Quyền địa dịch trong quan hệ với
quyền sử dụng đất đối với đất trên đó có tài
sản: Sở hữu các tài sản gắn liền với đất,
người có quyền sở hữu bề mặt muốn thực
hiện quyền sở hữu của mình nhất thiết phải
xác lập được quyền chi phối đối với quyền
của người sử dụng đất. Ở điểm này, quan hệ
giữa người có quyền sở hữu bề mặt và người
sử dụng đất giống như quan hệ giữa hai chủ
sở hữu bất động sản hưởng địa dịch và bất
động sản chịu địa dịch.
Trong chừng mực nào đó, có thể tin
rằng bất động sản đối tượng của quyền sở
hữu bề mặt luôn là bất động sản bị vây bọc:
không có quyền sử dụng đất, người có quyền
sở hữu bề mặt không bao giờ có thể tiếp xúc
với đường công cộng, thiết bị công cộng mà
không động chạm đến đất đai thuộc quyền
sử dụng của người khác. Một cách hợp lý,
bất động sản thứ nhất mà người có quyền sở
hữu bề mặt phải đi qua trong quá trình thiết
lập sự thông thương với bên ngoài là bất
động sản của người có quyền sử dụng đối với
đất có tài sản thuộc sở hữu bề mặt. Nói cách
khác, bất động sản của người có quyền sử
dụng đối với đất có tài sản thuộc sở hữu bề
mặt ở trong tình trạng phục vụ bắt buộc đối
với bất động sản thuộc sở hữu bề mặt.
Mặt khác, việc khai thác quyền bề mặt
dẫn đến việc tạo lập các vật kiến trúc, cây
trồng. Trong những trường hợp đặc thù,
những giới hạn, hạn chế có thể được áp đặt
đối với việc tạo lập các tài sản này, nhằm
phục vụ cho việc khai thác năng lực còn lại
của quyền sử dụng đất hoặc ngược lại, cần
hạn chế năng lực của quyền sử dụng đất để
tạo thuận lợi cho việc khai thác quyền bề
mặt. Các quan hệ này mang đầy đủ ý nghĩa
của quyền địa dịch.
Về đăng ký: Theo Điều 269 BLDS
năm 2015, quyền bề mặt có hiệu lực từ thời
điểm chủ thể có quyền sử dụng đất chuyển
giao mặt đất, mặt nước, khoảng không gian
trên mặt đất, mặt nước và lòng đất cho chủ
thể có quyền bề mặt, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật liên quan có quy định
khác.
Ở các nước, trong trường hợp quyền
bề mặt có đối tượng là một khoảng không
gian, thì phải dùng các công cụ kỹ thuật để
xác định vị trí của khoảng không gian này
và mô tả vị trí ấy bằng các toạ độ16. Còn
trong trường hợp đối tượng của quyền bề
mặt là các vật kiến trúc, thì tất nhiên phải
đăng ký.
Trong luật Việt Nam hiện hành, việc
đăng ký bất động sản chỉ mang ý nghĩa bắt
buộc đối với quyền sử dụng đất. Các tài sản
gắn liền với đất cũng chỉ được đăng ký trong
cùng sổ đăng ký quyền sử dụng đất như một
phần bổ sung quyền của người sử dụng đất.
Không có quy định đăng ký độc lập bắt buộc
đối với tài sản gắn liền với đất. Bởi vậy,
quyền bề mặt, trên nguyên tắc, không phải
đăng ký.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những điểm mới về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản trong bộ luật dân sụ năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Quan niệm mới về chiếm hữu
Trước khi có BLDS năm 2015, BLDS
năm 2005 ghi nhận chiếm hữu như là một
quyền và là một phần nội dung của quyền
sở hữu. Theo quy định tại Điều 182 BLDS
năm 2005, quyền chiếm hữu là quyền nắm
giữ, quản lý tài sản. Trong những hệ quả tất
yếu của việc thừa nhận quyền chiếm hữu là
một nội dung của quyền sở hữu là sự ra đời
của khái niệm “chiếm hữu có căn cứ pháp
luật”, một khái niệm đậm chất hành chính,
quản lý công (Điều 183). Khái niệm này
kích thích xu hướng tìm kiếm căn cứ để
đánh giá tính hợp pháp của việc nắm giữ tài
sản ngay cả trong trường hợp không có ai
tranh chấp về quyền sở hữu. Đơn giản, trong
điều kiện việc chiếm hữu được coi là việc
thực hiện một quyền của chủ sở hữu, người
8
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
NHÛÄNG ÀIÏÍM MÚÁI VÏÌ QUYÏÌN SÚÃ HÛÄU VAÂ CAÁC QUYÏÌN KHAÁC
ÀÖËI VÚÁI TAÂI SAÃN TRONG BÖÅ LUÊÅT DÊN SÛÅ NÙM 2015
Nguyễn Ngọc Điện*
* PGS,TS. Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: vật quyền, quyền địa
dịch, quyền hưởng dụng,
quyền bề mặt, chiếm hữu.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 01/03/2017
Biên tập: 21/03/2017
Duyệt bài: 27/03/2017
Article Infomation:
Keywords: Right in rem,
servitude, usufruct,
superficies, possession
Article History:
Received: 01 Mar. 2017
Edited: 21 Mar. 2017
Approved: 27 Mar. 2017
Tóm tắt:
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 kế thừa, đồng thời phát triển những
thành tựu của BLDS năm 2005 về phần liên quan đến pháp luật tài sản.
Quyền trực tiếp đối với tài sản được thừa nhận trong BLDS năm 2015
không chỉ là quyền của chủ sở hữu, mà còn mang những dạng thức đặc
thù tuỳ theo hoàn cảnh và có thể được trao cho những chủ thể khác,
không phải là chủ sở hữu. Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài
sản được xây dựng như một tổng thể các vật quyền mà trong đó, quyền
sở hữu chiếm vị trí trung tâm. BLDS năm 2015 cũng xây dựng quan niệm
mới và đúng đắn về chiếm hữu, tạo điều kiện cho việc tháo gỡ một loạt
vướng mắc trong thực tiễn, đặc biệt là vướng mắc liên quan đến việc xử
lý tài sản mà nguồn gốc pháp lý không cần hoặc không thể được làm rõ
trong một số trường hợp đặc thù.
Abstract:
The Civil Code of 2015 inherites and develops the achievements of the
Civil Code of 2005 as far as the property law is concerned. In addition
to the onwnership, the new Civil Code ankowledges other real rights.
The onwership and other real rights constitute a system of rights on assets
in which the onwerhsip is considered as hard core. As well, the concept
of possession is correctly rewritten in the new Civil Code and that is
expected to facilitate the solution of many problems having occured in
practice and relating the assets whose legal origin needs not to or cannot
be exactly revealed.
chiếm hữu phải cho thấy mình có ít nhiều
quan hệ chính thống với chủ sở hữu (nếu
không phải là chủ, thì phải được chủ trao
quyền nắm giữ tài sản; nếu không nữa, thì
phải ở trong tình trạng người chiếm hữu
ngay tình).
Nói cách khác, với quyền chiếm hữu
được thừa nhận là một phần nội dung của
quyền sở hữu, thì tự việc chiếm hữu công
khai và bình yên không đủ để giúp người
chiếm hữu có được sự bảo vệ của pháp luật
trong trường hợp sự chiếm hữu bị xâm hại.
Chiếm hữu còn phải có nguồn gốc pháp lý
được xác định. Hơn nữa, nguồn gốc chiếm
hữu phải hợp pháp thì chiếm hữu mới được
thừa nhận và bảo vệ1.
Khác với BLDS năm 2005, BLDS
năm 2015 không định nghĩa quyền chiếm
hữu với ý nghĩa là một trong ba thành tố của
quyền sở hữu. Theo quy định tại Điều 186
BLDS năm 2015, chủ sở hữu được thực hiện
mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ,
chi phối tài sản của mình, nhưng không
được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Với quy
định như thế, luật có xu hướng dùng các nội
dung của quyền sử dụng để mô tả quyền
chiếm hữu; bản thân quyền chiếm hữu
không có nội hàm riêng.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 179
BLDS năm 2015, chiếm hữu là việc chủ thể
nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với
tài sản đó. “Như” có nghĩa là có thể thực sự
có quyền mà cũng có thể không. Dẫu sao,
việc có quyền hay không có quyền không
quan trọng. Như vậy, chiếm hữu đã được
thừa nhận là một quan hệ thực tế như trong
luật các nước2.
Trong thực tế cuộc sống, người nắm
giữ, quản lý tài sản có thể là chủ sở hữu,
cũng có thể chỉ là người thuê, mượn tài sản
để sử dụng, thậm chí có thể là người chiếm
đoạt tài sản sau một vụ trộm hoặc cướp. Đối
với mọi người khác, trong hoàn cảnh sống
bình thường, khi thấy một người nắm giữ
một tài sản trong tư thế của một người có
quyền của chủ sở hữu, thì người ta ghi nhận,
nhìn nhận và thừa nhận, từ đó ứng xử một
cách tương thích: người nhận giữ xe máy
tiếp nhận chiếc xe do người lái xe máy
chuyển giao và chấp nhận giao kết hợp đồng
gửi giữ; người thấy người khác đang nắm
giữ điện thoại di động và muốn sử dụng thì
hỏi mượn;
Là một tình trạng thực tế, nhưng
chiếm hữu lại phát sinh hiệu lực pháp lý như
một quan hệ giữa một người - gọi là người
chiếm hữu - và một vật, được pháp luật thừa
nhận, điều chỉnh. Sự chiếm hữu được bảo
vệ bằng chế độ đặc biệt, khác với chế độ bảo
vệ quyền sở hữu.
Về bảo vệ sự chiếm hữu, tư tưởng chủ
đạo là khi bảo vệ sự chiếm hữu, người ta bảo
vệ tình trạng vốn có, bảo vệ mối quan hệ
9
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
1 Tuy nhiên, thế nào là nguồn gốc hợp pháp thì luật lại không và không thể làm rõ. Trong thực tiễn, người ta thường
dừng lại một khi người chiếm hữu xuất trình được bằng chứng gì đó, do tự cảm thấy hài lòng với bằng chứng đó và
yên tâm cho rằng việc chiếm hữu là có căn cứ pháp luật. Chẳng hạn, người thuê nhà xuất trình hợp đồng thuê nhà hợp
lệ sẽ được coi là người chiếm hữu hợp pháp. Thật ra, đến lúc đó người ta vẫn chưa biết chắc liệu người chiếm hữu có
thực sự chiếm hữu có căn cứ pháp luật hay không, bởi vấn đề tư cách của bên cho thuê vẫn chưa được giải quyết.
Nhưng nếu đi tiếp, nghĩa là phải thẩm định tư cách của bên cho thuê, thì đến khi nào người ta mới có thể dừng lại để
khẳng định rằng mọi thứ đều đã đúng luật, hợp pháp và do đó, việc chiếm hữu đang xem xét là có căn cứ pháp luật?
2 Các Bộ luật hiện đại có xu hướng xây dựng các quy định chính thức về chiếm hữu để làm rõ mối quan hệ này, giúp
phân biệt quan hệ chiếm hữu với quyền sở hữu. Chẳng hạn, khoản 1 Điều 854 BLDS Đức (bản tiếng Anh trên
quy định: “Possession of a thing is acquired by obtaining actual
control of the thing”; Điều 921 BLDS Québec quy định: “La possession est l’exercice de fait, par soi-même ou par
l’intermédiaire d’une autre personne qui détient le bien, d’un droit réel dont on se veut titulaire” (tham khảo tại
CCQ-1991); Điều 543 dự thảo BLDS Pháp (sửa đổi) quy định:
“La possession est l’exercice paisible, public et non équivoque d’un droit par celui qui, alors même qu’il n’en serait
pas titulaire, se comporte, en fait et en intention, comme s’il l’était” (tham khảo tại:
age/app/media/pdfs/travaux/avant-projet-de-reforme-du-droit-des-biens-version-finale.pdf).
đang diễn ra một cách bình yên mà không
cần quan tâm đến bản chất của mối quan hệ
được bảo vệ. Theo quy định tại Điều 185
BLDS năm 2015, “Trường hợp việc chiếm
hữu bị người khác xâm phạm thì người chiếm
hữu có quyền yêu cầu người có hành vi xâm
phạm phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình
trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường
thiệt hại hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác buộc người đó
chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban
đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại”.
Người bị cướp phải được trả lại tài sản, vì
trước khi bị cướp, người này đang nắm giữ
tài sản một cách bình yên và trách nhiệm của
nhà chức trách là khôi phục tình trạng đó.
Cần nhấn mạnh rằng, sự bảo vệ người
chiếm hữu là việc làm cần thiết trước hết
nhằm duy trì trật tự xã hội. Đơn giản, việc
chiếm hữu đang diễn ra trước mắt mọi người
như là một phần của khung cảnh sống bình
yên trong xã hội. Việc ai đó có hành vi xâm
phạm sự chiếm hữu của người khác bằng
kiểu ứng xử lệch chuẩn, thậm chí trái pháp
luật, như chiếm đoạt bằng vũ lực, phải bị
ngăn chặn, xử lý. Trong vụ cướp túi xách,
giả sử nạn nhân của vụ cướp tình cờ gặp lại
tên cướp ở nơi công cộng với chiếc túi xách
trong tay, thì phải báo cho nhà chức trách để
có biện pháp xử lý vụ việc theo trình tự, thủ
tục đòi lại tài sản do pháp luật quy định. Nạn
nhân không được tự tiện xông tới dùng sức
mạnh cơ bắp, vũ khí để giành lại tài sản: nếu
nạn nhân làm việc đó, thì trong mắt mọi
người, nạn nhân có hành vi xâm phạm tài
sản của người khác, qua đó, xâm phạm trật
tự xã hội và phải bị chế tài.
2. Các điểm mới đáng chú ý liên quan đến
các quyền đối với tài sản
2.1 Địa dịch
Bản chất địa dịch là quan hệ giữa hai
bất động sản chứ không phải giữa hai chủ thể.
Trong pháp luật một số nước phương Tây, địa
dịch (servitude) được hiểu là một sự ràng
buộc mang ý nghĩa hạn chế đối với quyền của
chủ sở hữu một bất động sản nhằm phục vụ
cho việc khai thác hợp lý một bất động sản
khác3. Với định nghĩa đó, địa dịch được hình
dung như là quan hệ giữa hai bất động sản
chứ không phải giữa hai chủ thể.
Ví dụ điển hình về quan hệ địa dịch là
địa dịch sân bay: các bất động sản toạ lạc
trong phạm vi một đường bán kính nào đó,
tính từ tâm là sân bay, không thể được khai
thác quá một độ cao nào đó, để bảo đảm cho
sự lên xuống an toàn của máy bay.
Trong pháp luật Việt Nam, nhà làm
luật không dùng thuật ngữ địa dịch để chỉ
mối quan hệ ràng buộc đặc biệt giữa hai bất
động sản như trong pháp luật các nước mà
sử dụng một cụm từ dài hơn - Quyền đối với
bất động sản liền kề.
Theo quy định tại Điều 245 BLDS
năm 2015, “Quyền đối với bất động sản liền
kề là quyền được thực hiện trên một bất
động sản (gọi là bất động sản chịu hưởng
quyền) nhằm phục vụ cho việc khai thác
một bất động sản khác thuộc quyền sở hữu
của người khác (gọi là bất động sản hưởng
quyền)”. Quy định này chưa thực sự chính
xác, bởi lẽ địa dịch có thể ràng buộc hai bất
động sản nằm cách xa nhau, chứ không nhất
thiết liền kề. Địa dịch sân bay nêu trên là
một ví dụ.
Dẫu sao, phải thừa nhận rằng việc
BLDS năm 2015 định nghĩa chính thức mối
quan hệ ràng buộc giữa hai bất động động
sản, mà pháp luật một số nước phương Tây
gọi là địa dịch, là một nỗ lực đáng ghi nhận.
Trước đây, với khái niệm quyền sử dụng hạn
chế bất động sản liền kề được ghi nhận trong
BLDS năm 2005, mối quan hệ địa dịch là
10
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3 Xem Điều 637 BLDS Pháp: “Une servitude est une charge imposée sur un héritage pour l’usage et l’utilité d’un
héritage appartenant à un autre propriétaire”. Về khái niệm “servitude” trong luật của Anh: F. Lawson và B. Rudden,
The Law of Property, Oxford University Press, London, 2002, p. 153: “The name servitude is given to certain real
rights which burden one piece of land and benefit another owned by someone else”.
11
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Trong pháp luật của Pháp, nếu tình trạng bị vây bọc của một bất động sản có nguồn gốc từ một vụ phân chia bất động
sản, thì việc thiết lập địa dịch được thực hiện ưu tiên trên các bất động sản được tách ra từ vụ phân chia đó (Điều 684
BLDS Pháp). Luật Việt Nam cũng có giải pháp tương tự (khoản 3 Điều 254 BLDS năm 2015).
quan hệ giữa hai chủ sở hữu bất động sản,
chứ không phải giữa hai bất động sản.
Tất nhiên, pháp luật không cấm các
chủ sở hữu thoả thuận về việc áp đặt những
hạn chế đối với bất động sản của một người.
Các chủ sở hữu có thể coi đó là thoả thuận
riêng giữa các bên và không mang lại lợi ích
cho người khác. Chẳng hạn, hai chủ sở hữu
bất động sản liền kề thoả thuận về việc một
người cho phép người còn lại đi qua bất
động sản của mình để ra đường công cộng
và chỉ cho phép người đó chứ không phải
bất kỳ ai khác. Thoả thuận như thế không
tạo ra địa dịch mà chỉ tạo ra một trái quyền
có giá trị ràng buộc hai bên kết ước: một khi
người có quyền đi qua bán bất động sản của
mình và đi nơi khác, thì người mua không
đương nhiên được hưởng quyền đó.
Việc thừa nhận tính chất vật quyền của
quyền địa dịch tạo điều kiện cho việc giải
quyết hàng loạt vấn đề liên quan đến việc
khai thác bất động sản trong quan hệ láng
giềng. Đặc biệt, được nhìn nhận một cách rõ
ràng, quyền địa dịch trở thành một đối tượng
giao dịch được trong đời sống xã hội. Chẳng
hạn, chủ sở hữu một bất động sản nằm sâu
trong hẻm nhỏ có thể đi ra đường công cộng
nhanh hơn bằng cách băng qua bất động sản
tiếp giáp; thay vì thương lượng để mua trọn
bất động sản tiếp giáp (quá đắt), người này
có thể thương lượng mua “quyền địa dịch về
lối đi qua” (rẻ hơn nhiều).
BLDS năm 2015 còn ghi nhận một
điểm mới khác đáng chú ý liên quan đến
quyền về lối đi qua trong trường hợp bất
động sản bị vây bọc. Trước đây, khoản 1
Điều 274 BLDS năm 2005 quy định “Chủ
sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất
động sản của các chủ sở hữu khác mà không
có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong
những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành
cho mình một lối đi ra đường công cộng;
người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng
yêu cầu đó”. Điều luật quá ngắn gọn và có
điểm bất hợp lý (điểm in nghiêng), do đó,
trong thực tiễn, đã không áp dụng được một
cách suôn sẻ. Đúng là chủ bất động sản bị
vây bọc có quyền yêu cầu một trong số các
chủ bất động sản lân cận cho mình hưởng
quyền về lối đi ra. Thế nhưng, không hẳn
trong trường hợp nào chủ sở hữu được yêu
cầu cũng có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó.
Trong nhiều trường hợp, chủ sở hữu bất
động sản bị vây bọc đứng trước nhiều
phương án và các phương án có thể có mức
độ hợp lý rất khác nhau. Sự đánh giá của
những người trong cuộc về mức độ hợp lý
của từng phương án cũng có thể không
giống nhau, do cách nhìn nhận lợi ích không
như nhau. Bởi vậy, nếu có tranh cãi, thì toà
án giải quyết. Có trường hợp, sau khi cân
nhắc, toà án lại chỉ định một bất động sản
khác, chứ không phải bất động sản do người
có quyền về lối đi qua chỉ định, để đảm nhận
vai trò bất động sản phục vụ4. Điều đó có
nghĩa là, khi có đơn kiện, toà án phải mời tất
cả các chủ sở hữu bất động sản lân cận đến
để giải quyết, chứ không chỉ hai chủ sở hữu
bất động sản là hai bên của vụ kiện.
Để khắc phục hạn chế nêu trên, khoản
1 Điều 254 BLDS năm 2015 khẳng định,
chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc có quyền
yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc
(nghĩa là có thể yêu cầu nhiều, thậm chí tất
cả các chủ sở hữu bất động sản vây bọc).
2.2 Quyền hưởng dụng
Sự cần thiết của việc xây dựng chế
định quyền hưởng dụng, quyền hưởng dụng
là một quyền đối với tài sản mới được đưa
vào BLDS năm 2015. Tuy nhiên, trên thực
tế quyền này đã xuất hiện dưới các dạng
thức đặc thù. Có thể liệt kê một số ví dụ sau:
Ví dụ 1: Chủ sở hữu tặng cho tài sản
(thường là cho một người thân thuộc như
con, cháu trực hệ) nhưng không cho phép
người được tặng cho bán (nói chung là định
đoạt) tài sản.
Ví dụ 2: Cha mẹ có con đi học ở tỉnh,
thành phố xa; để tạo điều kiện cho con có
thu nhập ổn định trong thời gian học tập, cha
mẹ mua một bất động sản rồi trao cho con
toàn quyền khai thác bất động sản để thu hoa
lợi, nhưng cha mẹ vẫn đứng tên chủ sở hữu
tài sản trên sổ đăng ký.
Ví dụ 3: Cha mẹ vốn là cổ đông chiến
lược của một công ty cổ phần lớn. Khi lớn
tuổi, cha mẹ trao quyền cổ đông cho con,
nhưng vẫn giữ lại quyền nhận cổ tức để bảo
đảm thu nhập.
Ví dụ 4: Cha lập di chúc để tài sản lại
cho con, nhưng không cho phép con định
đoạt tài sản để mẹ còn sống có điều kiện
khai thác, thu hoa lợi...
Vì vậy, việc xây dựng chế định quyền
hưởng dụng trong BLDS năm 2015 đã tạo
hành lang rõ ràng, chặt chẽ để quyền hưởng
dụng có thể hình thành và được thực hiện
suôn sẻ mà không cần những điều khoản
rườm rà trong các thoả thuận hoặc cam kết
đơn phương cụ thể.
Xác lập quyền hưởng dụng do luật
hoặc do ý chí: Theo quy định tại Điều 258
BLDS năm 2015, quyền hưởng dụng được
xác lập theo quy định của luật, theo thoả
thuận hoặc theo di chúc. Tuy nhiên, cho đến
nay, chưa có luật nào quy định về các vấn
đề liên quan đến việc xác lập quyền hưởng
dụng5.
Với việc chính thức thừa nhận quyền
hưởng dụng như một vật quyền tách ra khỏi
quyền sở hữu, những vấn đề vướng mắc
trong thực tiễn liên quan đến việc thực hiện
quyền của những người được giao tài sản
những không có quyền định đoạt, có thể
được giải quyết thoả đáng.
Đối tượng của quyền hưởng dụng:
Mặc dù luật hiện hành không xác định rõ
phạm vi áp dụng của chế định quyền hưởng
dụng, nhưng chắc chắn một điều là tài sản
sinh hoa lợi, lợi tức là đối tượng của quyền
hưởng dụng. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết, tài
sản không sinh hoa lợi, lợi tức trong những
điều kiện bình thường cũng có thể là đối
tượng của quyền này. Chẳng hạn, quyền
hưởng dụng đối với một chiếc nhẫn kim
cương có thể chẳng bao giờ đem đến cho
người hưởng dụng một lợi ích vật chất nào;
tuy nhiên, nếu tình cờ, chiếc nhẫn được chọn
để trưng bày trong một cuộc triển lãm có thu
tiền vào cửa, thì số tiền thu được có thể được
chia một phần cho người có quyền hưởng
dụng với ý nghĩa hoa lợi bất thường.
Tài sản đối tượng của quyền hưởng
dụng có thể là bất động sản hoặc động sản.
Nguồn gốc của quyền hưởng dụng gắn liền
với khả năng sinh hoa lợi tự nhiên của bất
động sản6. Các động sản ngày càng tỏ ra là
đối tượng quan trọng của quyền này.
Tài sản đối tượng quyền hưởng dụng
có thể là tài sản hữu hình hoặc vô hình. Các
tài sản vô hình như quyền sở hữu đối với cổ
12
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5 Có thể đến một lúc nào đó, trong khuôn khổ cải cách pháp luật về thừa kế, luật sẽ quy định về quyền hưởng dụng của
người thừa kế theo pháp luật. Chẳng hạn, luật một số nước quy định rằng vợ (chồng) của người có di sản có quyền
hưởng hoa lợi đối với di sản. Xem, chẳng hạn như Điều 757 BLDS Pháp. Trong luật cổ Việt Nam, người vợ goá
không tái giá có quyền hưởng hoa lợi đối với di sản và những người thừa kế không được quyền chia di sản mà không
có sự đồng ý của người này. Xem Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, Tập 2 - Di sản, Nxb. Khai
Trí, 1966, tr. 281 đến 307.
6 Bởi vậy, các quy định liên quan đến quyền hưởng dụng trong BLDS Pháp đặc biệt nhắm đến các rừng cây và cây ăn
trái (Điều 590 đến 594).
Ở Việt Nam, quyền hưởng di sản thờ cúng, gọi nôm na là quyền ăn hương hoả, có đối tượng chủ yếu là đất ruộng, đất
vườn. Xem Trần Văn Liễu, Les substitutions fidéicommaissaires en droit annamite -Huong Hoa, Paris, Cujas Paris,
1927, tr. 15.
phần7, quyền chủ nợ và đặc biệt là quyền sở
hữu trí tuệ: cổ tức, tiền lãi vay, tiền thu được
từ việc khai thác tài sản trí tuệ thuộc quyền
sở hữu của người có quyền hưởng dụng.
Tài sản đối tượng của quyền hưởng
dụng có thể là vật đặc định hay vật cùng
loại. Trong trường hợp quyền hưởng dụng
có đối tượng là vật cùng loại, thì sử dụng
cũng có nghĩa là định đoạt: người có quyền
hưởng dụng có trách nhiệm hoàn trả tài sản
gốc cùng loại, cùng số lượng, chất lượng khi
chấm dứt quyền này. Chẳng hạn, người có
quyền hưởng dụng đối với một số tiền có thể
mang tiền gửi tiết kiệm, cho vay hoặc đầu
tư dưới hình thức khác; lợi tức, lợi nhuận
phát sinh thuộc quyền sở hữu của người có
quyền hưởng dụng; hết hạn hưởng dụng, số
tiền được trả theo giá trị gốc cho chủ sở hữu,
nếu không có thoả thuận khác.
Thời điểm có hiệu lực: Theo quy định
tại Điều 259 BLDS năm 2015, quyền hưởng
dụng được xác lập từ thời điểm nhận chuyển
giao tài sản, trừ trường hợp có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác. Cũng
theo quy định của Điều này, quyền hưởng
dụng đã được xác lập có hiệu lực đối với
mọi cá nhân, pháp nhân, trừ trường hợp luật
liên quan có quy định khác.
Trên nguyên tắc, tự quyền hưởng
dụng không cần phải đăng ký mới phát sinh
hiệu lực. Trong trường hợp quyền hưởng
dụng cần đăng ký theo quy định của luật thì
người có quyền hưởng dụng có nghĩa vụ
đăng ký (khoản 1 Điều 262). Tuy nhiên, cho
đến nay, chưa có luật nào quy định việc đăng
ký quyền hưởng dụng, kể cả đối với bất
động sản.
Thời hạn của quyền hưởng dụng:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 260 BLDS
năm 2015, thời hạn của quyền hưởng dụng
do các bên thỏa thuận hoặc do luật quy định
nhưng tối đa đến hết cuộc đời của người
hưởng dụng đầu tiên nếu người hưởng dụng
là cá nhân và đến khi pháp nhân chấm dứt
tồn tại nhưng tối đa 30 năm nếu người
hưởng dụng đầu tiên là pháp nhân. Việc xác
định thời hạn quyền hưởng dụng theo độ dài
cuộc đời của người hưởng dụng đầu tiên
được cho là có nguồn gốc từ mối quan hệ
gắn bó giữa quyền này với nhân thân của
người hưởng dụng đầu tiên.
Quyền của người có quyền hưởng
dụng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 261
BLDS năm 2015, người có quyền hưởng
dụng được quyền tự mình hoặc cho phép
người khác khai thác, sử dụng, thu hoa lợi,
lợi tức từ đối tượng của quyền hưởng dụng.
Điều đó có nghĩa, người có quyền hưởng
dụng là chủ sở hữu của hoa lợi, lợi tức từ tài
sản. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3
Điều 261 BLDS năm 2015, người có quyền
hưởng dụng chỉ có quyền cho thuê quyền
hưởng dụng. Điều này có nghĩa là người
thuê chỉ có quyền hưởng dụng của người
cho thuê, chứ không có quyền hưởng dụng
của riêng mình. Người thuê chỉ có quyền
cho thuê lại nếu được sự đồng ý của người
cho thuê (Điều 475). Việc chuyển giao
quyền hưởng dụng trong luật Việt Nam
được thực hiện trong những điều kiện ngặt
nghèo hơn nếu so với luật của các nước8.
Điểm cần làm rõ là mối quan hệ giữa
người có quyền hưởng dụng và chủ sở hữu.
Luật Việt Nam thừa nhận rằng quyền hưởng
13
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7 Trong trường hợp quyền hưởng dụng có đối tượng là cổ phần, thì người có quyền hưởng dụng tất nhiên có quyền
hưởng cổ tức, còn bản thân cổ phần vẫn thuộc về người đứng tên cổ đông. Bởi vậy, luật các nước quy định người có
quyền hưởng dụng sẽ có tư cách tham dự đại hội cổ đông thường, do đại hội này quyết định việc chia cổ tức; còn chủ
sở hữu có quyền tham dự đại hội cổ đông bất thường, do đại hội này có quyền quyết định việc tăng, giảm vốn điều
lệ. Xem Điều 1844 BLDS Pháp.
Các quy định như thế đã từng được đưa vào một trong các dự thảo BLDS năm 2015, tuy nhiên, chúng đã không được
giữ lại trong dự thảo cuối trình Quốc hội thông qua.
8 Luật của Pháp cho phép người có quyền hưởng dụng chuyển nhượng quyền này cho người khác như đối với bất kỳ
tài sản thông thường nào: Điều 595 BLDS Pháp; Luật của Quebec cũng thừa nhận quyền này cho người hưởng dụng:
Điều 1135 BLDS Quebec.
dụng là quyền được thực hiện trực tiếp trên
tài sản9. Bởi vậy, cho dù các quy định riêng
về quyền hưởng dụng không nêu rõ, vẫn có
thể khẳng định rằng người có quyền hưởng
dụng thực hiện các quyền của mình một
cách độc lập, không cần xin phép, cũng
không cần sự hỗ trợ của chủ sở hữu. Cụ thể,
người có quyền hưởng dụng có quyền trực
tiếp khai thác năng lực sinh lợi của tài sản
(trực canh trên đất, tự mình ở trong nhà hoặc
cho thuê nhà), cũng có quyền cho thuê
khoán đối với tài sản10. Trong điều kiện luật
thực định, không ghi nhận được giới hạn về
thời gian của việc cho thuê tài sản đối tượng
của quyền hưởng dụng. Bởi vậy, trên
nguyên tắc, người có quyền hưởng dụng có
quyền cho thuê dài hạn11.
Nghĩa vụ giữ gìn tài sản gốc: Người
có quyền hưởng dụng phải khai thác tài sản
trong những điều kiện bình thường, đặc biệt
là phải phù hợp với công dụng của tài sản
(khoản 2 Điều 262 BLDS năm 2015), và
phải giữ gìn, bảo quản tài sản như tài sản của
mình (khoản 3 Điều 262 BLDS năm 2015).
Các nghĩa vụ này phù hợp với tính chất của
quyền hưởng dụng - quyền khai thác, thu
hoa lợi trên tài sản của người khác. Khác với
chủ sở hữu đích thực, có thể sử dụng tài sản
theo ý mình, thậm chí không phù hợp với
công dụng, và có quyền không giữ gìn tài
sản.
Trong những điều kiện bình thường,
để có thể khai thác năng lực sinh lợi của tài
sản, cần bảo đảm các điều kiện vận hành
bình thường của tài sản. Cụ thể, cần bảo
dưỡng tài sản theo định kỳ, có khi cần sửa
chữa nhỏ, người có quyền hưởng dụng phải
đảm nhận trách nhiệm về việc này và đài thọ
chi phí cần thiết (khoản 4 Điều 262 BLDS
năm 2015).
Cũng như luật các nước12, luật Việt
Nam quy định nghĩa vụ sửa chữa đối với tài
sản thuộc trách nhiệm của chủ sở hữu
(khoản 4 Điều 263 BLDS năm 2015). Điều
này hợp lý, bởi việc sửa chữa liên quan đến
sự tồn tại của tài sản trong dài hạn. Vấn đề
đặt ra là người có quyền hưởng dụng có thể
làm được gì trong trường hợp chủ sở hữu bỏ
mặc không chịu thực hiện nghĩa vụ của
mình. Theo giả thiết, tài sản là đối tượng của
quyền hưởng dụng được người có quyền
này khai thác có thể đến lúc nào đó cần sửa
chữa, nhưng chủ sở hữu lại không tự giác
thực hiện việc sửa chữa. Trong trường hợp
này, người có quyền hưởng dụng có thể yêu
cầu chủ sở hữu thực hiện nghĩa vụ (khoản 1
Điều 261 BLDS năm 2015). Nhưng nếu chủ
sở hữu vẫn không thực hiện, dù được yêu
cầu, thì người có quyền hưởng dụng có một
lựa chọn là thực hiện thay rồi yêu cầu chủ
sở hữu hoàn trả chi phí (khoản 1 Điều 261
BLDS năm 2015).
Quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu:
Điều chắc chắn là tài sản đối tượng của
quyền hưởng dụng vẫn thuộc về chủ sở hữu.
14
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9 Điểm b khoản 2 Điều 159 BLDS năm 2015 ghi nhận quyền hưởng dụng trong số các quyền khác đối với tài sản.
Trước đó, theo khoản 1, quyền khác đối với tài sản là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc
quyền sở hữu của chủ thể khác.
10 Dường như khi nói rằng người có quyền hưởng dụng có quyền cho thuê quyền hưởng dụng, người làm luật liên tưởng
đến việc cho thuê khoán theo nghĩa của Điều 483 BLDS năm 2015: Hợp đồng thuê khoán tài sản là sự thỏa thuận
giữa các bên, theo đó bên cho thuê khoán giao tài sản cho bên thuê khoán để khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi
tức thu được từ tài sản thuê khoán và bên thuê khoán có nghĩa vụ trả tiền thuê. Cần nhấn mạnh rằng, bản thân hợp
đồng thuê khoán không tạo ra được quyền hưởng dụng - một loại vật quyền, bởi người thuê khoán thực hiện các
quyền của mình theo hợp đồng dưới sự giám sát chặt chẽ của bên cho thuê khoán, chứ không được độc lập như người
có quyền hưởng dụng. Bên thuê khoán cũng không có quyền cho thuê lại mà không có sự đồng ý của người cho thuê
khoán.
11 Trong luật một số nước, việc cho thuê mà có tác dụng tạo điều kiện cho người thuê tạo lập cơ nghiệp dân sự hoặc
thương mại dài hạn trên tài sản thuê cần được sự đồng thuận của chủ sở hữu. Ví dụ điển hình là luật của Pháp (khoản
4 Điều 595 BLDS Pháp). Một số nước khác trao quyền cho thuê rộng rãi cho người hưởng dụng, như luật của Québec
(Điều 1135 BLDS Québec).
12 Xem Điều 605 BLDS Pháp; Điều 1153 BLDS Quebec.
15
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Bởi vậy, ngoại trừ việc tôn trọng các quyền
của người có quyền hưởng dụng, chủ sở hữu
vẫn nắm giữ tất cả các quyền của chủ sở
hữu, bao gồm quyền định đoạt (khoản 1
Điều 263 BLDS năm 2015). Trong logic của
mối quan hệ giữa quyền hưởng dụng và
quyền của chủ sở hữu, có thể thấy giá trị của
quyền sở hữu có xu hướng tăng, giảm theo
chiều ngược lại so với giá trị của quyền
hưởng dụng. Nếu thời hạn hưởng dụng còn
quá dài, thì quyền của chủ sở hữu sẽ có giá
trị trao đổi thấp, bởi người ta sẽ không biết
mua tài sản để làm gì trong điều kiện quyền
khai thác công dụng và thu lợi từ tài sản
thuộc về người khác. Ngược lại, nếu quyền
hưởng dụng gần đến thời điểm kết thúc, thì
quyền của chủ sở hữu sẽ có giá trị trao đổi
khả quan, bởi người ta tin sẽ sớm có điều
kiện tự mình khai thác tài sản khi quyền
hưởng dụng chấm dứt.
Vấn đề đặt ra ở đây là, mặc dù thừa
nhận (tuy không trực tiếp) tính chất vật
quyền của quyền hưởng dụng, BLDS năm
2015 không xác định rõ các quyền năng của
người có quyền đối với giá trị trao đổi của
quyền này. Có trường hợp quyền hưởng
dụng còn dài và có giá trị lớn; khi đó quyền
của chủ sở hữu có giá trị thấp và khó có thể
đem cầm cố, thế chấp để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ. Nhưng bản thân người có quyền
hưởng dụng lại không được luật trao quyền
cầm cố, thế chấp, nói chung quyền xác lập
các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ có đối
tượng là quyền hưởng dụng. Trong trường
hợp đó, việc xác lập quyền hưởng dụng có
thể bị coi là việc làm gây lãng phí, do có tác
dụng làm cho tài sản khó giao dịch.
Trong trường hợp người có quyền
hưởng dụng vi phạm nghiêm trọng các nghĩa
vụ của mình, chủ sở hữu có quyền yêu cầu
toà án truất quyền hưởng dụng (khoản 2
Điều 263 BLDS năm 2015). Tuy nhiên, Luật
không có quy định về tiêu chí định lượng
mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm
nghĩa vụ. Trong trường hợp được yêu cầu,
tuỳ theo vụ việc cụ thể mà toà án xem xét.
2.3 Quyền bề mặt
2.3.1 Những nét chung
Về quyền sở hữu chi phí thấp: Theo
quy định tại Điều 267 BLDS năm 2015,
quyền bề mặt là quyền của một chủ thể đối
với mặt đất, mặt nước, khoảng không gian
trên mặt đất, mặt nước và lòng đất mà quyền
sử dụng đất đó thuộc về một chủ thể khác.
Quy định này hơi khó hiểu. Tuy nhiên, cái
được nhắc đến như đối tượng của quyền bề
mặt thật ra đã xuất hiện từ lâu trong thực tiễn
giao dịch. Quyền bề mặt, suy cho cùng,
không phải là chế định pháp luật mới được
xây dựng để đưa vào cuộc sống, mà chỉ là
sự xác nhận của nhà làm luật đối với một
thực tiễn sinh động đã và đang diễn ra trong
đời sống dân sự.
Quyền bề mặt phát sinh và phát triển
trong cuộc sống hiện đại như là hệ quả tất
yếu của quá trình đô thị hoá và quá trình
phân công lại lao động xã hội trong bối cảnh
kinh tế thị trường.
Sự gia tăng nhanh về dân số tại các đô
thị khiến cho giá đất cũng tăng nhanh. Việc
nắm giữ một thửa đất tại một thành phố đông
dân được cho là điều xa xỉ. Bên cạnh đó, các
thành tựu khoa học công nghệ hiện đại được
ứng dụng vào hoạt động xây dựng cho phép
khai thác khoảng không gian trên mặt đất và
lòng đất với độ cao, độ sâu ngày càng tăng.
Trong điều kiện đó, chủ sở hữu bất động sản
(người có quyền sử dụng đất) có điều kiện
“cắt vụn” bất động sản của mình thành nhiều
bất động sản, gọi là các lô, để chuyển
nhượng. Thông thường, các lô này được mô
tả như là một phần của dự án xây dựng một
toà nhà nhiều tầng. Trong nhiều trường hợp,
người muốn có một bất động sản cũng chỉ
cần một diện tích nào đó vừa đủ để triển khai
công việc (mở văn phòng) hoặc để ở, chứ
không cần cả toà nhà và cũng không quan
tâm đến quyền sử dụng đất.
Mặt khác, doanh nghiệp trong khu vực
tư luôn mong muốn giảm đến mức tối thiểu
chi phí đầu tư cho bất động sản (nói chung,
tài sản cố định) để có thể dành được thật
nhiều vốn cho sản xuất, kinh doanh. Bởi
vậy, trên thực tế, đa số các cơ sở sản xuất,
kinh doanh đều toạ lạc trên đất thuê13. Là
người thuê, nhưng doanh nghiệp luôn mong
muốn có đầy đủ các quyền của chủ sở hữu
đối với các tài sản gắn liền với đất trong thời
gian thuê. Trong điều kiện chưa có/thiếu luật
điều chỉnh, doanh nghiệp và chủ cho thuê
đất tìm cách giải quyết thoả đáng mong
muốn của các bên bằng các điều khoản
trong hợp đồng. Bất tiện lớn nhất của
phương thức xây dựng quyền bề mặt này
gắn liền với phạm vi hiệu lực của hợp đồng:
quyền bề mặt hình thành từ hợp đồng chỉ có
ý nghĩa đối với hai bên và không ràng buộc
người thứ ba.
Việc xây dựng khung pháp lý chung
cho quyền bề mặt trong khuôn khổ BLDS
năm 2015 cho phép chuẩn hoá ứng xử của
các chủ thể có liên quan trong những tình
huống nêu trên. Khả năng đáp ứng nhu cầu
đặc thù một cách hợp lý về phương diện chi
phí khiến cho quyền bề mặt còn được gọi là
một thứ “quyền sở hữu với chi phí thấp”,
một thứ quyền sở hữu mà sự phổ biến của
nó trở thành nét đặc trưng của một xã hội mà
trong đó tầng lớp trung lưu chiếm số đông.
Về quyền bề mặt và quyền sử dụng
đất: Theo khoản 2 Điều 175 BLDS năm
2015, người sử dụng đất được sử dụng
không gian và lòng đất theo chiều thẳng
đứng từ ranh giới thửa đất Với quy định
đó, đối tượng của quyền sử dụng đất không
chỉ là mặt đất mà còn là không gian bên trên
và lòng đất bên dưới. Có thể hình dung đối
tượng của quyền sử dụng đối với một thửa
đất hình vuông như một “hình hộp” úp lên
thửa đất đó, đồng thời đi xuyên qua mặt đất
cắm xuống lòng đất theo chiều thẳng đứng.
Người có quyền sử dụng đất có quyền khai
thác không gian và lòng đất đến độ cao, độ
sâu theo ý mình và chỉ chịu hai giới hạn: quy
định của pháp luật và quyền sử dụng đất của
người khác.
Trong khi đó, đối tượng của quyền bề
mặt là một khoảng không gian trên mặt đất
hoặc trong lòng đất, thậm chí có thể chỉ là
những tài sản cụ thể gắn với đất (căn nhà,
gốc cây,). Trong chừng mực nào đó, có
thể phân tích đối tượng của quyền bề mặt
như là kết quả “cắt vụn” đối tượng của
quyền sử dụng đất: chiếc “hình hộp” nói ở
trên được chia tách thành nhiều khoảng thể
tích (volume) và mỗi khoảng thể tích trở
thành đối tượng của một quyền bề mặt riêng
biệt. Trong trường hợp người có quyền sử
dụng đất chia tách đối tượng quyền sử dụng
đất thành nhiều khoảng thể tích để chuyển
nhượng cho người khác, thì người được
chuyển nhượng có quyền bề mặt đối với
khoảng thể tích được chuyển nhượng; còn
người có quyền sử dụng đất vẫn có đầy đủ
các quyền của chủ thể đối với phần còn lại
của chiếc “hình hộp” đó.
2.3.2 Chế độ pháp lý
2.3.2.1 Xác lập quyền bề mặt
Thuê đất của Nhà nước hoặc thuê
quyền sử dụng đất: Thuê đất là giao dịch
theo đó một bên là Nhà nước, với tư cách là
chủ sở hữu đất, cho bên kia là cá nhân hoặc
pháp nhân sử dụng đất với điều kiện trả tiền
thuê. Còn thuê quyền sử dụng đất là giao
dịch giữa một bên là người có quyền sử
dụng đất, do được Nhà nước giao hoặc cho
thuê, cho người khác thuê lại quyền sử dụng
đất của mình.
Trừ trường hợp đất thuộc loại đất
nông nghiệp trồng cây hàng năm hoặc nuôi
trồng thuỷ sản, những người thuê đất hoặc
thuê quyền sử dụng đất đều có chung mục
đích là sử dụng đất để xây dựng công trình
hoặc trồng cây lâu năm.
Luật Đất đai đã thừa nhận rằng, người
thuê đất có quyền sở hữu đối với các tài sản
16
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13 Thậm chí có trường hợp doanh nhân vốn là người có quyền sử dụng đất; để có nhiều vốn kinh doanh, doanh nhân
bán quyền sử dụng đất cho người khác rồi giao kết hợp đồng thuê với người được chuyển nhượng.
gắn liền với đất, tức là quyền sở hữu bề mặt.
Trong khi đó, quyền của người thuê quyền
sử dụng đất đối với các tài sản gắn liền với
đất lại chưa được xác định rõ.
Dẫu sao, quyền sử dụng đất ở và đất
chuyên dùng được cho thuê, vào thời điểm
giao kết hợp đồng, là quyền sử dụng đối với
đất chưa được xây dựng, nghĩa là chưa có
tài sản gắn liền: chính người thuê sẽ xây
dựng trên đất có quyền sử dụng được cho
thuê các công trình cần thiết cho việc khai
thác công dụng của đất đó. Giải pháp về xác
lập quyền sở hữu đối với công trình gắn liền
với đất cho người cho thuê không thể tranh
cãi khi hợp đồng cho thuê hết hạn: khi đó,
người cho thuê tiếp tục là người sử dụng đất
và, do vậy, có quyền sở hữu đối với những
tài sản được sáp nhập theo luật vào quyền
sử dụng đất; còn người thuê không là gì cả
trong quan hệ với đất đó.
Thế nhưng, trong thời gian hợp đồng
cho thuê còn hiệu lực, thì sao? Nếu sự sáp
nhập xảy ra ngay lập tức, thì công trình được
xây dựng đến đâu thuộc quyền sở hữu của
người cho thuê đến đó: người thuê quyền sử
dụng đất phải trả tiền thuê quyền sử dụng
đất, đồng thời lại phải chấp nhận để cho
công trình xây dựng của mình sáp nhập vào
quyền sử dụng đất của người cho thuê mà
không nhận được một đồng đền bù nào.
Trên thực tế hầu như không có người nào
thuê quyền sử dụng đất để xây dựng lại nghĩ
rằng, trong thời gian hợp đồng thuê còn hiệu
lực, mình chỉ là người thuê lại công trình do
chính mình xây dựng.
Có thể phân tích hợp đồng thuê quyền
sử dụng đất thành hợp đồng cho thuê quyền
sử dụng đất để xây dựng: người sử dụng đất
có quyền xây dựng trên đất đó, và do hiệu
lực của hợp đồng cho thuê quyền sử dụng
đất, người này chuyển nhượng có thời hạn
(bằng với thời hạn thuê) quyền xây dựng
(trên đất) cho người thuê. Mà nếu vậy, thì với
tư cách là người tạo ra một cách hợp pháp tài
sản được xây dựng, người thuê phải có
quyền sở hữu đối với các tài sản đó, một thứ
quyền sở hữu có thời hạn, chấm dứt cùng
một lúc với hợp đồng cho thuê. Nói cách
khác, hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất
ở, đất chuyên dùng có tác dụng làm phát sinh
quyền sở hữu bề mặt của người thuê.
Bằng nguyên tắc áp dụng tương tự
pháp luật, có thể mở rộng được phạm vi áp
dụng của giải pháp vừa được xây dựng ra
đến các trường hợp khác mà trong đó người
thuê tạo ra bất động sản gắn liền với bất
động sản cho thuê trong thời gian thuê. Nói
chung, chỉ cần việc xây dựng, trồng cây của
người thuê được người cho thuê chấp nhận,
bằng sự thoả thuận rành mạch trong hợp
đồng thuê, và không có thoả thuận về quyền
của bên này hay bên kia đối với tài sản được
xây dựng (cây trồng), thì quyền sở hữu bề
mặt đối với tài sản do người thuê tạo ra được
xác lập cho người này.
Xác lập quyền sở hữu bề mặt theo
pháp luật dân sự: Theo Điều 268 BLDS
năm 2015, quyền bề mặt được xác lập theo
quy định của luật, theo thoả thuận hoặc theo
di chúc.
Quyền sở hữu bề mặt có thể được xác
lập trong khuôn khổ đời sống dân sự, bằng
hành vi chủ động của chủ sở hữu bất động
sản tách quyền sở hữu tài sản gắn liền với
đất và quyền sử dụng đất thành hai bất động
sản độc lập. Các ví dụ rất đa dạng trong thực
tiễn giao dịch: người có quyền sở hữu nhà
và quyền sử dụng đất tặng quyền sử dụng
đất cho một người và quyền sở hữu nhà cho
một người khác; người có quyền sở hữu nhà
nhiều tầng và quyền sử dụng đất tặng cho
hoặc bán một hoặc nhiều tầng lầu cho người
khác và giữ lại cho mình quyền sở hữu tầng
trệt cùng với quyền sử dụng đất; người có
quyền sử dụng đất tặng cho hoặc chuyển
nhượng các cây lâu năm gắn liền với đất cho
người khác và giữ lại quyền sử dụng đất;
người có quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
nhà thế chấp quyền sử dụng đất mà không
thế chấp quyền sở hữu nhà, sau đó, quyền
sử dụng đất được bán cho người khác để
thanh toán nghĩa vụ được bảo đảm; người
17
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
sử dụng đất chuyển nhượng quyền sở hữu
nhà (cây lâu năm), nhưng không chuyển
nhượng quyền sử dụng đất có nhà (cây)
đó14;....
Quyền bề mặt cũng có thể được xác
lập bằng các phương thức được thừa nhận
trong luật chung. Trong trường hợp này,
quyền sở hữu bề mặt đã có sẵn và một người
nào đó trở thành chủ thể của quyền sở hữu
đó do được chủ sở hữu trước chuyển giao
(bán, tặng cho, để thừa kế theo di chúc hoặc
theo pháp luật,...) hoặc do các phương thức
trực tiếp (xác lập quyền sở hữu theo thời
hiệu). Việc xác lập quyền sở hữu theo thời
hiệu chỉ đối với các tài sản gắn liền với đất
tương đối hiếm: thông thường, theo thời
hiệu, quyền sở hữu bất động sản sẽ được xác
lập cả đối với quyền sử dụng đất và những
tài sản gắn liền với đất.
2.3.2.2 Thực hiện quyền bề mặt
Thời hạn của quyền bề mặt: Theo
khoản 1 Điều 270 BLDS năm 2015, thời hạn
của quyền bề mặt được xác định theo quy
định của luật, theo thoả thuận hoặc di chúc
nhưng không vượt quá thời hạn của quyền
sử dụng đất. Giới hạn là “thời hạn của quyền
sử dụng đất” rõ ràng có nguồn gốc từ quyền
sở hữu toàn dân về đất đai. Hết thời hạn sử
dụng đất mà không được gia hạn, thì đất
phải được trả lại cho Nhà nước và quyền sở
hữu đối với tài sản gắn liền với đất cũng
thuộc về Nhà nước mà không có đền bù15.
Điều đó có nghĩa là quyền bề mặt cũng
đương nhiên chấm dứt.
Trong trường hợp thoả thuận hoặc di
chúc không xác định thời hạn của quyền bề
mặt và thời hạn quyền sử dụng đất cũng
chưa hết mà một bên muốn chấm dứt quyền
bề mặt, thì phải thông báo bằng văn bản cho
bên kia biết trước ít nhất 06 tháng (khoản 2
Điều 270 BLDS năm 2015). Có thể lý giải
thời hạn 06 tháng như là khoảng thời gian
cần thiết để cho mỗi bên chuẩn bị một cách
thoả đáng cho sự thay đổi điều kiện làm ăn,
sinh sống khi quan hệ sở hữu bề mặt chấm
dứt và quyền sử dụng đất được trả về trạng
thái bình thường.
Quyền sở hữu theo luật chung: Theo
khoản 1 Điều 271 BLDS năm 2015, chủ thể
quyền bề mặt có quyền khai thác, sử dụng
mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên
mặt đất, mặt nước và lòng đất thuộc quyền
sử dụng đất của người khác để xây dựng
công trình, trồng cây, canh tác nhưng không
được trái với quy định của Bộ luật này, trái
với pháp luật về đất đai, xây dựng, quy
hoạch, tài nguyên, khoáng sản và quy định
khác của pháp luật có liên quan. Thật ra,
điều luật chỉ áp dụng được cho trường hợp
đối tượng của quyền bề mặt là khoảng
không gian; nếu đối tượng quyền bề mặt là
vật cụ thể (căn nhà hoặc một phần căn nhà,
cây trồng được chỉ định rõ,), thì chủ thể
quyền bề mặt chỉ có quyền của chủ sở hữu
đối với vật cụ thể đó.
Trong mọi trường hợp, người có
quyền bề mặt là chủ sở hữu theo nghĩa đầy
đủ đối với các tài sản đối tượng của quyền
sở hữu đó: người này có quyền sử dụng và
định đoạt tài sản, nghĩa là có quyền cư trú,
cho thuê, triệt hạ, phá dỡ tài sản, có quyền
thế chấp tài sản, có quyền bán, trao đổi, tặng
cho tài sản, để tài sản cho người thừa kế,...
trừ trường hợp có thoả thuận khác với người
14 Trên hoặc dưới một mét vuông đất, thuộc quyền sử dụng của một cá nhân (hoặc một pháp nhân) ở một đô thị hiện
đại, có thể tồn tại đồng thời nhiều hình thức sở hữu: trong lòng đất là một bãi đậu xe thuộc một công ty dịch vụ gửi
giữ; trên mặt đất là một toà nhà cao tầng - tầng trệt thuộc về người sử dụng đất, tầng một có trụ sở của một doanh
nghiệp nhà nước, tầng hai có các văn phòng tư vấn pháp luật bên cạnh các nhà ở tư nhân; tầng ba có một ngân hàng,...
Và tất cả đều có quyền sở hữu đối với các tài sản liên quan chứ không phải là người thuê tài sản. Có thể tìm thấy
những nét tương đồng giữa tình trạng này với tình trạng sở hữu chung cư. Tuy nhiên, khác với người có quyền sở hữu
đối với một lô chung cư, người có quyền sở hữu đối với bãi đậu xe, tầng hai, tầng ba,... trong ví dụ trên không có
quyền sử dụng đất.
15 Khoản 1 Điều 92 Luật Đất đai, dẫn chiếu đến điểm d khoản 1 Điều 65.
có quyền sử dụng đất. Nếu đối tượng của
quyền sở hữu bề mặt là quyền xây dựng,
quyền trồng cây, thì chủ sở hữu còn có
quyền mở rộng hoặc thu hẹp công trình, tăng
hoặc giảm số lượng cây trồng, xây dựng
(trồng) công trình (cây) mới.
Cũng như quyền sở hữu theo luật
chung, quyền sở hữu bề mặt có tính ổn định
và lâu dài, trừ trường hợp các bên liên quan
đạt được thoả thuận giới hạn sự tồn tại của
quyền sở hữu bề mặt trong thời gian, như
đối với quyền sở hữu bề mặt phát sinh từ
hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất ở, đất
chuyên dùng.
Quyền địa dịch trong quan hệ với
quyền sử dụng đất đối với đất trên đó có tài
sản: Sở hữu các tài sản gắn liền với đất,
người có quyền sở hữu bề mặt muốn thực
hiện quyền sở hữu của mình nhất thiết phải
xác lập được quyền chi phối đối với quyền
của người sử dụng đất. Ở điểm này, quan hệ
giữa người có quyền sở hữu bề mặt và người
sử dụng đất giống như quan hệ giữa hai chủ
sở hữu bất động sản hưởng địa dịch và bất
động sản chịu địa dịch.
Trong chừng mực nào đó, có thể tin
rằng bất động sản đối tượng của quyền sở
hữu bề mặt luôn là bất động sản bị vây bọc:
không có quyền sử dụng đất, người có quyền
sở hữu bề mặt không bao giờ có thể tiếp xúc
với đường công cộng, thiết bị công cộng mà
không động chạm đến đất đai thuộc quyền
sử dụng của người khác. Một cách hợp lý,
bất động sản thứ nhất mà người có quyền sở
hữu bề mặt phải đi qua trong quá trình thiết
lập sự thông thương với bên ngoài là bất
động sản của người có quyền sử dụng đối với
đất có tài sản thuộc sở hữu bề mặt. Nói cách
khác, bất động sản của người có quyền sử
dụng đối với đất có tài sản thuộc sở hữu bề
mặt ở trong tình trạng phục vụ bắt buộc đối
với bất động sản thuộc sở hữu bề mặt.
Mặt khác, việc khai thác quyền bề mặt
dẫn đến việc tạo lập các vật kiến trúc, cây
trồng. Trong những trường hợp đặc thù,
những giới hạn, hạn chế có thể được áp đặt
đối với việc tạo lập các tài sản này, nhằm
phục vụ cho việc khai thác năng lực còn lại
của quyền sử dụng đất hoặc ngược lại, cần
hạn chế năng lực của quyền sử dụng đất để
tạo thuận lợi cho việc khai thác quyền bề
mặt. Các quan hệ này mang đầy đủ ý nghĩa
của quyền địa dịch.
Về đăng ký: Theo Điều 269 BLDS
năm 2015, quyền bề mặt có hiệu lực từ thời
điểm chủ thể có quyền sử dụng đất chuyển
giao mặt đất, mặt nước, khoảng không gian
trên mặt đất, mặt nước và lòng đất cho chủ
thể có quyền bề mặt, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật liên quan có quy định
khác.
Ở các nước, trong trường hợp quyền
bề mặt có đối tượng là một khoảng không
gian, thì phải dùng các công cụ kỹ thuật để
xác định vị trí của khoảng không gian này
và mô tả vị trí ấy bằng các toạ độ16. Còn
trong trường hợp đối tượng của quyền bề
mặt là các vật kiến trúc, thì tất nhiên phải
đăng ký.
Trong luật Việt Nam hiện hành, việc
đăng ký bất động sản chỉ mang ý nghĩa bắt
buộc đối với quyền sử dụng đất. Các tài sản
gắn liền với đất cũng chỉ được đăng ký trong
cùng sổ đăng ký quyền sử dụng đất như một
phần bổ sung quyền của người sử dụng đất.
Không có quy định đăng ký độc lập bắt buộc
đối với tài sản gắn liền với đất. Bởi vậy,
quyền bề mặt, trên nguyên tắc, không phải
đăng ký.
19
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Trong pháp luật của Pháp, bộ toạ độ định vị đối tượng của quyền bề mặt trong không gian gọi là NGF (niveau général
de France): F. Terré và Ph. Simler, Droit civil – Les biens, Précis Dalloz, Paris, 2006, tr. 617; Trong luật của Québec,
sổ đăng ký bất động sản mô tả đối tượng quyền mặt trong không gian 3 chiều: Sylvio Normand, Du droit de superficie
à la propriété superficiaire, Revue générale de droit, Québec, (2008) 38, tr. 254-255.
(Xem tiÕp trang 34)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_diem_moi_ve_quyen_so_huu_va_cac_quyen_khac_doi_voi_tai.pdf