mahôri và
Phách chê7. Qua tư liệu tổng kết của Trường Đại
học Văn hóa – Hoàng gia Campuchia, bài bản sử
7 Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại.
Hà Nội. tr. 246.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014172 Soá 13, thaùng 3/2014 173
tại của loại hình nghệ thuật mới này, các nhà viết
kịch bản Dù kê đã nghĩ đến việc sử dụng lại vở
diễn Ream kê – vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của
trường ca Ramayana Ấn Độ cách đây hơn 20 thế
kỷ để biên soạn kịch và biểu diễn. Với lối diễn đặc
sắc, đậm chất sử thi Ấn Độ nên nghệ thuật Dù kê
đã nhanh chóng gặt hái những thành công lớn bước
đầu, thu hút nhiều người Khmer (và cả người Kinh,
Hoa, Chăm) đến xem và hưởng ứng nhiệt liệt.
Mãi đến những năm 30, khi các đoàn Dù kê
phải chạy sang Campuchia trong khi Việt Nam có
biến cố; thì nội dung của nó đã thay đổi khác xa
ban đầu. Dù kê đã tiếp thu các loại hình sân khấu
của người Kinh (Cải lương, Chèo), người Hoa
(hát Tiều, hát Quảng) và sân khấu phương Tây nên
đã sáng tạo ra nội dung vở kịch mới, mang đậm
tính dung hòa giữa các nền văn hóa Khmer – Kinh
- Hoa nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc
Khmer. Trong thời gian từ 1930 – 1975, các nghệ
sĩ Dù kê đã sáng tác và cho ra đời những vở kịch
Dù kê có giá trị như Nghĩa tình giông tố (Thạch
Voi), vở diễn Cởi áo cà sa, Nỗi lòng trong rào gai
của Kim Siêm, Giữ đền Vehia của Thạch Chân...
Ngoài các vở diễn lấy từ các điển tích Khmer, nghệ
sĩ Dù kê còn sử dụng điển tích truyện cổ Việt, Hoa
và sáng tác các vở kịch như: Thạch Sanh chém
Chằn, Chuyện chàng Tum nàng Tiêu. Chủ đề chính
trong những vở kịch đó chính là sự ca ngợi lòng
hướng thiện của những con người bình thường
trong cuộc sống; đồng thời lên án những thói hư tật
xấu, sự tham lam của những kẻ coi trọng đồng tiền
hơn nghĩa tình. Nói cách khác, những câu chuyện
dân gian là tiếng lòng của người Khmer Nam Bộ,
phản ánh quy luật tồn tại của xã hội: ở hiền gặp
lành, ở ác gặp ác.
Đặc điểm thứ ba, đó là về nhân vật trong Dù
kê Khmer Nam Bộ. Giống như các loại hình sân
khấu khác, nhân vật Dù kê có hai tuyến: Thiện
– Ác. Nhân vật tượng trưng cho cái thiện là vua,
hoàng tử, công chúa và đó là những con người
thực tế, đời thực. Vai “Thiện” thường do nam thủ
vai chính. Họ thường đóng vai vua, hoàng tử, Tiên
ông, hay là một bậc anh hùng cái thế, đứng ra cứu
giúp mọi người khỏi cơn hoạn nạn. Bên cạnh vai
chính nam luôn có vai chính nữ, đó là người phụ
nữ, người vợ đức hạnh. Ngoài hai vai chính ra còn
có các vai phụ: thị nữ, quân lính.
Đối lập với vai “Thiện” là vai “Ác”, đại diện
là Chằn tinh. Chằn tinh là biểu tượng của cái ác,
cái xấu và tàn bạo trong văn hóa Khmer; “Chằn”
thường có nhiều loại: công chúa, tiểu thư, quan lại,
tướng sĩ là những con người của đời thực. Theo
Sơn Lương, đối với ông thầy tuồng, tuồng tích
Khmer luôn có phe tốt, phe xấu – đại diện là chằn.
Nó trở thành biểu trưng sân khấu của những nhân
vật phản diện, mang đậm tính chất thế sự. Việc
diệt chằn, hướng tới cái tốt đẹp và cái thiện đã trở
thành quán tính thị hiếu của người Khmer, thể hiện
một xu hướng sáng tạo độc đáo của người Khmer.
Vai Chằn trong sân khấu Khmer dùng màu để
vẽ mặt, gần giống “kép núi” trong tuồng tích của
gánh hát Bội hay Hồ Quảng. Đặc biệt, chằn mang
cặp nanh (thường là nanh heo rừng) cong và dài,
lúc ngậm vào lúc lồi ra hai bên mép, làm tăng tính
hung dữ của chằn. Để làm được như thế, nhiều
nghệ sĩ đã khổ luyện rất nhiều. Nghệ sĩ Thạch
Sovana, một “Chằn tinh” của đoàn nghệ thuật
Khmer Triều An (Trà Vinh), kể lại: để luyện thành
vai Chằn, anh phải tập ngậm cái nanh trong nhiều
tháng trời. Ban đầu khi ngậm nanh vào người, anh
không sao tránh phải sự buồn nôn. Nhiều lúc anh
ngậm nanh quá lâu, vận động cơ hàm trong miệng
liên tục đến nỗi vạt cả các nướu răng, rách mép
hàm, máu tuôn như nước. Ngoài ngậm răng nanh,
nhiều nghệ sĩ đã học nhiều thế võ dành riêng cho
nhân vật phản diện được Khmer hóa, luyện thanh
sao cho giọng la cũng nghe vang hơn, dữ tợn hơn.
Chính vì khổ nhọc như thế mà ít người có thể đảm
nhiệm được vai Chằn một cách hoàn thiện trong
nghệ thuật Dù kê.
Một vai diễn cũng rất đặc biệt và thường xuất
hiện trên sân khấu Dù kê là vai Hề. Tuy không phải
vai chính, nhưng hề xuất hiện là điều cần thiết.
Các diễn viên vào vai Hề đều biết nhiều thứ tiếng:
Hoa, Kinh, Khmer để dễ sử dụng vào nghề nghiệp
của mình. Hề gây cười cho khán giả bằng nhiều
cách: bằng giọng nói khi lên khi xuống, khi nói sai,
bằng dáng đứng, dáng đi và điệu bộ. Hề còn một
nhiệm vụ là giải thích vở Dù kê mà các diễn viên
sắp diễn, để khán giả biết được nội dung vở diễn.
Xong nhiệm vụ, Hề nhường sân khấu cho các diễn
viên ra diễn xuất, còn mình thì đứng phía trong để
dẫn truyện và bình luận về suy nghĩ, cảm xúc của
nhân vật trong truyện.
Đặc điểm thứ tư, đó là về lối diễn xuất. Có thể
nói trong nghệ thuật sân khấu Khmer, ít có loại
hình sân khấu nào có nhiều hình thức diễn xuất
như Dù kê. Thời gian đầu khi thành lập, Dù kê chỉ
gồm có múa, hát, Rom Rô băm, hát Tiều và hát Bộ.
Các diễn viên hát Dù kê thuở ban đầu toàn là nam
(vai nữ cũng do nam đóng giả).
Đến năm 1930, khi Dù kê có sự tham gia của
các diễn viên nữ thì lối diễn xuất của Dù kê khác
xa ban đầu. Trước khi diễn, các diễn viên Dù kê
phải làm lễ xin ông Tà trước rồi mới cúng ông Tổ
khai diễn; mục đích là mong mọi chuyện diễn ra
tốt đẹp, không có tai ương. Khi cúng ông Tổ khai
diễn, các diễn viên phải dâng lên ông Tổ nhiều lễ
vật như: con gà, dừa, cốm nổ, 1 đầu heo; đồng
thời hát các bài Tô Tevada (coi sóc thế gian, thổ
thần bản xứ), Quỷ sắc đen “Meu Tây” sau là
Neang On và Neang Óc để cầu xin sự bình an cho
đêm diễn.
Màn được mở lên, chú Hề ra chào khán giả,
nói những lời vui và dí dỏm để gây không khí vui
tươi cho đêm diễn. Tiếp đến, đoàn hát sẽ ra chào
khán giả bằng một dàn đồng ca và tự giới thiệu
(thường là thành viên trong đoàn hoặc trưởng
đoàn) về tài năng và sự tích của từng nghệ sĩ xong
rồi mới vào tuồng. Một điều khác với Cải lương
Nam Bộ, đó là từ lúc giới thiệu cho đến vào tuồng,
các nghệ sĩ đều có hát cả. Các bài hát họ hát theo
tuần tự là: Sa-Thu (xin phép thần đất thần nước)
=> Dao-lê-dao-lê (hát hiến tổ) => noi-ơ-noi (tỏ ý
thần tổ đã bằng lòng) => Sà-do (ra mắt khán giả)
=> ô-rơ-nong-nong-khuây-ơi (thầy tuồng hát cổ
động người xem) => Sâm-pôn-phạch-chây (thầy
tuồng giới thiệu vở tuồng). Khi hát, nghệ sĩ Dù kê
đều có múa. Những động tác múa của họ rất mềm
mại, uyển chuyển và sâu sắc. Đến các pha giao
đấu thì họ dùng võ thuật tạo được cảnh sinh động,
kết hợp với xiếc đu bay giao chiến rất hấp dẫn. Vì
cống hiến hết mình cho các vai diễn, các nghệ sĩ
Dù kê đã diễn rất thành công vỡ diễn và tạo nhiều
xúc cảm với khán giả.
Đặc điểm thứ năm là về ngôn ngữ của nghệ
thuật Dù kê. Trong sân khấu Dù kê, ngôn ngữ chính
được sử dụng trong diễn xuất là tiếng Khmer. Khi
diễn xuất, diễn viên dùng điệu hát (tức là dùng
ngôn ngữ) để truyền đạt nội dung vở diễn; trong
khi đó, diễn viên chỉ dùng các điệu múa để minh
họa cho cách thể hiện bằng ngôn ngữ. Nói cách
khác, trong sân khấu Dù kê phần vũ đạo (múa) giữ
vai trò thứ yếu, còn lời ca (tức ngôn ngữ) giữ vai
trò chủ yếu, mới chính là yếu tố quan trọng thể
hiện nội dung tích diễn.
Kịch hát của Dù kê có các làn điệu sau:
- Hun rôn: làn điệu bài hát cúng tổ ra mắt
khán giả.
- Sâm-phôn: là những làn điệu hát vui
vẻ. Một tài liệu khác của Viện Văn hóa (1986)
cho biết, Sâm-phôn là các làn điệu tả khung cảnh
biệt ly, hay bị đánh đập (nó có 3 điệu: phân,
toeng và thu).
- Angkoreach: dành cho tâm trạng buồn
thảm (hơn cả Sâm-phôn).
- Sầm chriêng pôn, Tăng-sầm pôn Thu:
làn điệu hát có giọng cao và thấp, thường dùng vào
vai Công chúa.
- Mahôri: giọng nữ buồn
- Chriêng bompeKôn: các làn điệu ru con
- Che chông: làn điệu hát của trai gái yêu
nhau (hát huê tình).
- Phách chê và Xen trea: những làn
điệu giận dữ, khỏe mạnh thường dùng cho vai
Chằn, Phù thủy và Thợ săn trong những trường
hợp đối địch.
Trong mỗi bản nhạc của bốn giai điệu trên,
còn chia nhiều tiểu bản nhỏ và một số giai điệu
phụ khác. Các làn điệu chính được sử dụng trong
hát Dù kê là: Sâm-phôn, Angkoreach, Mahôri và
Phách chê7. Qua tư liệu tổng kết của Trường Đại
học Văn hóa – Hoàng gia Campuchia, bài bản sử
7 Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại.
Hà Nội. tr. 246.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014174 Soá 13, thaùng 3/2014 175
dụng trong Dù kê có 160 bài8, bao gồm:
- Bài ca Ba Sắc chính thống: 32 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ nhạc Mahôri: 90 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Quảng, Triều: 22 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Pháp, Anh: 16 bài
Đặc điểm thứ sáu là về múa. Thời gian đầu
sau khi Dù kê ra đời, các diễn viên đều múa theo
kiểu múa truyền thống Khmer. Sắm cùng một vai,
nhưng vai này sẽ múa khác vai kia (thậm chí có
vai thì múa, có vai thì không múa). Vai Chằn là vai
hoạt động mạnh nên múa nhiều nhất, nói chính xác
là hoạt động hình thể nhiều nhất.
Múa Dù kê có hai loại: múa cho vai chính diện
và múa cho vai phản diện. Với vai chính diện là
vua, hoàng tử, công chúa, các diễn viên múa theo
kiểu vũ đạo cổ điển. Họ múa rất mềm với tiết điệu
dịu dàng, vừa phải. Trang phục của các nhân vật
chính diện thường theo kiểu trang phục truyền
thống Khmer, được hóa trang đẹp mắt nhiều màu
sắc, nhiều vật trang trí lung linh huyền ảo.
Trong khi đó với vai phản diện (Chằn tinh),
diễn viên Dù kê múa kiểu khác. Động tác múa của
Chằn rất sinh động, nhất là nét mặt. Khi diễn, tùy
theo thời điểm mà nét mặt của chằn có biểu hiện
khác nhau: hung dữ, giận dữ rất thật và cuốn hút
người xem phải chú ý đến tình tiết của vở diễn.
8 Thông tin này là ý kiến trong tham luận “Nghệ thuật sân
khấu Dù kê là di sản văn hóa” của Sang Sết, Kỷ yếu hội
thảo, tr. 15. Soạn giả Huỳnh Thanh Tuấn trong tham luận
“Nét độc đáo của sân khấu Dù kê”, Kỷ yêu Hội thảo, tr. 155
– 156 lại viết: bài bản sử dụng trong Dù kê có 155 bài, chia
thành 4 nhóm:
- Bài ca Ba Sắc chính thống: 28 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ nhạc Mahôri: 89 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Quảng, Triều: 22 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Pháp, Anh: 16 bài
Sơn Lương trong Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Dù
kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn Sóc Trăng, Nxb Hội Văn hóa
nghệ thuật Sóc Trăng, tr. 194 - 202, viết: “bài bản trong Dù
kê có 34 bài hát của Dù kê Khmer Nam Bộ chính thống, 22
bài có nguồn gốc từ kịch Tiều, 16 bài có ảnh hưởng châu Âu,
91 bài chịu ảnh hưởng Campuchia, Lào, Thái Lan, Singapore,
Miến Điện”.
Trong tham luận “Những đặc trưng cơ bản về âm nhạc trong
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ”, Kỷ yếu, tr. 209;
Sơn Ngọc Hoàng cũng viết: “bài bản của Dù kê có 163 bài
chia thành 5 nhóm: hát tập thể, hát khi nhân vật vui, hát khi
nhân vật buồn, hát tỏ tỉnh, hát khi nhân vật giận hờn”.
Hiện chúng tôi chưa rõ vi sao có sự khác nhau này. Xin ghi
lại đây tham khảo.
Các động tác cơ thể họ di chuyển mạnh mẽ, phần
chân tay xoay chuyển rộng và khoa trương để tạo
uy thế, vì Chằn luôn dùng võ lực để áp đảo đối
phương. Trang phục của Chằn trông thô kệch, dữ
tợn. Tướng ác, mồm ngậm hai nanh dài, dùng lưỡi
điều khiển, diễn, nói và múa khoa trương tùy vào
hoàn cảnh nhân vật trong vở diễn.
Đặc điểm thứ bảy, đó là về nơi diễn xuất.
Giống như Cải lương, Dù kê cũng được diễn xuất
ở các rạp lớn. Các rạp sân khấu lớn ở Trà Vinh, Sóc
Trăng với hình ảnh, đạo cụ, màu sắc trang trí trong
rạp thu hút sự chú ý của người xem. Khi đoàn
Dù kê diễn kịch trên sân khấu của rạp, hệ thống
đèn chiếu đủ màu sắc cùng với dàn âm thanh lớn
(trong đó cũng phải nói đến dàn âm thanh trong
nhạc cụ cổ truyền Dù kê mà các nhạc công đang
làm ở bên dưới sân khấu). Tất cả những cái đó đã
hòa nhập vào nhau, tạo nên sự sống động trong vở
diễn Dù kê và được khán giả hưởng ứng nhiệt liệt.
Chị Thạch Thị Sao, phường 7, TP Trà Vinh, nói:
“Nghe nhạc điệu của Dù kê cất lên là tôi nôn nao
cả người, cỡ nào cũng phải đi cho bằng được”.
Chùa Khmer cũng là nơi để diễn xuất trong
nghệ thuật sân khấu Dù kê. Trong tâm thức của
người Khmer, chùa chính là trung tâm văn hóa
– xã hội, nơi sinh hoạt tôn giáo. Hầu hết các gia
đình người Khmer đều gắn cuộc đời, hoạt động
của mình trong chùa; thường xuyên đi chùa để
cầu phúc, cầu an. Ngoài ra, chùa còn là nơi diễn
ra các hoạt động văn hóa mà hát Dù kê là ví dụ
cụ thể. Trong các lễ hội lớn như lễ Dolta, lễ Ok
Om Bok, lễ Mừng năm mới (Tết Chôl - chnăm –
thmây), các đoàn Dù kê đều tới hát làm phước ở
chùa Khmer. Họ hát để “nhờ” khán giả làm phước
cúng chùa cầu an, cầu phúc; hát để mong muốn sự
thái bình, yên vui.
3. Kết luận
Tóm lại có thể nói, Dù kê là một loại nghệ
thuật rất đặc biệt của người Khmer. Việc Dù kê ra
đời như một cuộc cách tân quan trọng, đánh dấu
sự chuyển biến về hình thức lẫn nội dung và cách
thức của người biểu diễn từ cái cũ – cái truyền
thống chuyển sang một cái mới mẻ hơn, sáng tỏ
hơn và đa dạng hơn. Tuy nhiên, một thực tế hiện
nay đó là sân khấu Dù kê hiện nay đang bị mai
một rất nhiều, mà phần lớn là do thiếu một lớp
diễn viên trẻ tài năng trong khi diễn viên gạo cuội
lùi dần (bằng chứng là các đoàn Dù kê ít dần,
không còn nhiều như lúc trước), nội dung vở diễn
Dù kê không đổi mới và sự quan tâm không sâu
sắc của chính quyền địa phương với Dù kê, đã vô
tình làm nó bị mai một đi. Do đó, một trong những
nhiệm vụ của chúng ta (nhất là những người làm
bên Dù kê) là – làm thế nào để vực dậy nền sân
khấu Dù kê vốn sắp suy tàn và biến mất này?
Theo chúng tôi, tạm thời sẽ có ba giải pháp: thực
hiện đãi ngộ thỏa đáng với nghệ sĩ Dù kê; đầu tư
thỏa đáng cho các đoàn để họ còn có đất để diễn;
thực hiện phối hợp cơ quan chức năng chuyên
ngành văn hóa với chính quyền địa phương để
đề ra biện pháp bảo vệ nó. Tuy nhiên, như thế
cũng chưa hẳn là đủ. Rồi đây sẽ còn có thêm, có
nhiều hơn nữa những biện pháp để cứu vãn một
nền nghệ thuật sân khấu Khmer dần mai một này;
để đưa văn hóa Việt Nam trở thành nền văn hóa
phong phú, đậm bản sắc dân tộc Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
A history of Cambodia. 1862 – 1945. Federal Publication.
Bùi Công Ba. 2011. Nghệ thuật Dù kê của người Khmer. Báo Dân tộc và phát triển. Số ra tháng
8/2011.
Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại. Hà Nội.
Huỳnh Ngọc Trảng. 1987. Người Khmer Cửu Long. Sở Văn hóa Thông tin Cửu Long xuất bản.
Nguyễn Đức Hòa. 2011. Lịch sử văn minh thế giới, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
Nhiều tác giả. 2013. Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - di sản văn hóa dân tộc, Kỷ yếu
Hội thảo khoa học. Trường Đại học Trà Vinh.
Phan Thị Phương Hạnh. 2011. Văn hóa Khmer Nam Bộ - nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam,
NXB Chính trị Quốc gia. Sự thật. Hà Nội.
Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn Sóc
Trăng. NXB Hội Văn hóa Nghệ thuật Sóc Trăng.
Tiến Trình. 2013. Những truyền nhân cuối cùng - Chằn tinh bên bờ... tuyệt chủng, Báo Thanh niên.
Số ra tháng 10/2013.
Trần Minh Thương. 2012. Nghệ thuật hát Dù kê của người Khmer Sóc Trăng. Tạp chí Văn hóa Phật
giáo, số ra ngày 15/6/2012.
Trường Lưu. 1993. Văn hóa Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Văn hóa dân tộc. Hà Nội.
Viện Văn hóa. 1986. Tìm hiểu vốn văn hóa Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang. Hậu Giang.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014174 Soá 13, thaùng 3/2014 175
dụng trong Dù kê có 160 bài8, bao gồm:
- Bài ca Ba Sắc chính thống: 32 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ nhạc Mahôri: 90 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Quảng, Triều: 22 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Pháp, Anh: 16 bài
Đặc điểm thứ sáu là về múa. Thời gian đầu
sau khi Dù kê ra đời, các diễn viên đều múa theo
kiểu múa truyền thống Khmer. Sắm cùng một vai,
nhưng vai này sẽ múa khác vai kia (thậm chí có
vai thì múa, có vai thì không múa). Vai Chằn là vai
hoạt động mạnh nên múa nhiều nhất, nói chính xác
là hoạt động hình thể nhiều nhất.
Múa Dù kê có hai loại: múa cho vai chính diện
và múa cho vai phản diện. Với vai chính diện là
vua, hoàng tử, công chúa, các diễn viên múa theo
kiểu vũ đạo cổ điển. Họ múa rất mềm với tiết điệu
dịu dàng, vừa phải. Trang phục của các nhân vật
chính diện thường theo kiểu trang phục truyền
thống Khmer, được hóa trang đẹp mắt nhiều màu
sắc, nhiều vật trang trí lung linh huyền ảo.
Trong khi đó với vai phản diện (Chằn tinh),
diễn viên Dù kê múa kiểu khác. Động tác múa của
Chằn rất sinh động, nhất là nét mặt. Khi diễn, tùy
theo thời điểm mà nét mặt của chằn có biểu hiện
khác nhau: hung dữ, giận dữ rất thật và cuốn hút
người xem phải chú ý đến tình tiết của vở diễn.
8 Thông tin này là ý kiến trong tham luận “Nghệ thuật sân
khấu Dù kê là di sản văn hóa” của Sang Sết, Kỷ yếu hội
thảo, tr. 15. Soạn giả Huỳnh Thanh Tuấn trong tham luận
“Nét độc đáo của sân khấu Dù kê”, Kỷ yêu Hội thảo, tr. 155
– 156 lại viết: bài bản sử dụng trong Dù kê có 155 bài, chia
thành 4 nhóm:
- Bài ca Ba Sắc chính thống: 28 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ nhạc Mahôri: 89 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Quảng, Triều: 22 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Pháp, Anh: 16 bài
Sơn Lương trong Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Dù
kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn Sóc Trăng, Nxb Hội Văn hóa
nghệ thuật Sóc Trăng, tr. 194 - 202, viết: “bài bản trong Dù
kê có 34 bài hát của Dù kê Khmer Nam Bộ chính thống, 22
bài có nguồn gốc từ kịch Tiều, 16 bài có ảnh hưởng châu Âu,
91 bài chịu ảnh hưởng Campuchia, Lào, Thái Lan, Singapore,
Miến Điện”.
Trong tham luận “Những đặc trưng cơ bản về âm nhạc trong
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ”, Kỷ yếu, tr. 209;
Sơn Ngọc Hoàng cũng viết: “bài bản của Dù kê có 163 bài
chia thành 5 nhóm: hát tập thể, hát khi nhân vật vui, hát khi
nhân vật buồn, hát tỏ tỉnh, hát khi nhân vật giận hờn”.
Hiện chúng tôi chưa rõ vi sao có sự khác nhau này. Xin ghi
lại đây tham khảo.
Các động tác cơ thể họ di chuyển mạnh mẽ, phần
chân tay xoay chuyển rộng và khoa trương để tạo
uy thế, vì Chằn luôn dùng võ lực để áp đảo đối
phương. Trang phục của Chằn trông thô kệch, dữ
tợn. Tướng ác, mồm ngậm hai nanh dài, dùng lưỡi
điều khiển, diễn, nói và múa khoa trương tùy vào
hoàn cảnh nhân vật trong vở diễn.
Đặc điểm thứ bảy, đó là về nơi diễn xuất.
Giống như Cải lương, Dù kê cũng được diễn xuất
ở các rạp lớn. Các rạp sân khấu lớn ở Trà Vinh, Sóc
Trăng với hình ảnh, đạo cụ, màu sắc trang trí trong
rạp thu hút sự chú ý của người xem. Khi đoàn
Dù kê diễn kịch trên sân khấu của rạp, hệ thống
đèn chiếu đủ màu sắc cùng với dàn âm thanh lớn
(trong đó cũng phải nói đến dàn âm thanh trong
nhạc cụ cổ truyền Dù kê mà các nhạc công đang
làm ở bên dưới sân khấu). Tất cả những cái đó đã
hòa nhập vào nhau, tạo nên sự sống động trong vở
diễn Dù kê và được khán giả hưởng ứng nhiệt liệt.
Chị Thạch Thị Sao, phường 7, TP Trà Vinh, nói:
“Nghe nhạc điệu của Dù kê cất lên là tôi nôn nao
cả người, cỡ nào cũng phải đi cho bằng được”.
Chùa Khmer cũng là nơi để diễn xuất trong
nghệ thuật sân khấu Dù kê. Trong tâm thức của
người Khmer, chùa chính là trung tâm văn hóa
– xã hội, nơi sinh hoạt tôn giáo. Hầu hết các gia
đình người Khmer đều gắn cuộc đời, hoạt động
của mình trong chùa; thường xuyên đi chùa để
cầu phúc, cầu an. Ngoài ra, chùa còn là nơi diễn
ra các hoạt động văn hóa mà hát Dù kê là ví dụ
cụ thể. Trong các lễ hội lớn như lễ Dolta, lễ Ok
Om Bok, lễ Mừng năm mới (Tết Chôl - chnăm –
thmây), các đoàn Dù kê đều tới hát làm phước ở
chùa Khmer. Họ hát để “nhờ” khán giả làm phước
cúng chùa cầu an, cầu phúc; hát để mong muốn sự
thái bình, yên vui.
3. Kết luận
Tóm lại có thể nói, Dù kê là một loại nghệ
thuật rất đặc biệt của người Khmer. Việc Dù kê ra
đời như một cuộc cách tân quan trọng, đánh dấu
sự chuyển biến về hình thức lẫn nội dung và cách
thức của người biểu diễn từ cái cũ – cái truyền
thống chuyển sang một cái mới mẻ hơn, sáng tỏ
hơn và đa dạng hơn. Tuy nhiên, một thực tế hiện
nay đó là sân khấu Dù kê hiện nay đang bị mai
một rất nhiều, mà phần lớn là do thiếu một lớp
diễn viên trẻ tài năng trong khi diễn viên gạo cuội
lùi dần (bằng chứng là các đoàn Dù kê ít dần,
không còn nhiều như lúc trước), nội dung vở diễn
Dù kê không đổi mới và sự quan tâm không sâu
sắc của chính quyền địa phương với Dù kê, đã vô
tình làm nó bị mai một đi. Do đó, một trong những
nhiệm vụ của chúng ta (nhất là những người làm
bên Dù kê) là – làm thế nào để vực dậy nền sân
khấu Dù kê vốn sắp suy tàn và biến mất này?
Theo chúng tôi, tạm thời sẽ có ba giải pháp: thực
hiện đãi ngộ thỏa đáng với nghệ sĩ Dù kê; đầu tư
thỏa đáng cho các đoàn để họ còn có đất để diễn;
thực hiện phối hợp cơ quan chức năng chuyên
ngành văn hóa với chính quyền địa phương để
đề ra biện pháp bảo vệ nó. Tuy nhiên, như thế
cũng chưa hẳn là đủ. Rồi đây sẽ còn có thêm, có
nhiều hơn nữa những biện pháp để cứu vãn một
nền nghệ thuật sân khấu Khmer dần mai một này;
để đưa văn hóa Việt Nam trở thành nền văn hóa
phong phú, đậm bản sắc dân tộc Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
A history of Cambodia. 1862 – 1945. Federal Publication.
Bùi Công Ba. 2011. Nghệ thuật Dù kê của người Khmer. Báo Dân tộc và phát triển. Số ra tháng
8/2011.
Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại. Hà Nội.
Huỳnh Ngọc Trảng. 1987. Người Khmer Cửu Long. Sở Văn hóa Thông tin Cửu Long xuất bản.
Nguyễn Đức Hòa. 2011. Lịch sử văn minh thế giới, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
Nhiều tác giả. 2013. Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - di sản văn hóa dân tộc, Kỷ yếu
Hội thảo khoa học. Trường Đại học Trà Vinh.
Phan Thị Phương Hạnh. 2011. Văn hóa Khmer Nam Bộ - nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam,
NXB Chính trị Quốc gia. Sự thật. Hà Nội.
Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn Sóc
Trăng. NXB Hội Văn hóa Nghệ thuật Sóc Trăng.
Tiến Trình. 2013. Những truyền nhân cuối cùng - Chằn tinh bên bờ... tuyệt chủng, Báo Thanh niên.
Số ra tháng 10/2013.
Trần Minh Thương. 2012. Nghệ thuật hát Dù kê của người Khmer Sóc Trăng. Tạp chí Văn hóa Phật
giáo, số ra ngày 15/6/2012.
Trường Lưu. 1993. Văn hóa Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Văn hóa dân tộc. Hà Nội.
Viện Văn hóa. 1986. Tìm hiểu vốn văn hóa Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang. Hậu Giang.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_dac_diem_cua_nghe_thuat_du_ke_khmer_nam_bo.pdf