Những đổi mới trong hoạt động chất vấn

Thứ nhất, cần tiếp tục nghiên cứu, rút kinh nghiệm từ thực tiễn quá trình đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn trong thời gian qua để có những cải tiến đột phá hơn trong tổ chức hoạt động này. Theo đó, đổi mới để hoạt động chất vấn trở thành phiên đối thoại sâu hơn giữa các ĐBQH và thành viên của Chính phủ theo chuyên đề để có thể đi đến cùng, làm rõ và giải quyết được những vấn đề bức xúc đặt ra trong cuộc sống. Nghiên cứu tiếp tục tăng thời gian chất vấn và trả lời chất vấn, trong đó, phân bổ nhiều thời gian hơn cho hoạt động tranh luận (khoảng 1/3 tổng thời gian) và đảm bảo nguyên tắc tất cả các vấn đề quan trọng phải được tranh luận. Quy định thời gian nêu câu hỏi chất vấn và trả lời chất vấn chỉ là vài phút như hiện nay, mặc dù có những điểm tích cực, song dường như chưa thỏa mãn yêu cầu. Mặt khác, số lượng ĐBQH đăng ký đặt câu hỏi chất vấn khá lớn, trong khi quỹ thời gian dành cho hoạt động này trong chương trình kỳ họp còn khiêm tốn, nên đôi lúc vẫn có một số đại biểu không được thực hiện quyền chất vấn của mình trực tiếp tại Hội trường. Thứ hai, tăng cường các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền chất vấn của ĐBQH như: tạo lập không khí dân chủ, cởi mở, thẳng thắn trong các phiên chất vấn và trả lời chất vấn; hỗ trợ mạnh mẽ hơn về thông tin cho ĐBQH, tạo điều kiện cho đại biểu có thêm những lập luận và chứng cứ xác thực khi thực hiện quyền chất vấn

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 189 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những đổi mới trong hoạt động chất vấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt: Bài viết đánh giá những điểm mới của hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn trong pháp luật và trong thực tiễn hoạt động chất vấn của Quốc hội; từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục cải tiến, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động chất vấn, góp phần thực hiện tốt hơn chức năng giám sát của Quốc hội. Nguyễn Thúy Hà* Lương Thị Thu Hà** Abstract: This article provides assessments of the new features of questioning and interpellation responses in both the law and the practices by the National Assemble, and then recommendations are also suggested to further improve, reform, enhance the efficiency and effectiveness of interpellation activities, contributing to the better performance of the National Assembly’s supervision. Thông tin bài viết: Từ khóa: hoạt động chất vấn, quy định pháp luật về chất vấn, trả lời chất vấn. Lịch sử bài viết: Nhận bài: 18/06/2017 Biên tập: 27/07/2017 Duyệt bài: 31/07/2017 Article Infomation: Keywords: interpellation activities, rules on interpellation; responses to interpellation Article History: Received: 18 Jun. 2017 Edited: 27 Jul. 2017 Appproved: 31 Jul. 2017 * ThS, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Khoa học lập pháp - Viện Nghiên cứu Lập pháp. ** ThS, Vụ Tổng hợp Văn phòng Quốc hội. NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN 1. Những điểm mới của pháp luật về chất vấn và trả lời chất vấn Chất vấn là quyền quan trọng và cơ bản của đại biểu Quốc hội (ĐBQH) được quy định tại Hiến pháp, là hình thức giám sát 1 Nguyễn Xuân Diên, “Quyền chất vấn của ĐBQH và đối tượng phải trả lời chất vấn được quy định thế nào trong Hiến pháp”, Cổng thông tin điện tử của Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND TP. Hà Nội, đăng ngày 29/7/2016. trực tiếp quan trọng của Quốc hội Việt Nam, đồng thời, cũng được coi là một yếu tố quan trọng để đánh giá vai trò, vị trí của cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam1. Các phiên chất vấn của Quốc hội luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 50 Số 15(343) T8/2017 của đông đảo cử tri, các tầng lớp nhân dân và các cơ quan thông tấn báo chí trong và ngoài nước. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII và những kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIV, hoạt động chất vấn đã có rất nhiều đổi mới mang tính đột phá2, trở thành sinh hoạt thường xuyên, có hiệu quả thiết thực của Quốc hội3, đáp ứng tốt hơn nguyện vọng của cử tri4. Những kết quả nêu trên có nguyên nhân từ việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về chất vấn và trả lời chất vấn. Sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực, Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) năm 2015; Nội quy kỳ họp Quốc hội (ban hành kèm theo Nghị quyết số 102/2015/QH13 ngày 24/11/2015 của Quốc hội). Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cũng đã thông qua Quy chế làm việc của UBTVQH (ban hành kèm theo Nghị quyết số 1075/2015/UBTVQH13 ngày 11/12/2015 của UBTVQH); Quy chế tổ chức thực hiện một số hoạt động giám sát của Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH (ban hành kèm theo Nghị quyết số 334/2017/UBTVQH14 ngày 11/01/2017 của UBTVQH). Những văn bản do Quốc hội, UBTVQH ban hành đã bổ sung hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Quốc hội nói chung, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn nói riêng. Điểm mới trong quy định của pháp luật về chất vấn và trả lời chất vấn thể hiện ở các điểm sau: 1.1 Mở rộng quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng 2 Nguyên Minh, “Thấy gì từ đổi mới hoạt động chất vấn của Quốc hội?”, Báo Quân đội nhân dân số ra ngày 28/11/2015. 3 Viện Nghiên cứu Lập pháp (2010), “Hoạt động giám sát của Quốc hội – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb. Công an nhân dân, tr. 61. 4 Lê Văn Cuông, “Còn nhiều dư địa đổi mới chất vấn”, Báo điện tử Đại biểu nhân dân đăng ngày 22/8/2016. 5 Khoản 1 Điều 80 Hiến pháp năm 2013. 6 Khoản 2 Điều 80 Hiến pháp năm 2013. 7 Điểm c khoản 3 Điều 15 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND. 8 Khoản 1 Điều 50 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND. 9 Khoản 2 Điều 15 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND. quyền chất vấn của ĐBQH đối với Tổng Kiểm toán nhà nước5 và khẳng định trách nhiệm của người bị chất vấn “phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp hoặc tại phiên họp UBTVQH trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội”6. Pháp luật cũng quy định rõ về quyền chất vấn lại của ĐBQH: “Trường hợp ĐBQH không đồng ý với nội dung trả lời chất vấn thì có quyền chất vấn lại để người bị chất vấn trả lời”7; đồng thời, yêu cầu những người khác có trách nhiệm liên quan phải tham dự phiên họp và trả lời chất vấn của ĐBQH về vấn đề thuộc trách nhiệm của mình, cùng những người bị chất vấn. Bên cạnh hoạt động chất vấn trực tiếp tại kỳ họp Quốc hội và phiên họp UBTVQH, ĐBQH còn có quyền “gửi chất vấn bằng văn bản đến người bị chất vấn”8. Trường hợp ĐBQH gửi chất vấn trực tiếp bằng văn bản đến người bị chất vấn thì chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày chất vấn, người bị chất vấn phải trả lời bằng văn bản cho người chất vấn, đồng thời gửi đến UBTVQH. Như vậy, pháp luật về chất vấn và trả lời chất vấn đã mở rộng quyền chất vấn của ĐBQH; giảm bớt quy định về trình tự, thủ tục ĐBQH phải thực hiện để “được” trả lời chất vấn; tăng cường trách nhiệm của các đối tượng bị chất vấn trong việc “phải” trả lời chất vấn của ĐBQH. 1.2 Quy định về nhóm vấn đề chất vấn Pháp luật quy định UBTVQH trình Quốc hội quyết định “nhóm vấn đề chất vấn và người bị chất vấn”9. Việc lấy nhóm vấn đề chất vấn làm trọng tâm sẽ là cơ sở để Quốc hội quyết định người bị chất vấn phù hợp hơn, đồng thời, có thể yêu cầu những THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 51Số 15(343) T8/2017 người có trách nhiệm liên quan cùng tham gia trả lời làm sáng tỏ hơn vấn đề chất vấn. Nhóm vấn đề chất vấn được lựa chọn theo ba tiêu chí10: - Một là, vấn đề bức xúc, nổi lên trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, được nhiều ĐBQH, cử tri quan tâm, vấn đề có dấu hiệu vi phạm pháp luật, vấn đề đã được người bị chất vấn trả lời bằng văn bản nhưng ĐBQH không đồng ý, được UBTVQH đồng ý trình Quốc hội xem xét cho trả lời tại kỳ họp Quốc hội. - Hai là, không chất vấn những vấn đề đã có trong nghị quyết về chất vấn và nghị quyết giám sát chuyên đề của Quốc hội, UBTVQH trong thời gian 12 tháng tính đến thời điểm chất vấn. - Ba là, phù hợp với tổng thời gian tổ chức phiên họp chất vấn. Pháp luật cũng quy định, người bị chất vấn được lựa chọn phù hợp với nhóm vấn đề chất vấn, có trách nhiệm trả lời trực tiếp, đầy đủ vấn đề mà ĐBQH đã chất vấn, không được uỷ quyền cho người khác trả lời thay. 1.3 Quy định nghị quyết về chất vấn Quy định việc Quốc hội xem xét, thông qua nghị quyết về chất vấn tại phiên bế mạc kỳ họp là một điểm hoàn toàn mới11. Trước đây, pháp luật quy định: Chỉ khi xét thấy cần thiết, Quốc hội mới ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn12. Hiện nay, pháp luật đã quy định rõ, nội dung của nghị quyết về chất vấn phải đề cập những vấn đề cơ bản như: đánh giá kết quả 10 Điều 9 Quy chế tổ chức thực hiện một số hoạt động giám sát của Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH. 11 Khoản 5 Điều 15 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND và khoản 3 Điều 14 Quy chế tổ chức thực hiện một số hoạt động giám sát của Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và ĐBQH. 12 Khoản 4 Điều 11; khoản 3 Điều 14 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội. 13 Khoản 5 Điều 11 Quy chế tổ chức thực hiện một số hoạt động giám sát của Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH. 14 Khoản 2 Điều 17 của Nội quy kỳ họp Quốc hội. 15 Trước đây, thời gian người bị chất vấn trả lời từng vấn đề chất vấn không quá mười lăm phút; ĐBQH có thể nêu thêm câu hỏi liên quan đến nội dung trả lời chất vấn với thời gian nêu câu hỏi không quá 03 phút. thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người bị chất vấn, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân liên quan đến vấn đề chất vấn; thời hạn khắc phục hạn chế, bất cập; trách nhiệm thi hành của cơ quan, cá nhân; trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết về chất vấn. Pháp luật yêu cầu các cơ quan, cá nhân bị chất vấn (thành viên Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước) phải trình bày báo cáo về việc thực hiện các nghị quyết về chất vấn tại kỳ họp cuối năm của năm giữa nhiệm kỳ và năm cuối nhiệm kỳ13; các cơ quan của Quốc hội (Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban) phải tiến hành thẩm tra việc thực hiện các nghị quyết về chất vấn của các cơ quan, cá nhân nêu trên thuộc lĩnh vực phụ trách. 1.4 Quy định về thời gian chất vấn - Về thời gian chất vấn và trả lời chất vấn: Pháp luật quy định cụ thể thời gian nêu chất vấn của ĐBQH không quá 02 phút; thời gian người bị chất vấn trả lời chất vấn của một đại biểu không quá 05 phút14. Quy định về thu gọn thời gian nêu câu hỏi chất vấn và trả lời chất vấn nhằm mục đích tăng số ĐBQH tham gia chất vấn và bố trí được nhiều người trả lời chất vấn hơn. Ngoài ra, quy định này cũng nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng các câu hỏi và câu trả lời chất vấn, bởi vì người hỏi và người trả lời nếu muốn sử dụng khoảng thời gian nêu chất vấn và trả lời chất vấn ngắn như vậy một cách hiệu quả thì phải nghiên cứu, nắm chắc tình hình, hỏi và trả lời đi vào trọng tâm, trọng điểm, hạn chế vòng vo15. THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 52 Số 15(343) T8/2017 - Thời gian tổ chức chất vấn: Thời gian chất vấn ít nhất là 03 ngày tại kỳ họp hằng năm, ít nhất là 04 ngày tại kỳ họp cuối năm của năm giữa nhiệm kỳ và năm cuối nhiệm kỳ16. Như vậy, thời gian dành cho hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn đã được quy định cụ thể và theo hướng tăng hơn17. UBTVQH tổ chức 02 phiên chất vấn/ năm (phiên họp tháng 3 và phiên họp tháng 8), trừ năm chuyển giao giữa hai nhiệm kỳ Quốc hội. Thời gian chất vấn ít nhất là 01 ngày tại mỗi phiên họp18. - Thời gian gửi báo cáo thực hiện kết quả chất vấn: Pháp luật quy định cụ thể hơn thời gian phải gửi báo cáo về việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội về chất vấn, các vấn đề đã hứa tại các kỳ họp trước đến ĐBQH và UBTVQH của người đã trả lời chất vấn là “chậm nhất 20 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp”; đồng thời yêu cầu đăng tải các báo cáo này trên Cổng thông tin điện tử của Quốc hội19. Quy định này tạo điều kiện để theo dõi, đánh giá việc thực hiện trách nhiệm chính trị của Chính phủ trước Quốc hội, từ đó tạo áp lực cho Chính phủ phải cố gắng thực hiện tốt hơn chức trách của mình. 1.5 Quy định về vai trò của Chủ tọa điều hành Pháp luật nhấn mạnh vai trò của Chủ toạ trong việc điều hành phiên chất vấn, cụ thể là: trường hợp cần thiết, Chủ tọa quyết định việc kéo dài thời gian trả lời chất vấn; Chủ tọa có quyền nhắc nếu ĐBQH nêu chất vấn không đúng nội dung phiên chất vấn hoặc quá thời gian quy định, người bị chất 16 Khoản 2 Điều 13 Quy chế tổ chức thực hiện một số hoạt động giám sát của Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH. 17 Trước đây, thời gian này không được quy định cụ thể, Quốc hội thường tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn theo thông lệ khoảng 2,5 - 3 ngày trong một kỳ họp. 18 Khoản 1 Điều 20 Quy chế tổ chức thực hiện một số hoạt động giám sát của Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH. 19 Khoản 7 Điều 15 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND. 20 Khoản 2 Điều 17 Nội quy kỳ họp Quốc hội. 21 Phát biểu nhậm chức của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIV. 22 Phát biểu nhậm chức của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIV. vấn trả lời không đúng trọng tâm chất vấn của ĐBQH hoặc quá thời gian quy định20. Có thể thấy rằng, các quy định pháp luật về chất vấn và trả lời chất vấn đã góp phần tăng cường chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của hoạt động này; bảo đảm tính thống nhất, khoa học trong xác định đối tượng, phạm vi, thẩm quyền, trình tự chất vấn; bảo đảm quyền, trách nhiệm của chủ thể chất vấn và đối tượng bị chất vấn; phát huy hơn nữa vai trò chất vấn của ĐBQH, góp phần nâng cao, chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. 2. Thực tiễn đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn Trong thời gian qua, hoạt động chất vấn có nhiều đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức. Có thể kể đến: 2.1 Tạo không khí tranh luận trong phiên chất vấn Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa mới, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã đưa ra thông điệp: “Quốc hội khoá XIV sẽ đoàn kết, sáng tạo, hành động vì lợi ích của nhân dân” và “chuyển từ Quốc hội tham luận sang Quốc hội tranh luận”21. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trong phát biểu nhậm chức ngày 26/7/2016 đã xác định rõ mục tiêu xây dựng Chính phủ mới là: “Chính phủ kiến tạo phát triển, Chính phủ hành động, Chính phủ phục vụ, Chính phủ liêm chính” 22. Tại kỳ họp thứ hai, phiên chất vấn đầu tiên của Quốc hội khóa XIV đã ngay lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt của cử tri và nhân dân cả nước bởi có nhiều điểm mới nổi bật. Tổng cộng đã có hơn 200 lượt ĐBQH đặt câu THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 53Số 15(343) T8/2017 hỏi chất vấn, trong đó hơn 20 lượt đại biểu đặt câu hỏi đối với Thủ tướng Chính phủ, hơn 35 lượt đại biểu đặt câu hỏi tranh luận23. ĐBQH được quyền giơ biển tranh luận là nét đổi mới rất đáng chú ý nhằm tăng tính truy vấn, phản biện, thực hiện chất vấn đến cùng các vấn đề Quốc hội quan tâm. Chính hình thức mới này đã mang lại không khí sôi động, kịch tính, hấp dẫn hơn cho các phiên chất vấn của Quốc hội. Việc ĐBQH tranh luận với Bộ trưởng đã tạo nên sinh khí mới, là bước đột phá trong hoạt động chất vấn nói riêng, cũng như hoạt động của Quốc hội nói chung. Đây là một bước quan trọng để chuyển từ Quốc hội tham luận sang Quốc hội thảo luận, tranh luận. 2.2 Các câu hỏi chất vấn không cho biết trước Trong những kỳ họp gần đây, chất vấn tiếp tục được đổi mới theo hướng, người được chất vấn sẽ không biết trước câu hỏi, không được chuẩn bị trước, các thành viên Chính phủ nhận được chất vấn sẽ phải trả lời tại chỗ. Đây là sự khác biệt trong cách thức tiến hành chất vấn, đòi hỏi người bị chất vấn phải thực hiện tốt hơn chức trách quản lý của mình để có thể bao quát, nắm chắc tình hình lĩnh vực thuộc trách nhiệm quản lý. Đồng thời, cách làm này cũng thể hiện hoạt động chất vấn của Quốc hội Việt Nam ngày càng tiệm cận hơn với các phương pháp hoạt động nghị trường của nhiều nghị viện trên thế giới. Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Quốc hội nhiều nước, nhất là Quốc hội của các nước theo mô hình của Anh thường không cho biết trước các câu hỏi chất vấn24. 23 Phát biểu của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân kết luận phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV. 24 Nguyễn Bảo Minh, “Hoạt động chất vấn của Quốc hội: Từ buổi sơ khai đến dòng chảy dân chủ và đổi mới (Bài 2)”, đăng trên Báo điện tử Công lý ngày 30/10/2015. 25 Văn Nghiệp Chúc, “Nhiều đổi mới ngay tại phiên chất vấn đầu tiên”, Báo Nhân dân điện tử, đăng ngày 21/11/2016. 26 Nguyên Vũ, “Nghị trường Việt Nam, một năm đặc biệt”, Báo điện tử VnEconomy, đăng ngày 29/12/2016. 2.3 Sự tham gia giải trình của tất cả các thành viên Chính phủ Đối với từng vấn đề chất vấn, không chỉ người được chọn trả lời chất vấn mà các bộ trưởng khác cũng cùng tham gia trả lời về những vấn đề đòi hỏi trách nhiệm liên đới. Việc chất vấn và trả lời chất vấn trên tinh thần nâng cao trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, tăng cường đối thoại, tranh luận, bám sát và đi đến cùng nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc một cách thiết thực và hiệu quả nhất, đáp ứng yêu cầu và mong mỏi của cử tri và nhân dân. Ví dụ, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV, các ĐBQH đã chất vấn Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ về các nhóm vấn đề giáo dục và đào tạo, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã tham gia phát biểu bổ sung về các nội dung có liên quan. Cách thức tiến hành chất vấn được kế thừa và đổi mới theo hướng lấy nhóm vấn đề làm trọng tâm. Qua hoạt động chất vấn, những nhóm vấn đề được Quốc hội lựa chọn, những câu hỏi chất vấn, tranh luận của nhiều ĐBQH (trong đó có nhiều đại biểu mới, đại biểu trẻ tuổi) là xác đáng, phù hợp thực tế, được cử tri, dư luận xã hội rất quan tâm25. Việc quyết định các nhóm vấn đề chất vấn cũng là cơ sở để việc chọn người trả lời chất vấn trúng và đúng hơn, khiến các Bộ trưởng cảm thấy công bằng, đồng thời cũng phù hợp ý nguyện của nhân dân26. 2.4 Công tác điều hành phiên chất vấn Công tác điều hành của Chủ tọa phiên chất vấn là nhân tố cơ bản hướng hoạt động của Quốc hội nói chung, hoạt động chất vấn nói riêng chuyển sang tăng cường thảo luận và tranh luận. ĐBQH và dư luận đánh giá cao cách điều hành khoa học, quyết đoán nhưng cũng THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 54 Số 15(343) T8/2017 rất linh hoạt của Chủ tọa các phiên chất vấn trong thời gian qua. Công tác điều hành phiên chất vấn đã kịp thời làm rõ nội dung chất vấn, định hướng thành viên Chính phủ và ĐBQH đi vào đúng trọng tâm vấn đề chất vấn; đưa ra được giải pháp thiết thực, hiệu quả đi kèm với nhiệm vụ, trách nhiệm và thời gian thực hiện. Khi kết thúc từng phần chất vấn, Chủ tịch Quốc hội đều có đánh giá riêng, giao trách nhiệm cho từng Bộ trưởng làm tốt hơn vai trò trưởng ngành, thực hiện lời cam kết trước ĐBQH và cử tri cả nước. 2.5 Chất vấn tại phiên họp UBTVQH và báo cáo, giải trình tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban Cùng với hoạt động chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, các phiên chất vấn và trả lời chất vấn của UBTVQH cũng được tổ chức thường xuyên hơn trong thời gian gần đây, trở thành hoạt động định kỳ. Bên cạnh đó, hoạt động báo cáo giải trình tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội cũng tiếp tục được đẩy mạnh và đi vào thực chất hơn, được các ĐBQH đồng tình, đánh giá cao, dần trở thành hoạt động chính thức và quan trọng của các cơ quan Quốc hội. Ví dụ, ngày 13/01/2017, Hội đồng Dân tộc của Quốc hội đã tiến hành phiên họp nghe Bộ trưởng Bộ Nội vụ giải trình về việc thực hiện Nghị định 116/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Ngày 01/3/2017, Ủy ban về Các vấn đề xã hội của Quốc hội đã tổ chức phiên họp toàn thể lần thứ 5 nghe Bộ trưởng Bộ Y tế, Tổng giám đốc Bảo hiểm Xã hội Việt Nam giải trình về việc triển khai thực hiện lộ trình thông tuyến trong khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Ngày 18/4/2017, UBTVQH cũng đã tiến hành phiên chất vấn trong khuôn khổ phiên họp thứ 9 của mình. Có thể nói, trong thời gian giữa hai kỳ họp, các phiên chất vấn của UBTVQH và các phiên giải trình của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã góp phần giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội; giảm bớt những vấn đề cần chất vấn tại kỳ họp Quốc hội. Những kết luận sau chất vấn, kiến nghị sau phiên giải trình đối với từng lĩnh vực là cơ sở quan trọng để điều chỉnh, khắc phục những bất cập, hạn chế trong chính sách pháp luật và tạo sự chuyển biến tích cực trong quản lý điều hành của các cơ quan, lĩnh vực liên quan; giúp ĐBQH có thêm thông tin nhiều chiều; đồng thời, nâng cao hiệu quả, vai trò của UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban trong hoạt động chung của Quốc hội. 3. Một số đề xuất tiếp tục đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội Để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sau đây: Thứ nhất, cần tiếp tục nghiên cứu, rút kinh nghiệm từ thực tiễn quá trình đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn trong thời gian qua để có những cải tiến đột phá hơn trong tổ chức hoạt động này. Theo đó, đổi mới để hoạt động chất vấn trở thành phiên đối thoại sâu hơn giữa các ĐBQH và thành viên của Chính phủ theo chuyên đề để có thể đi đến cùng, làm rõ và giải quyết được những vấn đề bức xúc đặt ra trong cuộc sống. Nghiên cứu tiếp tục tăng thời gian chất vấn và trả lời chất vấn, trong đó, phân bổ nhiều thời gian hơn cho hoạt động tranh luận (khoảng 1/3 tổng thời gian) và đảm bảo nguyên tắc tất cả các vấn đề quan trọng phải được tranh luận. Quy định thời gian nêu câu hỏi chất vấn và trả lời chất vấn chỉ là vài phút như hiện nay, mặc dù có những điểm tích cực, song dường như chưa thỏa mãn yêu cầu. Mặt khác, số lượng ĐBQH đăng ký đặt câu hỏi chất vấn khá lớn, trong khi quỹ thời gian dành cho hoạt động này trong chương trình kỳ họp còn khiêm tốn, nên đôi lúc vẫn có một số đại biểu không được thực hiện quyền chất vấn của mình trực tiếp tại Hội trường. Thứ hai, tăng cường các điều kiện bảo THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 55Số 15(343) T8/2017 đảm thực hiện quyền chất vấn của ĐBQH như: tạo lập không khí dân chủ, cởi mở, thẳng thắn trong các phiên chất vấn và trả lời chất vấn; hỗ trợ mạnh mẽ hơn về thông tin cho ĐBQH, tạo điều kiện cho đại biểu có thêm những lập luận và chứng cứ xác thực khi thực hiện quyền chất vấn Thứ ba, nâng cao chất lượng, hiệu quả của phương thức mới là “chất vấn toàn khóa”, hay còn gọi là “chất vấn quét” 27 (chất vấn kết hợp với xem xét việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội về chất vấn, nghị quyết của UBTVQH về chất vấn tại kỳ họp cuối năm của năm giữa nhiệm kỳ và năm cuối nhiệm kỳ). Thời gian dành cho hoạt động chất vấn tại một kỳ họp hiện còn khá hạn chế, dù đã được quy định tăng lên ít nhất 4 ngày vào năm giữa nhiệm kỳ và năm cuối nhiệm kỳ, nhưng cũng khó có thể đảm bảo xem xét bao quát lại toàn bộ việc thực hiện các nghị quyết về chất vấn của Quốc hội và của UBTVQH từ đầu nhiệm kỳ của các bộ, ngành. Do vậy, cần nghiên cứu cách thức thực hiện sao cho đảm bảo chất lượng. Điều này đòi hỏi các cơ quan của Quốc hội cần nêu cao hơn nữa vai trò của mình trong việc theo dõi việc thực 27 Lê Văn Cuông, “Còn nhiều dư địa đổi mới chất vấn”, Báo điện tử Đại biểu nhân dân đăng ngày 22/8/2016. hiện các nghị quyết về chất vấn theo lĩnh vực phụ trách, cung cấp cho Quốc hội những đánh giá toàn diện, sâu sắc, làm cơ sở vững chắc cho Quốc hội, các ĐBQH xem xét việc thực hiện nhiệm vụ của các bộ, ngành có liên quan trong cả nhiệm kỳ. Thứ tư, nghiên cứu xây dựng nội dung nghị quyết chất vấn của Quốc hội, của UBTVQH mang tính bắt buộc đối với các bộ, ngành có liên quan. Trong đó, xác định rõ chế tài xử lý việc không thực hiện đúng lời hứa chất vấn của những người bị chất vấn. Hiện nay, về bản chất, nghị quyết về chất vấn của Quốc hội là văn bản thể hiện thái độ của Quốc hội đối với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng bị chất vấn; giao cho họ phải thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khắc phục những hạn chế, yếu kém nhằm tạo chuyển biến trong các lĩnh vực được chất vấn. Do không đưa ra chế tài xử lý khi không thực hiện đúng lời hứa chất vấn nên việc chấp hành nghị quyết chất vấn trong một số trường hợp chưa nghiêm túc rõ ràng, nguy cơ lớn là sẽ xảy ra tình trạng áp dụng tùy tiện (theo hướng cứng nhắc hoặc quá lỏng lẻo). Thứ ba, cần phải bảo đảm rằng Luật Cạnh tranh có thể thực thi được Với tính chất là một đạo luật kiểm soát về trật tự thị trường, điều đó có nghĩa Luật Cạnh tranh chỉ phát huy vai trò bảo vệ cạnh tranh khi thị trường có cạnh tranh. Cho nên, bất kỳ sự can thiệp mang tính hành chính hoặc quyền lực nhà nước vào nền kinh tế trái với các quy luật thị trường đều tác động tiêu cực đến tính khả thi của đạo luật này. Điều 6 của Dự thảo đã dự trù các tình huống can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp. Điều 6 Luật Cạnh tranh năm 2004 cũng đã quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, có rất nhiều các quyết định hoặc hành vi hành chính vi phạm nội dung của Điều này mà không bị xử lý đã làm giảm đi tính khả thi của văn bản luật. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, để bảo đảm tính khả thi của Luật Cạnh tranh, điều kiện tiên quyết là Điều 6 Dự thảo phải được tôn trọng và thực thi đầy đủ  CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ ... (Tiếp trang 42) THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 56 Số 15(343) T8/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_doi_moi_trong_hoat_dong_chat_van.pdf