“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền
hạn thực hiện một trong các hành vi sau
đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
d) Thực hiện việc bắt, giữ, giam người
không có lệnh, quyết định theo quy định
của luật hoặc tuy có lệnh, quyết định
nhưng chưa có hiệu lực thi hành;
đ) Không ra lệnh, quyết định gia hạn
tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ
biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời
tạm giữ, tạm giam dẫn đến người bị tạm
giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn.”
Theo đó, trong mọi trường hợp người
có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ,
quyền hạn thực hiện việc không ra lệnh,
quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam
hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ,
tạm giam khi hết thời tạm giữ, tạm giam
dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị
giam, giữ quá hạn đều phải chịu trách
nhiệm hình sự. Do đó, trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự các đồng chí Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra
trong Công an nhân dân phải hết sức lưu
ý, không để xảy ra tình trạng do sơ suất
dẫn đến việc giữ người không có lệnh.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 252 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những điểm mới, sửa đổi, bổ sung trong chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp của bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHGD CSND 33
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Trong Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày
27/11/2015, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/7/2016, các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp được quy định tại Chương
XXIV. Tuy nhiên, trong quá trình triển
khai thực hiện Nghị quyết số 109/2015/
QH13 của Quốc hội về việc thi hành Bộ
luật này, các cơ quan hữu quan đã phát
NHỮNG ĐIỂM MỚI, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
TRONG CHƯƠNG CÁC TỘI XÂM PHẠM
HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 2015 (SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2017)
TRẦN NGỌC ĐỨC*
TÓM TẮT NỘI DUNG
Từ trước đến nay, hoạt động tư pháp được Nhà nước bảo vệ chặt chẽ bằng nhiều
biện pháp, trong đó có biện pháp pháp luật hình sự. BLHS năm 2015 tiếp tục quy định
một chương riêng về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, với những sửa đổi, bổ sung
cần thiết phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và chủ trương cải cách
tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu làm rõ những
điểm mới, sửa đổi, bổ sung trong Chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp của
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) giúp tìm hiểu một cách có hệ thống về các
tội này và một số điểm cần lưu ý khi áp dụng các quy định mới sửa đổi, bổ sung để đấu
tranh phòng, chống tội phạm này có hiệu quả hơn.
Từ khóa: Điểm mới; hoạt động tư pháp; Bộ luật hình sự.
SUMMARY
Up to now, public justice activities was firmly protected by the State with many
methods including Criminal law. The Criminal Code 2015 had one specific chapter to
regulate public justice offences with necessary amendments and supplementations to meet
the demand of crime prevention and judicial reform policy of our State. In this article,
the author presented his study of new points of the amendments and supplementations
in Chapter of public justice offences in the Criminal Code 2015 (Amended in 2017).
This article helps study the system of public justice offences and some noticeable points
to apply amended regulations in crime prevention.
Key words: New point; public justice offences; Criminal Code.
* Trường Đại học Cảnh sát nhân dân
34 SỐ 99 [01 - 2018]
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
hiện và phản ánh yếu tố cấu thành của
các tội phạm quy định tại các điều 378,
386, 387, 388 chưa phù hợp với thực tiễn,
nên chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm; quy định về viện
dẫn, các từ ngữ dùng trong điều luật tại
các điều 369, 370, 377, 389 chưa bảo đảm
tính chính xác, logic, rõ ràng, tạo thuận
lợi cho việc giải thích và áp dụng các quy
định này.
Ngày 20/6/2017, tại kỳ họp thứ 3,
Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật
số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/
QH13, trong đó có sửa đổi, bổ sung các
điều nêu trên. Theo đó, Bộ luật Hình sự
số 100/2015/QH13, được sửa đổi, bổ sung
một số điều năm 2017 (sau đây gọi tắt là
BLHS năm 2015) đã sửa đổi, bổ sung tất
cả 23 điều trong Chương XXII của BLHS
năm 1999 và bổ sung mới 02 điều, tạo
thành Chương các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp, gồm 25 điều (từ Điều 367
đến Điều 391).
Đối chiếu với những yêu cầu đặt ra
đối với việc sửa đổi, bổ sung các tội xâm
phạm hoạt động tư pháp1, có thể nhận
thấy: Chương các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp đã thể chế hóa đúng đắn,
đầy đủ chủ trương của Đảng về cải cách
tư pháp nêu tại Nghị quyết số 48/NQ-
TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020; cụ thể hóa quy định
tại Điều 20 của Hiến pháp năm 2013:
“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra
tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất
kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm
thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm; Không ai bị bắt nếu không có
quyết định của Tòa án nhân dân, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát
nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả
tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật
định”; nội luật hóa các cam kết trong các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên, nhất là Công ước của Liên hợp quốc
về chống tra tấn và các hình thức đối xử
hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo
hoặc hạ nhục con người. So với Chương
XXII của Bộ luật Hình sự năm 1999,
Chương XXIV của BLHS năm 2015 được
sửa đổi, bổ sung 03 nội dung lớn2. Cụ thể
như sau:
1. Sửa đổi khái niệm, phạm vi các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp
BLHS năm 2015 đã sửa đổi khái niệm
tội xâm phạm hoạt động tư pháp nhằm
1 Xem Nguyễn Hòa Bình, Chuyên đề những nội
dung mới sửa đổi, bổ sung trong Chương các tội
phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của Bộ luật
Hình sự năm 2015,
page/portal/tandtc/ttsktand/43713043?pers_
id=1751942&folder_id=&item_id=225618731&p_
details=1, cập nhật ngày 08/12/2017.
TẠP CHÍ KHGD CSND 35
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
đảm bảo tính khái quát cao, như sau:
“Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là
những hành vi xâm phạm sự đúng đắn
của hoạt động tố tụng và thi hành án”3.
Trong đó, hoạt động tố tụng là quá trình
(trình tự) giải quyết vụ án, vụ việc ở các
lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính -
lao động - kinh doanh thương mại bao
gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng, cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội, mọi công dân góp
phần vào việc giải quyết vụ án, vụ việc
theo quy định của pháp luật4.
Việc sử dụng khái niệm “hoạt động tố
tụng” thay cho cách liệt kê các cơ quan
một cách không đầy đủ của BLHS năm
1999, không những giúp bao quát hết
phạm vi các chủ thể tham gia vào hoạt
động tư pháp, mà còn giúp khắc phục
tình trạng chưa thật rõ nội hàm của một
số khái niệm liên quan đến hoạt động tư
pháp như “quyền tư pháp”, “cơ quan tư
pháp”, “hoạt động tư pháp”. Thực tế đã
cho thấy, theo tinh thần Nghị quyết số
49/NQ-TW, quy định trong Hiến pháp
năm 2013 và các quy định của pháp luật
hiện hành về các hoạt động tố tụng thì
hiện nay vẫn chưa thật rõ nội hàm của
các khái niệm này.
Việc sửa đổi, bổ sung cả 23 điều trong
Chương XXII của BLHS năm 1999 và bổ
sung mới 02 điều, tạo thành Chương các
tội xâm phạm hoạt động tư pháp gồm 25
điều để mở rộng phạm vi của nhóm tội
phạm này (các tội danh trong nhóm) là
hợp lý, vì hoạt động của cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức, cá
nhân có liên quan góp phần vào việc giải
quyết vụ án, vụ việc theo quy định của
pháp luật có quan hệ mật thiết với nhau,
có chung mục tiêu bảo vệ và bảo đảm
nền tư pháp đúng đắn, đồng thời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước
và công dân góp phần thực thi công lý
mang lại công bằng và ổn định xã hội.
Theo đó, hoạt động tư pháp với phương
diện là đối tượng bảo vệ của BLHS năm
2015 rộng hơn khái niệm hoạt động “tư
pháp” được hiểu theo nghĩa chỉ là hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử; đồng thời
cũng không trùng với khái niệm “hoạt
2 Về tổng thể, việc sửa đổi, bổ sung tập trung vào 06
điểm: (1) Sửa đổi khái niệm, phạm vi các tội xâm
phạm hoạt động tư pháp; (2) Sửa đổi, bổ sung phạm
vi chủ thể thực hiện tội phạm, đối tượng tác động
của tội phạm trong một số tội; (3) Tăng nặng hình
phạt đối với một số tội; (4) Bổ sung khung tăng
nặng, các tình tiết định khung tăng nặng TNHS và
cụ thể hóa các tình tiết có tính “định tính”; (5) Sửa
đổi bổ sung tội dùng nhục hình và tội bức cung; (6)
Tội phạm hóa đối với hành vi vi phạm quy định về
giam, giữ; hành vi gây rối trật tự phiên tòa.
3 Điều 292 BLHS năm 1999 chỉ quy định: Các hoạt
động tư pháp bao gồm hoạt động của các cơ quan
điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án.
4 Theo Nguyễn Hòa Bình, Chuyên đề những nội
dung mới sửa đổi, bổ sung trong Chương các tội
phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của Bộ luật
Hình sự năm 2015,
page/portal/tandtc/ttsktand/43713043?pers_
id=1751942&folder_id=&item_id=225618731&p_
details=1, cập nhật ngày 08/12/2017.
36 SỐ 99 [01 - 2018]
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
động của các cơ quan tiến hành tố tụng”
trong Luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng
hành chính, Luật tố tụng dân sự...
Việc BLHS năm 2015 đã sửa đổi khái
niệm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
không chỉ xuất phát từ ý nghĩa tố tụng
của hoạt động này, mà vấn đề là ở chỗ
cần thiết phải bảo vệ bằng các biện pháp
pháp luật hình sự đối với hoạt động tư
pháp với tính cách là hoạt động xét xử
và các hoạt động khác liên quan hoặc bổ
trợ cho hoạt động xét xử. Theo đó, trong
một số trường hợp, các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp có thể xâm phạm đến
02 khách thể là: Hoạt động đúng đắn của
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng; và quyền tự do dân chủ của công
dân5 (bức cung, dùng nhục hình, truy
cứu trách nhiệm hình sự người không có
tội). Đây chính là đặc điểm giúp phân
biệt các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
với các tội xâm phạm trật tự quản lý hành
chính, trật tự công cộng, các tội xâm
phạm quyền tự do, dân chủ của công dân.
2. Sửa đổi, bổ sung phạm vi chủ thể
thực hiện tội phạm, đối tượng tác động
của tội phạm trong cấu thành tội phạm
của 15 tội
Trên thực tế, các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng có nhiệm vụ
đấu tranh phòng, chống tội phạm và các
vi phạm pháp luật khác, giải quyết các
tranh chấp trên cơ sở pháp luật và các
nguyên tắc của tố tụng, bảo đảm thi hành
các bản án và quyết định của cơ quan xét
xử nhưng khi bị các hành vi nguy hiểm
cho xã hội xâm phạm đến thì chính hoạt
động đúng đắn đó lại trở thành đối tượng
xâm hại của tội phạm. Chính đặc điểm
này giúp nhà làm luật xác định được
tính chất nguy hiểm cho xã hội của các
hành vi phạm tội xâm phạm hoạt động
tư pháp, từ đó mà xây dựng một cách đầy
đủ và hoàn chỉnh các cấu thành tội phạm
cụ thể trong nhóm tội xâm phạm hoạt
động tư pháp, tránh được việc quy định
các hành vi chưa cần thiết xử lý hình sự
vào Chương các tội xâm phạm hoạt động
tư pháp, đồng thời cũng tránh những
chỗ hổng, bỏ lọt một số hành vi nguy
hiểm xâm phạm đến hoạt động tư pháp
trong BLHS.
Cùng với việc sửa đổi khái niệm các
tội xâm phạm hoạt động tư pháp theo
hướng mở rộng nêu trên, tại một số tội
phạm cụ thể thì phạm vi chủ thể thực
hiện tội phạm hoặc đối tượng tác động
của tội phạm cũng được điều chỉnh theo
hướng mở rộng nhằm bảo đảm phù hợp
với quy định của Hiến pháp năm 2013,
Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản
pháp luật có liên quan khác, bảo đảm
việc áp dụng điều luật được chính xác,
thống nhất. Cụ thể như sau:
+ Sửa đổi cơ bản về cấu thành tội
phạm của tội dùng nhục hình (khoản 1
Điều 373), theo đó, mở rộng chủ thể thực
5 Xem Nguyễn Tất Viễn, Các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb, Tư
pháp, Hà Nội, năm 2016, tr. 42.
TẠP CHÍ KHGD CSND 37
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
hiện hành vi không chỉ ở các giai đoạn
tố tụng, thi hành án mà cả ở giai đoạn
áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành
chính. Chủ thể của tội dùng nhục hình
được bổ sung thêm loại chủ thể có liên
quan trong áp dụng các biện pháp cưỡng
chế hành chính. Cùng với đó, ngoài hành
vi dùng vũ lực, nếu có hành vi đối xử tàn
bạo, hạ nhục nhân phẩm (bạo lực tinh
thần) đối với người khác dưới bất kỳ
hình thức nào cũng cấu thành tội phạm
này, cụ thể: “Người nào trong hoạt động tố
tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc mà dùng nhục hình hoặc
đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của
người khác dưới bất kỳ hình thức nào”.
+ Chủ thể của tội bức cung (Điều 374)
được bổ sung thêm loại chủ thể có liên
quan trong áp dụng các biện pháp cưỡng
chế hành chính, theo đó chủ thể của tội
phạm này là người nào trong hoạt động
tố tụng; đồng thời mở rộng phạm vi xử lý
hình sự, theo đó, chỉ cần có hành vi trái
pháp luật ép buộc người khai báo phải
khai ra thông tin liên quan đến vụ án,
vụ việc là cấu thành tội phạm này, kể cả
thông tin đúng cũng như thông tin sai sự
thật6 để nội luật hóa Công ước của Liên
hợp quốc về chống tra tấn và các hình
thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô
nhân đạo hoặc hạ nhục con người năm
19847 mà Việt Nam là thành viên. Khoản
1 Điều 374 quy định cụ thể: “Người nào
trong hoạt động tố tụng mà sử dụng thủ
đoạn trái pháp luật ép buộc người bị lấy
lời khai, người bị hỏi cung phải khai ra
thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc, thì
bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
+ Sửa đổi cấu thành tội phạm của tội
ra quyết định trái pháp luật (Điều 371),
theo đó mở rộng chủ thể là người có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi
hành án đảm bảo thống nhất với khái
niệm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
quy định tại Điều 367; quy định rõ hậu
quả do hành vi phạm tội này gây ra và cụ
thể hành vi phạm tội như sau: Người nào
có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng,
thi hành án ra quyết định mà mình biết
rõ là trái pháp luật gây thiệt hại về tài sản
từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng hoặc gây thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, nếu không thuộc trường
6 BLHS năm 1999 quy định, hành vi cấu thành tội
phạm này phải là hành vi trái pháp luật buộc người
bị thẩm vấn phải khai sai sự thật và gây hậu quả
nghiêm trọng.
7 Khoản 1 Điều 4 Công ước của Liên hợp quốc về
chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng
phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người
năm 1984 quy định: Mỗi quốc gia thành viên phải
bảo đảm rằng mọi hành vi tra tấn đều cấu thành tội
phạm theo luật hình sự của nước mình.
8 Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có
tội; Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người
có tội; Tội ra bản án trái pháp luật; Tội lợi dụng
chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp
luật; Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang
bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù.
38 SỐ 99 [01 - 2018]
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
hợp quy định tại các điều 368, 369, 370,
377 và 3788 của Bộ luật này, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
+ Sửa đổi tên điều luật “Tội ép buộc
nhân viên tư pháp làm trái pháp luật”
(Điều 297 BLHS năm 1999) thành “Tội ép
buộc người có thẩm quyền trong hoạt động
tư pháp làm trái pháp luật” (Điều 372
BLHS năm 2015). Đồng thời, sửa đổi cấu
thành tội phạm của tội ép buộc nhân viên
tư pháp làm trái pháp luật, theo đó thay
thuật ngữ “nhân viên tư pháp” bằng thuật
ngữ “người có thẩm quyền trong hoạt động
tố tụng, thi hành án” đảm bảo thống nhất
với quy định của pháp luật hiện hành; quy
định rõ hậu quả do hành vi phạm tội này
gây ra và cụ thể hóa hành vi phạm tội, cụ
thể như sau: “Người nào lợi dụng chức vụ,
quyền hạn ép buộc người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng, thi hành án làm
trái pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân hoặc gây thiệt hại về tài sản
từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm”. Theo đó, đối tượng tác động của
tội phạm này được mở rộng so với tội
phạm ép buộc nhân viên tư pháp làm trái
pháp luật quy định tại Điều 297 BLHS
năm 1999, không chỉ là nhân viên tư pháp
mà là tất cả những người có thẩm quyền
trong hoạt động tư pháp.
+ Hình sự hóa đối với hành vi làm
sai lệch hồ sơ vụ việc và bổ sung vào cấu
thành tội phạm của tội làm sai lệch hồ
sơ vụ án, vụ việc (Điều 375) cho thống
nhất với quy định của pháp luật tố tụng
hình sự, tố tụng dân sự hiện hành; mở
rộng phạm vi chủ thể của tội này, theo đó
ngoài Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, người
bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự thì người khác có
nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động tư
pháp (chẳng hạn như người phiên dịch,
người giám định), người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bị hại cũng có thể
trở thành chủ thể của tội này vì họ có cơ
hội tiếp xúc với hồ sơ vụ án, vụ việc.
+ Sửa đổi cấu thành tội phạm của tội
thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người
bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp
hành án phạt tù trốn (Điều 376), theo đó
thay cụm từ “người bị giam, tạm giữ” bằng
cụm từ “người bị bắt, người bị tạm giữ,
tạm giam, người đang chấp hành án phạt
tù”. So với quy định tại Điều 301 BLHS
năm 1999, Điều 376 BLHS năm 2015
đã quy định cụ thể thiếu trách nhiệm là
hành vi “không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng các quy định về quản lý, canh
gác, áp giải”. Cụ thể như sau:
“1. Người nào được giao trách nhiệm
trực tiếp quản lý, canh gác, áp giải người
bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người
đang chấp hành án phạt tù mà không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy
định về quản lý, canh gác, áp giải để người
thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc
TẠP CHÍ KHGD CSND 39
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
tội phạm nghiêm trọng trốn thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm vụ án bị tạm đình chỉ;
b) Người bỏ trốn trả thù người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng;
c) Người bỏ trốn tiếp tục thực hiện
tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm
nghiêm trọng”.
+ Sửa đổi cấu thành tội phạm của tội
lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ,
giam người trái pháp luật (Điều 377),
theo đó ngoài hành vi không ra quyết
định trả tự do và không chấp hành quyết
định trả tự do cho người được trả tự do
theo quy định của luật như trong Bộ luật
Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm
2015 còn quy định các hành vi cấu thành
tội phạm như sau: Ra lệnh, quyết định
bắt, giữ, giam người không có căn cứ theo
quy định của luật; Thực hiện việc bắt, giữ,
giam người không có lệnh, quyết định
theo quy định của luật hoặc tuy có lệnh,
quyết định nhưng chưa có hiệu lực thi
hành; Không ra lệnh, quyết định gia hạn
tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ
biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời
hạn tạm giữ, tạm giam dẫn đến người bị
tạm giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn.
+ Sửa đổi cấu thành tội phạm của tội
tha trái pháp luật người bị bắt, người
đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang
chấp hành án phạt tù (Điều 378), theo
đó thay cụm từ “người bị giam, tạm giữ”
bằng cụm từ “người bị bắt, người đang bị
tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành
án phạt tù” cho thống nhất với quy định
của pháp luật hiện hành.
+ Sửa đổi, bổ sung cấu thành tội phạm
của tội không chấp hành án (Điều 380),
theo đó bổ sung trường hợp “đã bị xử
phạt hành chính về hành vi này mà còn
vi phạm” và bỏ hình phạt cải tạo không
giam giữ, đồng thời giảm mức phạt tù
từ 06 tháng đến 03 năm xuống còn từ
03 tháng đến 02 năm trong khoản 1 của
Điều luật, cụ thể như sau: “Người nào có
điều kiện mà không chấp hành bản án
hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp
cưỡng chế theo quy định của pháp luật
hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt
tù từ 03 tháng đến 02 năm”.
+ Mở rộng chủ thể của tội cung cấp
tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối
(Điều 382), gồm người định giá tài sản,
người dịch thuật, người bào chữa.
+ Sửa đổi cấu thành tội phạm của tội
từ chối khai báo, từ chối kết luận giám
định, định giá tài sản hoặc từ chối cung
cấp tài liệu (Điều 383), theo đó thay vì
quy định chung chung như trước đây,
Điều luật quy định cụ thể chủ thể của tội
phạm gồm người làm chứng, người giám
định, người định giá tài sản, người dịch
thuật; không quy định trách nhiệm hình
sự đối với hành vi từ chối khai báo mà
40 SỐ 99 [01 - 2018]
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
không có lý do chính đáng của người bị
hại vì họ đã bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản nên nếu họ từ chối khai báo,
từ chối việc được bồi thường thiệt hại do
tội phạm gây ra mà xử lý hình sự đối với
họ là không thỏa đáng.
Đồng thời, BLHS năm 2015 loại trừ
trách nhiệm hình sự đối với người làm
chứng là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh
chị em ruột, vợ hoặc chồng của người
phạm tội. Trước đây, theo quy định tại
Điều 308 BLHS năm 1999, chủ thể của tội
từ chối khai báo, kết luận giám định hoặc
từ chối cung cấp tài liệu có thể là người
tham gia tố tụng như giám định viên,
phiên dịch viên,... và còn có thể là người
làm chứng, người chứng kiến, người biết
rõ về tội phạm mà từ chối khai báo,... Tuy
nhiên, thực tiễn đấu tranh phòng, chống
tội phạm đã cho thấy, do chúng ta chưa
có cơ chế hữu hiệu để bảo vệ nhân chứng
nên người dân ít khi chủ động khai báo,
thậm chí là buộc phải từ chối khai báo để
tự bảo vệ mình và gia đình khỏi sự đe doạ
của bọn phạm tội. Do đó, một khi Nhà
nước chưa có cơ chế bảo vệ người làm
chứng thì không nên buộc họ phải chịu
trách nhiệm hình sự nếu từ chối khai báo.
Khoản 1 Điều 383 BLHS năm 2015 quy
định cụ thể như sau: “Người làm chứng
nếu không thuộc trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 19 của Bộ luật này9, người
giám định, người định giá tài sản, người
dịch thuật từ chối khai báo, trốn tránh
việc kết luận giám định, định giá tài sản
hoặc từ chối cung cấp tài liệu mà không
có lý do chính đáng, thì bị phạt cảnh cáo,
phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm
hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm”.
+ Quy định cụ thể hành vi phạm tội
mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác
trong việc khai báo, cung cấp tài liệu
(Điều 384) và bổ sung đối tượng có thể
bị mua chuộc, cưỡng ép gồm đương sự
trong các vụ án hình sự, hành chính, dân
sự; người định giá tài sản, người dịch
thuật. Cụ thể như sau: “Người nào mua
chuộc hoặc cưỡng ép người làm chứng,
người bị hại, đương sự trong các vụ án
hình sự, hành chính, dân sự khai báo
gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc
không khai báo, không cung cấp tài liệu;
mua chuộc hoặc cưỡng ép người giám
định, người định giá tài sản kết luận gian
dối, người phiên dịch, người dịch thuật
dịch xuyên tạc, thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03
tháng đến 03 năm”.
+ Hình sự hóa hành vi giải tỏa việc
phong tỏa tài khoản mà không có quyết
định của người có thẩm quyền trong
cấu thành tội phạm của tội vi phạm việc
niêm phong, kê biên tài sản, phong tỏa
tài khoản (Điều 385). Cụ thể như sau:
9 Khoản 2 Điêu 19 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy
định người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con,
cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người
phạm tội không phải chịu trách nhiệm theo quy
định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không
tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật
này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
TẠP CHÍ KHGD CSND 41
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
“Người nào được giao giữ, quản lý tài sản
bị kê biên, bị niêm phong hoặc vật chứng
bị niêm phong, tài khoản bị phong tỏa mà
thực hiện một trong các hành vi sau đây,
thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02
năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Phá huỷ niêm phong, giải tỏa việc
phong tỏa tài khoản mà không có quyết
định của người có thẩm quyền;
b) Tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh
tráo, cất giấu hoặc huỷ hoại tài sản bị
kê biên”.
+ Thay cụm từ “Người nào đang bị
giam, giữ, đang bị dẫn giải” bằng cụm từ
“Người nào đang bị tạm giữ, tạm giam, áp
giải”; bổ sung chủ thể là người đang chấp
hành án phạt tù trong cấu thành tội phạm
của tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn
khi đang bị áp giải, đang bị xét xử (Điều
386). Cụ thể như sau: “Người nào đang
bị tạm giữ, tạm giam, áp giải, xét xử hoặc
chấp hành án phạt tù mà bỏ trốn, thì bị
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
+ Thay cụm từ “Người nào đánh tháo
người đang bị giam, giữ, đang bị dẫn
giải” bằng cụm từ “Người nào đánh tháo
người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người
đang bị áp giải” trong cấu thành tội
phạm của tội đánh tháo người bị bắt, bị
tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải,
xét xử, chấp hành án phạt tù (Điều 387)
cho thống nhất với các luật khác; bổ sung
đối tượng tác động là người đang bị chấp
hành án phạt tù và bỏ quy định “gây hậu
quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng” tại khoản 2 của
Điều luật.
+ Bổ sung các trường hợp che giấu
tội phạm phải chịu trách nhiệm hình
sự trong cấu thành tội phạm của tội che
giấu tội phạm (Điều 389) ở 11 điều luật
như: Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc
bộ phận cơ thể người (Điều 154); Tội vi
phạm quy định về quản lý, sử dụng tài
sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí
(Điều 219); Tội vi phạm quy định về
quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây
hậu quả nghiêm trọng (Điều 220); Tội vi
phạm quy định về kế toán gây hậu quả
nghiêm trọng (Điều 221)
- Điều 390 (Tội không tố giác tội
phạm) bổ sung quy định loại trừ nếu
không thuộc trường hợp quy định tại
khoản 2 và khoản 3 Điều 19 của Bộ luật
này10. Cụ thể như sau: Người nào biết
rõ một trong các tội phạm quy định tại
khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 14 của Bộ
10 Khoản 2 Điều 19 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy
định người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con,
cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người
phạm tội không phải chịu trách nhiệm theo quy
định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không
tố giác các tội quy định tài Chương XIII của Bộ
luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
Khoản 3 Điều 19 quy định người không tố giác
tội phạm là người bào chữa không phải chịu trách
nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này,
trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại
Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà
mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc
đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực
hiện việc bào chữa.
42 SỐ 99 [01 - 2018]
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
luật này đang được chuẩn bị hoặc một
trong các tội phạm được quy định tại
Điều 389 của Bộ luật này đang được thực
hiện hoặc đã được thực hiện mà không
tố giác, nếu không thuộc trường hợp quy
định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 19 của
Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
3. Bổ sung 02 tội mới
- Tội vi phạm quy định về giam giữ
(Điều 388)
Thực tiễn cho thấy việc hình sự hoá
một số hành vi phạm của phạm nhân
cũng như của cán bộ thực thi nhiệm vụ
tại các cơ sở giam giữ là cần thiết nhằm
bảo đảm an ninh, an toàn cho các cơ sở
giam giữ, góp phần nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng, chống các hành vi vi
phạm, tạo môi trường lành mạnh cho các
đối tượng cải tạo, trong sạch hoá đội ngũ
cán bộ, nâng cao niềm tin của nhân dân
đối với cơ quan thực thi pháp luật. Hoạt
động quản lý các cơ sở giam giữ trong
những năm gần đây cho thấy, tình trạng
vi phạm pháp luật tại các cơ sở này của
người chấp hành án ngày càng gia tăng
cả về số lượng lẫn tính chất phức tạp và
mức độ nghiêm trọng. Một số vi phạm
chủ yếu như nổi loạn, gây rối, chống phá
các cơ sở giam giữ; chế tạo vận chuyển,
mua bán, tàng trữ, sử dụng máy móc,
thiết bị thông tin liên lạc tại cơ sở giam
giữ;... nhiều trường hợp, phạm nhân móc
nối với cán bộ quản giáo, các cơ sở bên
ngoài để thực hiện các hành vi vi phạm11.
Chính vì vậy, BLHS năm 2015 đã hình sự
hóa hành vi vi phạm quy định về giam
giữ và quy định tại điều 388, để bảo đảm
an ninh, an toàn cho các cơ sở giam giữ,
góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng, chống các hành vi vi phạm, tạo
môi trường lành mạnh cho các đối tượng
cải tạo, trong sạch hoá đội ngũ cán bộ,
nâng cao niềm tin của nhân dân đối với
cơ quan thực thi pháp luật.
Cấu thành cơ bản tội vi phạm quy
định về giam giữ có hai dạng hành vi
khách quan:
- Gây rối hoặc chống lại mệnh lệnh
của người có thẩm quyền trong quản lý
giam giữ (điểm a Khoản 1 Điều 388);
- Hành vi của người không có trách
nhiệm mà đưa vào, tàng trữ, sử dụng
thiết bị thông tin liên lạc cá nhân hoặc
phương tiện ghi âm, ghi hình trong cơ sở
giam giữ (điểm b Khoản 1 Điều 388).
Người thực hiện hành vi nêu trên chỉ
cấu thành tội phạm khi thuộc một trong
các trường hợp: Đã bị xử lý kỷ luật mà
còn vi phạm; hoặc là đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về một trong các hành
vi này mà còn vi phạm; hoặc là đã bị kết
án về tội này, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm.
- Tội gây rối trật tự phiên tòa, phiên
họp (Điều 391)
11 Ban soạn thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi), Bản
thuyết minh chi tiết về Dự thảo Bộ luật hình sự (sửa
đổi), Hà Nội, tháng 4/2015, tr. 121 - 122.
TẠP CHÍ KHGD CSND 43
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Thực tiễn trong những năm gần đây
cho thấy, nhiều phiên tòa đã bị tạm
ngừng hoặc bị gây rối nghiêm trọng do
người tham dự phiên tòa, đặc biệt là
người phạm tội, người thân của người
bị hại mắng chửi, thóa mạ, hành hung
Hội đồng xét xử, đập phá tài sản ngay tại
phòng xét xử gây ảnh hưởng xấu trong
dư luận xã hội, làm giảm uy nghiêm của
cơ quan công quyền12. Để góp phần khắc
phục tình trạng này, BLHS năm 2015 đã
hình sự hóa hành vi thoá mạ, xúc phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của
Thẩm phán, Hội thẩm, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng khác (như Kiểm
sát viên, Thư ký Tòa án) và những người
tham gia phiên tòa, phiên họp hoặc có
hành vi đập phá tài sản, bảo đảm sự tôn
nghiêm của pháp luật, trật tự tại phiên
toà, phiên họp, bảo vệ tính mạng, sức
khỏe của những người thực thi pháp luật
tại phiên tòa, phiên họp.
Về cấu thành tội phạm:
+ Khoản 1 điều luật là cấu thành cơ
bản quy định việc xử lý hình sự đối với
người nào tại phiên tòa, phiên họp mà
thóa mạ, xúc phạm nghiêm trọng danh
dự, nhân phẩm của Thẩm phán, Hội
thẩm, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng khác hoặc người tham gia phiên
tòa, phiên họp hoặc có hành vi đập phá
tài sản, nếu không thuộc trường hợp quy
định tại Điều 178 của Bộ luật Hình sự.
+ Khoản 2 quy định về các tình tiết
định khung tăng nặng với các tình tiết:
“Dẫn đến phải dừng phiên tòa, phiên
họp”, “Hành hung Thẩm phán, Hội thẩm,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
khác, nếu không thuộc trường hợp quy
định tại Điều 134 của Bộ luật này”.
4. Về một số vấn đề cần lưu ý khi áp
dụng
- Đối với quy định tại Điều 370 (Tội
ra bản án trái pháp luật) và quy định
tại Điều 371 (Tội ra quyết định trái
pháp luật).
So với quy định của BLHS năm 1999,
quy định tại khoản 1 Điều 370 và khoản 1
Điều 371 BLHS năm 2015 vẫn giữ nguyên
cấu thành cơ bản quy định người ra bản
án, quyết định mà mình biết rõ là trái
pháp luật thì phải chịu trách nhiệm pháp
lý. Vì vậy, để có thể truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với Thẩm phán, Hội thẩm hay
người có thẩm quyền khác về tội này thì
bắt buộc cơ quan tiến hành tố tụng phải
chứng minh được lỗi của người phạm tội
là lỗi cố ý13. Theo đó, họ phải biết và biết
rõ là bản án, quyết định đó là trái pháp
luật thì mới phải chịu trách nhiệm hình
sự. Đối với trường hợp ra bản án, quyết
12 Ban soạn thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi), Bản
thuyết minh chi tiết về Dự thảo Bộ luật hình sự (sửa
đổi), Hà Nội, tháng 4/2015, tr. 122 - 123.
13 Xem Nguyễn Hòa Bình, Chuyên đề những nội
dung mới sửa đổi, bổ sung trong Chương các tội
phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của Bộ luật
Hình sự năm 2015,
page/portal/tandtc/ttsktand/43713043?pers_
id=1751942&folder_id=&item_id=225618731&p_
details=1, cập nhật ngày 08/12/2017.
44 SỐ 99 [01 - 2018]
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
định trái pháp luật, bị hủy nhưng không
phải do lỗi cố ý của người có thẩm quyền
thì họ không thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội phạm này.
- Đối với quy định tại Điều 377 (Tội
lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ,
giam người trái pháp luật)
Điểm d và điểm đ khoản 1 Điều 377
BLHS năm 2015 quy định:
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền
hạn thực hiện một trong các hành vi sau
đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
.....
d) Thực hiện việc bắt, giữ, giam người
không có lệnh, quyết định theo quy định
của luật hoặc tuy có lệnh, quyết định
nhưng chưa có hiệu lực thi hành;
đ) Không ra lệnh, quyết định gia hạn
tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ
biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời
tạm giữ, tạm giam dẫn đến người bị tạm
giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn.”
Theo đó, trong mọi trường hợp người
có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ,
quyền hạn thực hiện việc không ra lệnh,
quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam
hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ,
tạm giam khi hết thời tạm giữ, tạm giam
dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị
giam, giữ quá hạn đều phải chịu trách
nhiệm hình sự. Do đó, trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự các đồng chí Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra
trong Công an nhân dân phải hết sức lưu
ý, không để xảy ra tình trạng do sơ suất
dẫn đến việc giữ người không có lệnh.
T.N.Đ
Tài liệu tham khảo
1. Ban soạn thảo Bộ luật hình sự (sửa
đổi), Bản thuyết minh chi tiết về Dự thảo
Bộ luật hình sự (sửa đổi), Hà Nội, tháng
4/2015.
2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 48/NQ-
TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020.
3. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49/NQ-
TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.
4. Nguyễn Hòa Bình, Chuyên đề những
nội dung mới sửa đổi, bổ sung trong
Chương các tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp của Bộ luật Hình sự năm
2015,
portal/tandtc/ttsktand/43713043?pers_
i d = 1 7 5 1 9 4 2 & f o l d e r _ i d = & i t e m _
id=225618731&p_details=1, cập nhật
ngày 08/12/2017.
5. Đại hội đồng Liên hợp quốc, Công
ước chống tra tấn và các hình thức đối
xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo
hoặc hạ nhục con người, thông qua ngày
10/12/1984 theo Nghị quyết 39/46, có
hiệu lực từ ngày 26/6/1987.
6. Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam, Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10.
(Nhận bài: 07/01/2018; hoàn thành biên tập: 15/01/2018; duyệt đăng: 25/01/2018)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_diem_moi_sua_doi_bo_sung_trong_chuong_cac_toi_xam_pham.pdf