Vì vậy, phải hoàn thiện cơ chế “hậu
kiểm” thật chặt chẽ đối với việc tuyển dụng
LĐNN của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
tại Việt Nam. Cơ chế này phải đảm bảo
đúng nguyên tắc là chỉ sử dụng LĐNN khi
lao động trong nước không đáp ứng được,
nhưng việc tuyển dụng LĐNN phải đảm bảo
đúng điều kiện, tiêu chuẩn và yêu cầu về
vị trí công việc đúng theo những điều kiện,
tiêu chuẩn và yêu cầu đối với lao động trong
nước. Cơ chế này cũng cần phải đảm bảo
loại bỏ những điều kiện, tiêu chuẩn yêu cầu
không phù hợp với vị trí công việc và với lao
động Việt Nam. Ví dụ, nhiều nhà thầu của
Trung Quốc khi tuyển dụng công nhân kỹ
thuật thì yêu cầu phải thông thạo tiếng Hoa
(tiếng Trung Quốc), khi công nhân kỹ thuật
Việt Nam không đáp ứng được điều đó thì
họ lại tuyển dụng lao động của chính nước
họ. Do đó, cần phải có cơ chế kiểm soát và
loại bỏ những điều kiện, những tiêu chuẩn
và những yêu cầu không phù hợp nhằm bảo
hộ lao động trong nước.
- Xây dựng cơ chế liên thông thông tin
giữa các cơ quan QLNN về xuất nhập cảnh,
cư trú và tuyển dụng LĐNN giữa trung
ương với địa phương, giữa các địa phương
với nhau và giữa các Sở, Ban, ngành, địa
phương có liên quan; Cơ chế liên thông
thông tin này phải đảm bảo rằng, bất kỳ cơ
quan QLNN có thẩm quyền nào cũng có
thể truy nhập để kiểm tra thông tin của một
người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam
khi có vấn đề nghi vấn
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những hạn chế trong tuyển dụng lao động nước ngoài tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và một số kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG HẠN CHẾ TRONG TUYỂN DỤNG LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI
CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Tóm tắt:
Hiện nay, việc tuyển dụng lao động nước ngoài vào làm việc tại
Việt Nam về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu chung của nền kinh
tế thị trường. Tuy nhiên, nhiều quy định về tuyển dụng lao động
nước ngoài còn thiếu chặt chẽ, thiếu nhất quán, còn định tính chung
chung và chưa thể hiện rõ chính sách thu hút, ưu đãi nguồn nhân
lực chất lượng cao. Đồng thời, cơ chế hạn chế lao động phổ thông
nước ngoài đến Việt Nam cũng như việc bảo hộ hiệu quả nguồn
lao động phổ thông trong nước chưa được thực thi hiệu quả. Do
đó, cần sớm đưa ra các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý lao
động nước ngoài.
ThS. Đinh Duy Bằng*
* ThS. Văn phòng Luật sư Trường Thành, TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương
Abstract
Currently, the recruitment of foreign labourers to work in Vietnam
has basically met the general requirements of the market economy.
However, the regulations on recruitment of foreign labourers
appear lack of tightness, inconsistency, and general qualitative
and do not clearly present the policies to attract and favor high
quality human resources. At the same time, the mechanism to
restrict the unskilled foreign workers to Vietnam and the effective
policy protect the unskilled national laborers has not yet to provide
good enforcement. Therefore, it is necessary to soon come up with
solutions to improve the management of foreign labourers.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: tuyển dụng lao động, hạn chế,
giải pháp.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 04/5/2018
Biên tập : 16/01/2019
Duyệt bài : 23/01/2019
Article Infomation:
Keywords: recruitment of labourer,
restriction, solutions.
Article History:
Received : 04 May 2018
Edited : 16 Jan. 2019
Approved : 23 Jan. 2019
1. Những hạn chế trong tuyển dụng lao
động nước ngoài tại các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài
Thứ nhất, hạn chế trong tuyển dụng
lao động nước ngoài (LĐNN) ngắn hạn1.
Một là, hạn chế trong tuyển dụng lao
1 LĐNN ngắn hạn được hiểu là có thời hạn dưới 3 tháng.
động nước ngoài xuất phát từ chính các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(ĐTNN)
Thực tế cho thấy, nhu cầu tuyển dụng
LĐNN của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
tại Việt Nam là không lớn, chiếm thị phần
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
39Số 6(382) T3/2019
lao động rất nhỏ. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN lại thường xuyên “lạm
dụng” việc này để tuyển dụng LĐNN làm
việc trái phép tại Việt Nam. Việc này xuất
phát từ chính bản thân doanh nghiệp có vốn
ĐTNN thích sử dụng lao động nước mình để
dễ dàng quản lý, bảo mật thông tin, bảo mật
bí quyết kinh doanh, sản xuất, Và để được
tuyển dụng LĐNN theo ý muốn, các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN thường “lách luật”
bằng nhiều cách, trong đó có cách tuyển
dụng LĐNN ngắn hạn.
“Chiêu” lách luật mà các doanh nghiệp
có vốn ĐTNN thường sử dụng là tuyển dụng
lao động dưới 3 tháng, rồi "quay vòng" để
trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ và thủ tục
liên quan2. Bởi vì, theo quy định tại Điều
172 Bộ luật Lao động năm 2012 và Nghị
định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Bộ luật Lao động về lao
động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
(Nghị định số 11/2016/NĐ-CP) thì LĐNN
làm việc tại Việt Nam dưới 3 tháng thuộc
nhiều đối tượng được miễn cấp phép lao
động; doanh nghiệp có vốn ĐTNN có trách
nhiệm đề nghị Sở Lao động - Thương binh
và Xã hội (LĐ-TB-XH) xác nhận người
LĐNN không thuộc diện cấp giấy phép lao
động; đối với nhà thầu có sử dụng LĐNN
phải thực hiện thủ tục thông báo nhu cầu sử
dụng lao động trên phương tiện thông tin đại
chúng để tuyển dụng lao động trong nước,
hết thời hạn, mà không tuyển dụng được thì
mới được tuyển dụng lao động nước ngoài.
Tuy nhiên, trên thực tế, ở nhiều doanh
nghiệp có vốn ĐTNN có sử dụng LĐNN lại
không thực hiện thủ tục đề nghị xác nhận
miễn cấp phép lao động, không thông báo
nhu cầu sử dụng lao động theo quy định hoặc
thông báo nhưng yêu cầu tiêu chuẩn rất cao
2 Báo Công an Nghệ An, “Bất cập quản lý, sử dụng lao động nước ngoài”, 201207/
21819-bat-cap-quan-ly-su-dung-lao-dong-nuoc-ngoai-396109/, truy cập ngày 02/5/2018.
3 LĐNN dài hạn được hiểu là có thời hạn trên 3 tháng.
như có bằng cấp đại học, thông thạo nhiều
ngoại ngữ,... Do đó, doanh nghiệp có vốn
ĐTNN cứ mặc nhiên sử dụng LĐNN nếu
có bị phát hiện thì nêu đủ lý do như cho là
đã được cấp thị thực thì đủ điều kiện được
lao động, chỉ làm việc tại Việt Nam thời gian
ngắn nên chưa kịp thông báo, khai báo và
nếu có bị phạt thì số tiền cũng không đáng kể.
Nhiều doanh nghiệp có vốn ĐTNN
xin xác nhận những đối tượng lao động
ngắn hạn và được miễn cấp phép lao động
thì khi hết hạn, doanh nghiệp có vốn ĐTNN
lại cho về nước và đưa lao động khác qua.
Việc tuyển dụng LĐNN cứ quay vòng như
vậy - một năm tương ứng với bốn đợt, vẫn
rất hợp pháp và hợp lệ.
Hai là, hạn chế xuất phát từ các quy
định của pháp luật
Pháp luật về quản lý LĐNN tại Việt
Nam đang có “khoảng trống” trong các quy
định về LĐNN được tuyển dụng và làm
việc ngắn hạn tại Việt Nam. Pháp luật mới
liệt kê các đối tượng LĐNN làm việc ngắn
hạn tại Việt Nam được miễn giấy phép lao
động, quy định doanh nghiệp có vốn ĐTNN
chỉ cần đề nghị cơ quan nhà nước xác nhận
là đủ điều kiện làm việc hợp pháp tại Việt
Nam. Khoảng trống pháp luật ở đây chính
là các quy định về điều kiện, trình tự, thủ
tục kiểm duyệt các đối tượng lao động ngắn
hạn này. Cho đến nay, hầu như không có cơ
quan quản lý nào kiểm soát hoạt động của
LĐNN làm việc ngắn hạn tại Việt Nam xem
có đúng với khai báo của doanh nghiệp có
vốn ĐTNN hay không. Công việc này đang
phó mặc và chủ yếu dựa vào “sự trung thực,
lòng tốt” của chính các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN có tuyển dụng LĐNN làm việc ngắn
hạn tại Việt Nam.
Thứ hai, hạn chế trong tuyển dụng lao
động nước ngoài dài hạn3.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
40 Số 6(382) T3/2019
Có thể nói, việc tuyển dụng LĐNN
làm việc dài hạn tại các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN ở Việt Nam đã cung cấp nguồn nhân
lực chất lượng cao, góp phần nâng cao năng
suất lao động xã hội, thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng nhanh; tạo nguồn nhân lực đáp ứng
nhu cầu của các nhà ĐTNN vào Việt Nam;
tạo môi trường cạnh tranh giữa lao động Việt
Nam với LĐNN; góp phần đào tạo nhân lực
tại chỗ theo tương tác, thẩm thấu;...
Bên cạnh những ưu điểm đó, LĐNN
được các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tuyển
dụng vào làm việc dài hạn tại Việt Nam
cũng mang theo nhiều hạn chế. Những hạn
chế này bộc lộ từ cả hai phía là doanh nghiệp
có vốn ĐTNN và phía các cơ quan quản lý
nhà nước (QLNN).
- Hạn chế xét từ phía doanh nghiệp có
vốn ĐTNN
Không ít doanh nghiệp có vốn ĐTNN
lợi dụng chính sách, lợi dụng kẽ hở/lỗ hổng
pháp luật để tuyển dụng LĐNN vào làm việc
dài hạn tại Việt Nam. Theo quy định, người
nước ngoài là thành viên góp vốn sẽ không
thuộc diện cấp giấy phép lao động4. Lợi dụng
sự thông thoáng của chính sách này, người
LĐNN chỉ góp từ 01 đến 10 triệu đồng là có
thể xin xác nhận không phải cấp giấy phép
để làm việc hợp pháp tại Việt Nam. Hồ sơ
xác nhận lại khá đơn giản, chỉ cần hộ chiếu
và giấy chứng nhận thành viên tham gia góp
vốn là đã đủ. Từ đó, gây khó khăn cho công
tác quản lý và thẩm định hồ sơ. Ví dụ như
vụ việc xảy ra hồi tháng 7 năm 2017, Công
an tỉnh Khánh Hòa đã bắt Bering Ekateria
(người Nga) - một tội phạm bị Tổ chức Cảnh
sát hình sự quốc tế (Interpol) truy nã từ năm
2015. Ekateria đến thành phố Nha Trang
làm nhân viên tại một cơ sở spa trên đường
4 Khoản 1 Điều 172 Bộ luật Lao động năm 2012.
5 Báo Khánh Hòa, “Lao động người nước ngoài: Khó quản lý”,
nguoi-nuoc-ngoai-kho-quan-ly-8055265/, truy cập ngày 02/5/2018.
6 Cơ quan An ninh điều tra – Công an tỉnh Bình Dương, (2017), Bản kết luận điều tra vụ án: “Làm giả tài liệu của cơ
quan” và “Giả mạo trong công tác” xảy ra tại phường Chánh Nghĩa, TP Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương do Nguyễn Thị
Trung Hậu cùng đồng bọn thực hiện, tr1 - 42.
Hùng Vương. Để được làm việc hợp pháp,
Ekateria đã góp vốn với chủ cơ sở spa tại
khách sạn 4 sao của một doanh nghiệp có
vốn ĐTNN và xác nhận không thuộc diện
cấp giấy phép lao động. Thủ tục đầy đủ nên
ngành chức năng buộc phải xác nhận cho
Bering Ekateria5; Quy định này cũng làm
cho ngành chức năng không thể phát hiện
được người nước ngoài có mắc bệnh truyền
nhiễm, có án tích hay không,...
Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp có
vốn ĐTNN còn “lách luật” bằng cách xác
nhận kinh nghiệm “khống”, thậm chí làm
giả lý lịch tư pháp, chứng nhận kinh nghiệm
nghề, Ví dụ như trong vụ án “Làm giả tài
liệu của cơ quan” và “Giả mạo trong công
tác” xảy ra tại phường Chánh Nghĩa, thành
phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương do bị
can Nguyễn Thị Trung Hậu cùng đồng bọn
thực hiện. Nội dung vụ án này cho thấy, các
bị can đã thực hiện hành vi làm giả giấy
chứng nhận kinh nghiệm nghề, lý lịch tư
pháp trong một thời gian dài từ những năm
2009 cho mãi tới tháng 10/2013 và qua sự tố
cáo của chính người đã từng làm giả những
loại giấy tờ này thì Cơ quan An ninh điều
tra Công an tỉnh Bình Dương mới phát hiện
và khởi tố, điều tra. Điều đáng báo động là
trong vụ án đã có sự tiếp tay, giúp sức của
các cán bộ, công chức nhà nước phụ trách
các lĩnh vực liên quan đến cấp phép LĐNN
như: Công chức Phòng và Sở Tư pháp, Phó
Phòng LĐ-TB-XH, Phó Chánh thanh tra Sở
LĐ-TB-XH6,
- Hạn chế từ phía cơ quan QLNN
Đó là hạn chế từ các khâu như cung
ứng nguồn nhân lực, thẩm định hồ sơ cấp
phép/miễn cấp phép LĐNN; khâu hậu kiểm
- thanh tra, kiểm tra.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
41Số 6(382) T3/2019
Việc cung ứng nguồn nhân lực cho
các doanh nghiệp có vốn ĐTNN chưa được
các cơ quan QLNN về lao động, việc làm
quan tâm. Các cơ quan chỉ yêu cầu doanh
nghiệp có vốn ĐTNN thông báo nhu cầu
trên các phương tiện thông tin đại chúng mà
thiếu sự chủ động tìm kiếm nguồn nhân lực
và cung ứng, giới thiệu trực tiếp. Bên cạnh
đó, khi doanh nghiệp thông báo yêu cầu tiêu
chuẩn quá cao như ngoài chuyên môn là lao
động kỹ thuật còn yêu cầu phải thông thạo
ngoại ngữ, thậm chí là nhiều ngoại ngữ7,
mà không tuyển dụng được lao động trong
nước thì các cơ quan quản lý không có cơ
chế kiểm soát việc tuyển dụng LĐNN của
doanh nghiệp có vốn ĐTNN có đúng với
yêu cầu của thông báo tuyển dụng lao động
trong nước hay không.
Công tác thẩm định hồ sơ cấp phép lao
động/miễn cấp phép lao động là hoạt động
quan trọng trong quản lý LĐNN. Hoạt động
này bảo đảm cho hồ sơ xin cấp phép/miễn
cấp phép hợp lệ - phù hợp với các yêu cầu
của pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động này lại
chủ yếu được thực hiện, thẩm tra bằng thủ
công, bằng mắt thường và xem có đủ số
lượng các giấy tờ, văn bản và các điều kiện
được phép lao động hay chưa mà thôi. Vì
vậy, trong những năm qua hồ sơ cấp phép/
miễn cấp phép LĐNN được làm giả để xin
giấy phép/miễn giấy phép lao động diễn ra
khá nhiều nhưng cơ quan QLNN hầu như
không thể phát hiện và đã cho phép một số
lượng không nhỏ người nước ngoài không
đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định làm
việc tại Việt Nam.
Việc quản lý LĐNN sau khi cấp giấy
phép/miễn cấp phép lao động là trách nhiệm
của nhiều cơ quan, ban ngành và hiện còn
khá nhiều vướng mắc. Ví dụ, sau khi cấp
giấy phép/xác nhận miễn cấp phép, LĐNN
có thực sự làm việc tại doanh nghiệp đăng
7 Phan Minh Ngọc, Ứng xử với nạn thích tuyển lao động nước ngoài, 163464/ Ung-xu
-voi-nan-thich-tuyen-lao-dong-nuoc-ngoai.html, truy cập ngày 02/5/2018.
ký hay không? Có làm đúng nội dung công
việc trong giấy phép lao động hoặc theo xác
nhận miễn cấp phép hay không? Thời gian
làm việc tại doanh nghiệp có vốn ĐTNN
có đúng theo thời hạn giấy phép/miễn phép
lao động không? Để quản lý được những
nội dung trên, cần sự phối hợp chặt chẽ của
nhiều cơ quan có liên quan như: Sở LĐ-TB-
XH, Công an, Chính quyền địa phương;
Tuy nhiên, công tác hậu kiểm - thanh tra,
kiểm tra giấy phép/miễn phép LĐNN giữa
các cơ quan QLNN còn thiếu sự liên thông,
nhịp nhàng. Ngoài cơ quan chủ quản là các
Sở LĐ-TB-XH tích cực chủ động trong kiểm
thanh tra, kiểm tra thì các cơ quan khác cũng
như chính quyền địa phương còn bị động và
chủ yếu là mang tính phối hợp. Nếu công
tác hậu kiểm chỉ “khoán trắng” cho cơ quan
chủ quản thì rất khó khăn để phát hiện và
xử lý hết được những hành vi vi phạm trong
tuyển dụng LĐNN. Bởi lẽ, việc phát hiện
hành vi vi phạm nhanh nhất, hiệu quả nhất là
phải từ các ban ngành ở địa phương (tổ dân
phố, khu phố/thôn/ấp/xóm/làng,... và chính
quyền cấp xã).
2. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, nguyên nhân khách quan
- Do kinh nghiệm quản lý, tuyển
dụng LĐNN của chúng ta chưa nhiều, vì
vậy, việc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật (QPPL) còn mang tính manh mún, “hở
đâu vá đó” nhằm giải quyết kịp thời tình
hình nên tính bền vững, lâu dài của văn bản
QPPL còn hạn chế. Đến nay, pháp luật tuyển
dụng LĐNN đã có tính ổn định hơn, nhưng
vẫn còn những khoảng trống pháp lý và kẽ
hở nhất định.
- Có nhiều QPPL trong tuyển dụng
LĐNN mang tính chung chung, chưa thật
sự cụ thể. QPPL đồng nhất về đối tượng, về
văn bằng, về kinh nghiệm nghề, của tất cả
các quốc gia, vùng lãnh thổ là chưa phù hợp
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
42 Số 6(382) T3/2019
với thực tế và thông lệ quốc tế. Đối tượng
lao động, kinh nghiệm nghề, văn bằng được
công nhận tại một quốc gia phát triển (như
các quốc gia thuộc Châu Âu, Bắc Mỹ hoặc
Nhật Bản, Hàn Quốc,) khác xa so với các
đối tượng lao động, kinh nghiệm nghề, văn
bằng được công nhận tại các quốc gia đang
phát triển (như Trung Quốc, Malaysia).
Bên cạnh đó, QPPL quy định về thời
hạn LĐNN mà không có sự phân biệt lao
động ngắn hạn hay dài hạn tại Việt Nam là
chưa phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng
như thông lệ quốc tế. Kinh nghiệm của các
nước phát triển như như Vương quốc Anh,
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Đức cho thấy,
các quốc gia này đều có cơ chế thu hút
những người giàu có (có nhiều tài sản, mỗi
nước có định lượng riêng về khối lượng
tài sản) hoặc thu hút những nhà khoa học,
những sinh viên ưu tú, cho phép họ được
định cư và làm việc lâu dài8. Việt Nam đang
thiếu vắng các QPPL này và vì thế chưa có
cơ chế ưu tiên cho những đối tượng là lao
động chất lượng cao được đào tạo bài bản,
khoa học tại các nền kinh tế phát triển hoặc
ưu tiên những đối tượng có nguồn vốn, tài
sản lớn đến sinh sống và làm việc lâu dài.
Các QPPL xử lý vi phạm trong tuyển
dụng LĐNN còn khá mềm mỏng, chỉ dừng
lại ở các biện pháp xử lý vi phạm hành chính
mà thiếu vắng các chế tài mạnh đủ sức giáo
dục, răn đe mọi chủ thể tham gia quan hệ
tuyển dụng LĐNN.
- Còn thiếu cơ chế liên thông trong
thông tin giữa các cơ quan nắm giữ thông
tin với nhau. Như đã biết, để thẩm định hồ
sơ cấp phép/xác nhận miễn cấp phép hoặc
tổ chức thanh tra, kiểm tra, ngoài việc đòi
hỏi trình độ chuyên môn của cán bộ, công
chức thì công tác thẩm định, thanh tra, kiểm
tra thì yêu cầu phải có nhiều thông tin liên
quan. Tuy nhiên, đến nay cơ chế cung cấp
8 Points-based immigration system (United Kingdom), https://en.wikipedia.org/wiki/Points-based_immigration _system
_ (United_Kingdom), truy cập ngày 02/5/2018.
thông tin cho người làm công tác thẩm định
vẫn rất hạn chế và không được liên thông
thông tin kịp thời giữa các cơ quan QLNN.
Bởi lẽ, để thực hiện chế định tuyển dụng
LĐNN như trong khâu thẩm định hồ sơ, yêu
cầu tuyển dụng LĐNN; hoặc thực hiện việc
thanh tra, kiểm tra tuyển dụng LĐNN của
các doanh nghiệp có vốn ĐTNN; phải cần
tới nhiều thông tin và nhiều cơ quan QLNN
nhưng chúng ta lại chưa có sự liên thông,
phối hợp hiệu quả, kịp thời. Vì vậy, để xác
định hồ sơ cấp phép/miễn cấp phép hoặc kết
luận thanh tra, kiểm tra chính xác, khách
quan thì rất khó khăn.
Thứ hai, nguyên nhân chủ quan
- Các cơ quan QLNN về tuyển dụng
LĐNN còn có sự thờ ơ, tránh né trong các
công việc có khó khăn, phức tạp như thẩm
định chính xác, khách quan hồ sơ tuyển
dụng LĐNN;
- Công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân
thủ các yêu cầu, các điều kiện trong tuyển
dụng LĐNN tại các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN thực sự chưa được quan tâm đúng
mức và còn bị xem nhẹ. Thậm chí còn có sự
bao che cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
tuyển dụng LĐNN trái với nguyên tắc, trái
với quy định của pháp luật đối với các chủ
đầu tư được giao quyền.
- Nhiều cơ quan QLNN còn có sự chủ
quan, bị động trong công tác phối hợp cung
cấp thông tin cho nhau để thực hiện có hiệu
quả công tác quản lý LĐNN, trong đó có
công tác tuyển dụng LĐNN của các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng và tập
huấn chuyên sâu về công tác quản lý tuyển
dụng LĐNN nói chung và tuyển dụng
LĐNN của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
nói riêng cho cán bộ, công chức làm công
tác thẩm định, thanh tra, kiểm tra chưa
thường xuyên và hiệu quả. Nhiều nơi còn
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
43Số 6(382) T3/2019
có hiện tượng buông lỏng quản lý, bố trí cán
bộ, công chức không đúng/không phù hợp
với chuyên môn được đào tạo,
3. Kiến nghị hoàn thiện công tác quản lý
lao động nước ngoài tại Việt Nam
Thứ nhất, về giải pháp trước mắt
Một là, tiếp tục đổi mới và sắp xếp
lại bộ máy thực thi công tác quản lý tuyển
dụng LĐNN. Trong đó, chú trọng bộ máy
và con người thẩm định hồ sơ tuyển dụng
LĐNN; thanh tra, kiểm tra việc tuyển dụng
LĐNN của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
phải đảm bảo được tính nhanh gọn, hiệu lực,
hiệu quả và chuyên nghiệp. Trong đó các Sở
LĐ-TB-XH nơi có nhiều doanh nghiệp có
vốn ĐTNN hoạt động cần phải bố trí cán bộ,
công chức, viên chức chuyên trách về công
tác giới thiệu, cung ứng nguồn nhân lực là
lao động trong nước cho các doanh nghiệp
có vốn ĐTNN; theo dõi, kiểm soát việc
tuyển dụng LĐNN của các doanh nghiệp có
vốn ĐTNN.
Hai là, phải thường xuyên đào tạo,
bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ, công chức,
viên chức làm công tác quản lý tuyển dụng
LĐNN.
Ba là, các cơ quan quản lý tuyển dụng
LĐNN phải chủ động tìm kiếm và cung
ứng nguồn lao động cho các doanh nghiệp
có vốn ĐTNN. Giám sát chặt chẽ các điều
kiện, tiêu chuẩn, yêu cầu tuyển dụng của các
doanh nghiệp có vốn ĐTNN, để đảm bảo
rằng, trong trường hợp lao động trong nước
không đáp ứng được thì những điều kiện,
tiêu chuẩn, yêu cầu đó phải được LĐNN đáp
ứng đầy đủ. Tránh tình trạng doanh nghiệp
có vốn ĐTNN đưa ra điều kiện, tiêu chuẩn
và yêu cầu quá cao đối với lao động trong
nước với vị trí ứng tuyển, nhưng lại tuyển
dụng LĐNN cũng không đáp ứng những đòi
hỏi đó. Bên cạnh đó, phải kiên quyết loại bỏ
9 Trần Phú Vinh (2017), Pháp luật về quản lý nhập cư của Vương quốc Anh, Kỷ yếu Hội thảo khoa học trong Đề tài
nghiên cứu cấp Bộ của Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, Chủ nhiệm đề tài: TS. Ngô Hữu Phước, tr33.
những điều kiện, những tiêu chuẩn, những
yêu cầu không phù hợp với thực tế của vị trí
tuyển dụng và đối với lao động Việt Nam.
Thứ hai, về giải pháp lâu dài
- Đổi mới quy định tuyển dụng LĐNN.
Theo đó, cần phải có khung pháp lý rõ ràng
cho việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng
cao, nguồn vốn, tài sản nước ngoài và hạn
chế lao động phổ thông nước ngoài đến Việt
Nam nhằm bảo hộ lao động phổ thông trong
nước. Cần phân định các đối tượng được
phép lao động tại Việt Nam theo thời hạn
lao động là ngắn hạn hoặc dài hạn.
- Phải hoàn thiện cơ chế xử lý vi phạm
theo hai hướng là mở rộng trách nhiệm, nghĩa
vụ cho các đối tượng và tăng nặng chế tài.
Kinh nghiệm của các nước phát triển
trên thế giới như ở Vương quốc Anh cho
thấy trách nhiệm cao nhất luôn được quy
cho người sử dụng LĐNN. Theo đó, người
sử dụng lao động phải có trách nhiệm báo
cáo về tình hình sử dụng LĐNN, trường
hợp vi phạm sẽ bị xử phạt 10.000 bảng Anh
cho người sử dụng lao động nhập cư bất
hợp pháp do lỗi vô ý của người sử dụng lao
động. Mức phạt tiền là không giới hạn hoặc
có thể áp dụng án hình sự cho người sử dụng
lao động do lỗi cố ý9.
Pháp luật Việt Nam mới chỉ dừng lại ở
việc xử lý vi phạm hành chính. Vì vậy, theo
chúng tôi, cần có cơ chế đổi mới cho vấn đề
này. Bởi vì các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
là đầu mối của những vi phạm trong tuyển
dụng LĐNN. Do đó, quy trách nhiệm cao
nhất cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN có
hành vi vi phạm là đúng, là đảm bảo ngăn
ngừa được sự xâm phạm trật tự quan hệ lao
động. Đồng thời với trách nhiệm này là chế
tài nghiêm khắc, nghiêm minh bao gồm cả
phạt tiền và không loại trừ việc truy tố trách
nhiệm hình sự.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
44 Số 6(382) T3/2019
- Hoàn thiện cơ chế “hậu kiểm” đối
với việc tuyển dụng LĐNN của các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam.
Như đã nêu, công tác thanh tra, kiểm
tra đối với việc tuyển dụng LĐNN của các
doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam
còn nhiều hạn chế, yếu kém. Điều này đã
được minh chứng trong nhiều dự án, công
trình, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tuyển
dụng và sử dụng tràn lan lao động phổ thông
người nước ngoài nhưng các cơ quan QLNN
về lao động hoặc là không phát hiện được
hoặc là làm ngơ để thu hút ĐTNN.
Vì vậy, phải hoàn thiện cơ chế “hậu
kiểm” thật chặt chẽ đối với việc tuyển dụng
LĐNN của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
tại Việt Nam. Cơ chế này phải đảm bảo
đúng nguyên tắc là chỉ sử dụng LĐNN khi
lao động trong nước không đáp ứng được,
nhưng việc tuyển dụng LĐNN phải đảm bảo
đúng điều kiện, tiêu chuẩn và yêu cầu về
vị trí công việc đúng theo những điều kiện,
tiêu chuẩn và yêu cầu đối với lao động trong
nước. Cơ chế này cũng cần phải đảm bảo
loại bỏ những điều kiện, tiêu chuẩn yêu cầu
không phù hợp với vị trí công việc và với lao
động Việt Nam. Ví dụ, nhiều nhà thầu của
Trung Quốc khi tuyển dụng công nhân kỹ
thuật thì yêu cầu phải thông thạo tiếng Hoa
(tiếng Trung Quốc), khi công nhân kỹ thuật
Việt Nam không đáp ứng được điều đó thì
họ lại tuyển dụng lao động của chính nước
họ. Do đó, cần phải có cơ chế kiểm soát và
loại bỏ những điều kiện, những tiêu chuẩn
và những yêu cầu không phù hợp nhằm bảo
hộ lao động trong nước.
- Xây dựng cơ chế liên thông thông tin
giữa các cơ quan QLNN về xuất nhập cảnh,
cư trú và tuyển dụng LĐNN giữa trung
ương với địa phương, giữa các địa phương
với nhau và giữa các Sở, Ban, ngành, địa
phương có liên quan; Cơ chế liên thông
thông tin này phải đảm bảo rằng, bất kỳ cơ
quan QLNN có thẩm quyền nào cũng có
thể truy nhập để kiểm tra thông tin của một
người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam
khi có vấn đề nghi vấn
CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP...
(Tiếp theo trang 38)
Cụ thể là trao nhiều quyền và giá trị pháp lý
hơn cho thủ tục hoà giải, cụ thể là biên bản
hoà giải thành sẽ có hiệu lực như một bản
án hay quyết định của Toà án. Để làm được
điều này, cần tăng cường chất lượng và hiệu
quả hoạt động của hoà giải viên lao động
bằng cách tăng điều kiện bổ nhiệm và tăng
số lượng đại diện của hoà giải viên, cụ thể
là thêm hoà giải viên được mời từ tổ chức
Công đoàn, từ các trường đại học Cơ chế
cần cho phép hoà giải được tiến hành bởi
một hội đồng gồm ít nhất 3 thành viên trong
đó có 1 thành viên chuyên trách và 2 thành
viên được mời.
Thứ ba, cần xem xét cho công nhận
cho Trọng tài thương mại có quyền giải
quyết TCLĐ cá nhân khi được thoả thuận
lựa chọn bởi các bên tranh chấp. Pháp luật
Nhật Bản dành riêng một thủ tục tố tụng đặc
biệt để áp dụng đối với những loại tranh chấp
phát sinh trong lĩnh vực lao động nhưng liên
quan đến sự phân biệt đối xử hay sự không
công bằng trong quan hệ lao động (unfair
labour practice). Các TCLĐ loại này ngoài
thương lượng, hoà giải còn cho phép thủ tục
trọng tài để giải quyết tranh chấp
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
45Số 6(382) T3/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_han_che_trong_tuyen_dung_lao_dong_nuoc_ngoai_tai_cac_d.pdf