Những kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự
Thứ nhất, cần ban hành các Nghị
quyết, văn bản dưới luật hướng dẫn các quy
định về khởi kiện Vụ án dân sự.
Trên cơ sở BLTTDS năm 2015, Nhà
nước ta cần ban hành thêm các văn bản quy
phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể đối với các
quy định còn mang tính chất chung chung,
mơ hồ đặc biệt là đối với các vấn đề hiện
còn nhiều vướng mắc trong các quy định
khiến cho việc thực hiện quyền khởi kiện và
trách nhiệm thụ lý vụ án của Tòa án trên
thực tế bị ảnh hưởng và hạn chế như vấn đề
về thời hiệu khởi kiện; về việc thay đổi, sửa
đổi, bổ sung đơn khởi kiện trước khi thụ lý
vụ án và trước khi xét xử phiên tòa sơ thẩm;
về xác định tư cách pháp lý của hộ gia đình,
tổ hợp tác khi tham gia vào các quan hệ
PLTTDS; phân công Thẩm phán giải quyết
vụ việc hay vấn đề gửi đơn khởi kiện thông
qua hệ thống trực tuyến;
Thứ hai, cần quy định cụ thể việc xác
định chủ thể có quyền khởi kiện và chủ thể
khi bị xâm phạm về quyền và lợi ích có thể
ủy quyền cho người khác khởi kiện thay.
Nếu chỉ hiểu những chủ thể tham gia
vào quan hệ pháp luật dân sự mới có quyền
khởi kiện VADS là hạn chế quyền của các
cá nhân, cơ quan, tổ chức. Do đó, Nghị
quyết hướng dẫn thi hành BLTTDS năm
2015 cần đưa ra tiêu chí xác định chủ thể có
quyền, lợi ích bị xâm phạm có quyền khởi
kiện.
Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi
cho người có quyền, lợi ích bị xâm hại trong
việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình, tránh việc áp dụng
không đúng các quy định tại Điều 186, 189
của BLTTDS năm 2015 theo hướng bắt
buộc người có quyền và lợi ích bị xâm hại
phải ký hoặc điểm chỉ vào đơn khởi kiện
như trên và để đảm bảo thống nhất áp dụng
pháp luật rất cần có hướng dẫn cụ thể của
hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao.
Đối với các vụ án ly hôn không áp
dụng chế độ người đại diện có quy định đích
thân chồng hay vợ phải đứng đơn khởi kiện
và tham gia tố tụng chứ không thể nhờ ai
thay mặt mình được. Thực tiễn cho thấy
những vụ xin ly hôn liên quan đến vợ, chồng
bị mất năng lực hành vi dân sự (NLHVDS)
ngày càng trở nên phổ biến mà pháp luật
hiện nay lại chưa có quy định điều chỉnh
tình huống này. Vậy cha, mẹ có thể là người
đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho con họ - người bị mất NLHVDS trong
vụ án ly hôn hay không? Hiện nay thì Tòa
án vẫn không tiếp nhận giải quyết những
trường hợp mà người đại diện khởi kiện là
cha hoặc mẹ của những người này. Do đó,
nhằm hướng tới việc bảo vệ tối đa quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, cần ban hành
văn bản hướng dẫn theo đó cho phép cha,
mẹ là người giám hộ theo hàng thứ hai (vợ,
chồng là người giám hộ theo hàng thứ nhất)
có quyền đại diện cho con bị mất NLHVDS
trong khởi kiện và tham gia tố tụng ở vụ việc
ly hôn.
Để đảm bảo việc áp dụng thống nhất
pháp luật trong TAND, cần có sự thống nhất
trong nhận thức về quy định của pháp luật.
Vì vậy cần hướng dẫn cụ thể việc ủy quyền
thực hiện việc khởi kiện của cá nhân.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20 Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 52 (02/2019) 20-27
NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
Đinh Thị Hằng, Đinh Ngọc Minh Trang*††††
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 6/8/2018
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 6/2/2019
Ngày bài báo được duyệt đăng: 26/2/2019
Tóm tắt: Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sư tại Tòa án vẫn còn gặp nhiều vướng mắc,
bất cập, có nhiều ý kiến khác nhau trong việc thực hiện đầy đủ các quy định này và chưa được
các cơ quan có thẩm quyền giải thích một cách đầy đủ và thống nhất. Ngoài ra, cũng có nhiều
quy định mới cần được hiểu chính xác và được hướng dẫn cụ thể để triển khai áp dụng trên thực
tế. Từ thực tiễn đó, bài viết trình bày một cách tiếp cận các khái niệm về quy định quyền khởi
kiện vụ án dân sự đồng thời chỉ ra được những khuyết điểm, hạn chế của pháp luật còn tồn tại.
Từ khóa: pháp luật tố tụng dân sự, vụ án dân sự, quyền khởi kiện vụ án dân sự, kiến
nghị, thực tiễn.
1. Đặt vấn đề
1.1 Khái niệm về vụ án dân sự và
khởi kiện vụ án dân sự
1.1. 1 Khái niệm vụ án dân sự
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng
“Vụ là việc , sự việc không hay, rắc rối cần
phải giải quyết”; “Dân sự thuộc việc của
dân, phân biệt với việc của quan”1.‡‡‡‡Còn
theo Đại từ điển tiếng Việt “Án là vụ việc
phải đưa ra xét xử ở Tòa” và “Dân sự là việc
liên quan đến dân nói chung”2.§§§§Như vậy giải
thích về mặt ngôn ngữ, có thể hiểu vụ án dân
sự (VADS) là những tranh chấp về quyền và
* Khoa Luật, Trường Đại học Mở Hà Nội.
1 Từ điển tiếng Việt thông dụng (1996), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
2 Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam – Bộ GD &ĐT (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
nghĩa vụ liên quan đến dân và phải đưa ra
xét xử ở Tòa án.
Xét về bản chất, các quan hệ kinh tế
hay lao động cũng xuất phát từ ý chí tự
nguyện giao kết của các bên chủ thể như các
quan hệ dân sự thông thường nhưng khi giải
quyết các vụ việc lại tách riêng thành các thủ
tục khác nhau, điều này dường như gây ra
một sự phức tạo hóa trong các quy định pháp
luật. Trong khi đó, khả năng dân trí trong
nhân dân cả nước còn bi hạn chế khiến cho
việc tiếp cận và áp dụng các quy định pháp
luật càng trở nên khó khăn. Do vậy, đến Bộ
luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004,
các nhà làm luật đã có sự kết luận rõ ràng.
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 21
Khái niệm “Vụ việc dân sự bao gồm vụ án
dân sự và việc dân sự” (theo Điều 1
BLTTDS năm 2004) đã được quy định chi
tiết. Tương ứng với điều đó, các nhà làm luật
đã phân định thủ tục giải quyết các vụ việc
có tranh chấp (vụ án dân sự) và vụ việc
không có tranh chấp (việc dân sự). Khái
niệm “vụ việc dân sự” được quy định ở mức
khái quát hơn, không chỉ đơn thuần phát
sinh từ các quan hệ truyền thống mà nó còn
bao hàm phạm vi rộng hơn gồm các quan hệ
hôn nhân – gia đình, kinh doanh, thương
mại và lao động (quan hệ dân sự theo nghĩa
rộng). Cũng từ đây, có thể nhận thấy rằng,
thuật ngữ “vụ án dân sự” mới tể hiện được
đúng tinh thần của nó. Theo Điều 1
BLTTDS năm 2015, “VADS là các tranh
chấp giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức về
quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ pháp
luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động” được Tòa án
đưa ra giải quyết theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự.
1.1. 2 Khái niệm khởi kiện vụ án
dân sự
Theo cách giải thích nghĩa của từ
tiếng Việt, “khởi” là bắt đầu, mở đầu và
“kiện” là động từ chỉ hành động nhờ cơ quan
pháp luật xét xử người làm thiệt hại đến
mình thông qua việc gửi đơn kiện lên Tòa.
TS. Hoàn Ngọc Thỉnh cho rằng “Khởi kiện
VADS là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức
hoặc các chủ thể khác theo quy định của
3 Nguyễn Công Bình (2017), Giáo trình Luật
Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội.
pháp luật Tố tụng dân sự nộp đơn yêu cầu
Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình hay của người
khác”3.*****Theo đó, khởi kiện là hành vi đầu
tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể
khác tham gia vào quan hệ pháp luật Tố tụng
dân sự (PLTTDS), là cơ sở làm phát sinh
quan hệ PLTTDS.
Khởi kiện VADS là hoạt động Tố
tụng dân sự (TTDS) khởi đầu cho quá trình
TTDS tại Tòa án, có ý nghĩa rất quan trọng
đối với việc giải quyết VADS. Để đảm bảo
cho hoạt động này có hiệu quả thì pháp luật
phải quy định cụ thể trình tự, thủ tục và
phương thức hoạt động. Hiện nay, trong
pháp luật Việt Nam không quy định định
nghĩa về khởi kiện VADS. Tuy vậy, qua các
phân tích trên có thể khái quát rằng “Khởi
kiện VADS là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức
hoặc các chủ thể khác theo quy định pháp
luật tố tụng dân sự nộp đơn yêu cầu Tòa án
có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình hay của người khác, bảo vệ
lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước”4.†††††
1.2 Tầm quan trọng quyền khởi
kiện vụ án dân sự
PLTTDS là phương tiện pháp lý để
các chủ thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Theo đó, pháp luật về khởi kiện
VADS là cơ sở pháp lý cho Tòa án tiến hành
các hoạt động thụ lý, giải quyết VADS để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá
nhân, cơ quan, tổ chức, bảo vê lợi ích Nhà
4 Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật
Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội.
22 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
nước và lợi ích công cộng. Vì vậy, pháp luật
về khởi kiện VADS có vai trò quan trọng
đối với tính hiệu quả của khởi kiện VADS:
Thứ nhất, PLTTDS về khởi kiện
VADS đầy đủ, công khai, minh bạch là cơ
sở để các chủ thể có đầy đủ các phương tiện
pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình trước Tòa án, chống lại các hành
vi xâm phạm về quyền và lợi ích của các chủ
thể và đảm bảo quyền khởi kiện của các chủ
thể này được thực hiện.
Thứ hai, PLTTDS về khởi kiện
VADS đáp ứng tính thống nhất, đồng bộ
cũng như quy định cụ thể, rõ ràng, có cơ sở
khoa học và không mâu thuẫn nhau thì Tòa
án sẽ dễ dàng trong việc xem xét thụ lý để
giải quyết VADS cũng như các chủ thể có
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
thuận lợi trong việc tiếp cận công lý.
Thứ ba, PLTTDS về khởi kiện
VADS đáp ứng tính khả thi, phù hợp sẽ làm
cho các quy định này không chỉ có ý nghĩa
trên văn bản mà sẽ phát huy hiệu quả, hiệu
lực trên thực tế nhằm đảm bảo quyền khởi
kiện của các chủ thể được thực hiện.
1.3 Thực tiễn thực hiện các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi
kiện vụ án dân sự
1.3.1.Những kết quả đạt được
trong việc thực hiện các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự về khởi kiện vụ án dân
sự
Trong những năm qua, Tòa án luôn nỗ
lực thụ lý giải quyết các tranh chấp dân sự
5 Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo
Tổng kết công tác năm 2017 và nhiệm vụ trọng
một cách nhanh chóng, toàn diện, kịp thời
đảm bảo quyền khởi kiện, quyền tiếp cận
công lý của người dân. Các hoạt động của
Tòa án và những thành tựu của Tòa án được
thể hiện qua các thống kê sau:
Từ ngày 01/10/2016 đến ngày
30/09/2017, các Tòa án đã giải quyết được
438.625 vụ việc trong tổng số 491.384 vụ
việc đã thụ lý (đạt tỷ lệ 89,3%) trong tất cả
các lĩnh vực, trong đó số lượng các vụ việc
dân sự chiếm tỷ lệ cao nhất trong 3 lĩnh vực
dân sự, hình sự và hành chính. Cụ thể, ngành
Tòa án đã thụ lý 387.051 vụ việc dân sự, đã
giải quyết, xét xử 338.756 vụ việc dân sự,
đạt tỷ lệ 87.5% vượt 2.5% chỉ tiêu đề ra (so
với cùng kỳ năm trước số thụ lý tăng 27.303
vụ, giải quyết tăng 32.033 vụ)5.‡‡‡‡‡
Trong số các vụ việc dân sự, hôn nhân
gia đình, kinh doanh thương mại và lao động
mà các Tòa án đã thụ lý để giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm, số lượng vụ việc dân sự là
119.927 vụ (tăng 6.835 vụ so với cùng kỳ
năm trước), chiếm tỷ lệ cao là các tranh chấp
về hợp đồng vay tài sản, tranh chấp về
quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh
chấp đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ,
lấn chiếm; các vụ việc hôn nhân và gia đình
là 231.662 vụ (tăng 24.850 vụ so với cùng
kỳ năm trước), trong đó ly hôn do mâu thuẫn
gia đình chiếm tới 73% tổng số các vụ án ly
hôn mà Tòa án đã giải quyết; các vụ việc
kinh doanh thương mại là 15.446 vụ việc
(giảm 576 vụ việc), chủ yếu là tranh chấp
tâm công tác của các Tòa án nhân dân năm
2018, tr.4
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 23
trong lĩnh vực đầu tư tài chính, ngân hàng
và mua bán hàng hóa; các vụ việc lao động
là 4.810 vụ (giảm 2.618 vụ so với cùng kỳ
năm trước), chủ yếu là tranh chấp về xử lý
kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hơp
đồng lao động6.§§§§§
Trong công tác giải quyết, xét xử các vụ
việc dân sự, các Tòa án đã quan tâm, khắc
phục có hiệu quả để các vụ việc dân sự quá
thời hạn giải quyết theo quy định của pháp
luật. Năm 2015 chỉ còn 116 vụ quá hạn do
lỗi chủ quan, chiếm tỷ lệ 0,03%, giảm
0,01% so với cùng kỳ năm 2014. Năm 2016
chỉ còn 67 vụ quá hạn do lỗi chủ quan,
chiếm tỷ lệ 0,02% giảm 0,01% so với cùng
kỳ năm 20157.******Đến năm 2017, công tác giải
quyết, xét xử các vụ việc dân sự của Tòa án
vẫn giữ vững nhằm bảo vệ kịp thời quyền và
lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân.
Qua số liệu thống kê hàng năm và gần
nhất là năm 2017, có thể thấy ngành Tòa án
đang nỗ lực phấn đấu nâng cao chất lượng
hoạt động xét xử, thời gian thụ lý các vụ việc
được rút ngắn nhằm kịp thời bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
1.3.2 Những hạn chế, bất cập
trong việc thực hiện những quy định của
pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện vụ
án dân sự
Trong công tác thực hiện các quy định
của PLTTDS về khởi kiện VADS còn tồn
tại những hạn chế, bất cập sau:
6 Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo
Tổng kết công tác năm 2017 và nhiệm vụ trọng
tâm công tác của các Tòa án nhân dân năm
2018, tr.4
Thứ nhất, khó khăn, vướng mắc trong
việc thực hiện quy đinh về thẩm quyền của
Tòa án.
Các tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh
trong đời sống xã hội khi được viện dẫn đến
Tòa án thì Tòa án phải thụ lý giải quyết trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy
nhiên, hiện nay vụ việc chưa có điều luật áp
dụng tại thời điểm giải quyết vụ việc dân sự,
chưa có quy phạm pháp luật cụ thể nào để
điều chỉnh trực tiếp vụ việc dân sự đó mà
phải cần đến tập quán, tương tự pháp luật,
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án
lệ hay lẽ công bằng để có thể giải quyết được
vụ việc dân sự (theo Điều 45, BLTTDS năm
2015).
Mặt khác, việc Tòa án thụ lý sai thẩm
quyền vẫn còn tồn tại làm ảnh hưởng đến
quyền khởi kiện của các chủ thể. Chẳng hạn,
ngày 22/03/2017, Cơ quan điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao đã có thông báo
gửi Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Kiên
Giang về kết quả điều tra sơ bộ liên quan
đến đơn thư tố cáo Thẩm phán, Thư ký của
huyện Phú Quốc (Kiên Giang) có sai phạm
khi giải quyết sơ thẩm vụ “Tranh chấp hợp
đồng dân sự góp vốn” giữa Công ty cổ phần
Núi Ngọc và ông Lê Minh Huê, bà Lê Thị
Thanh Tú. Trong quá trình kiểm sát đã phát
hiện TAND huyện Phú Quốc đã thụ lý, xét
xử sơ thẩm vụ án là có dấu hiệu sai thẩm
quyền vì trong VADS có đương sự đang
sống và làm việc tại Canada nên theo quy
7 Tòa án nhân dân tối cao (2017), Báo cáo
Tổng kết công tác năm 2016 và nhiệm vụ
trọng tâm công tác của các Tòa án nhân dân
năm 2017, tr.4
24 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
định của PLTTDS vụ án phải thuộc thẩm
quyền giải quyết của TAND cấp Tỉnh8.††††††
Thứ hai, khó khăn, hạn chế từ việc khởi
kiện của chủ thể là người không biết chữ,
người mất NLHVDS, người có khó khăn
trong nhận thức và làm chủ hành vi, người
khuyết tật.
Theo quy định tại điểm c, Khoản 1,
Điều 189, BLTTDS năm 2015 trường hợp
người khởi kiện không biết chữ, người
khuyết tật nhìn, người không thể tự mình
làm đơn khởi kiện, người không thể tự mình
ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể nhờ người
khác làm hộ đơn khởi kiện và phải có người
có đủ năng lực tố tụng dân sự làm chứng.
Tuy nhiên, thực tế áp dụng quy định trên còn
một số bất cập như những người không biết
chữ là những người không biết đọc, không
biết viết nhưng trên thực tế có một số người
không biết chữ nhưng vẫn ký tên và ghi
được họ, tên mình như người biết chữ; nếu
Tòa án không kiểm tra, xác minh kỹ sẽ dẫn
đến nhầm lẫn, vi phạm thủ tục tố tụng. Việc
không xác minh người khởi kiện có biết chữ
hay không là một thiếu sót, có thể dẫn đến
việc hủy án do vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng.
Thứ ba, khó khăn, hạn chế từ phía các cá
nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm hỗ
trợ đương sự thực hiện quyền khởi kiện
thông qua việc cung cấp tài liệu, chứng cứ.
Thực tế, khi giải quyết các vụ án mà có
các tài liệu, chứng cứ đang do cơ quan, tổ
chức lưu giữ, quản lý thì việc thu thập chứng
8 Hà Thương (2018), “Thẩm phán và Thư ký bị
tố giả mạo chữ ký đương sự”, Báo điện tử
Thanh niên, ngày 17/07/2018
cứ không hề đơn giản. Trong rất nhiều vụ
án, mặc dù đương sự đã cất công đi lại nhiều
lần yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp các
chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ
án để họ giao nộp cho Tòa án nhưng đều bị
từ chối với đủ mọi lý do. Việc từ chối
thường chỉ bằng lời nói, thái độ, cử chỉ. Với
cách từ chối này, đương sự khó có thể chứng
minh việc họ đã áp dụng mọi biện pháp
nhưng vẫn không thu thập được chứng cứ để
làm cơ sở yêu cầu Tòa án thu thập9.‡‡‡‡‡‡Chính
vì vấn đề này dẫn đến Tòa án không thể đảm
bảo giải quyết triệt để các yêu cầu khởi kiện
của người dân, dẫn đến quyền khởi kiện của
người dân bị ảnh hưởng.
2. Những kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự
Thứ nhất, cần ban hành các Nghị
quyết, văn bản dưới luật hướng dẫn các quy
định về khởi kiện Vụ án dân sự.
Trên cơ sở BLTTDS năm 2015, Nhà
nước ta cần ban hành thêm các văn bản quy
phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể đối với các
quy định còn mang tính chất chung chung,
mơ hồ đặc biệt là đối với các vấn đề hiện
còn nhiều vướng mắc trong các quy định
khiến cho việc thực hiện quyền khởi kiện và
trách nhiệm thụ lý vụ án của Tòa án trên
thực tế bị ảnh hưởng và hạn chế như vấn đề
về thời hiệu khởi kiện; về việc thay đổi, sửa
đổi, bổ sung đơn khởi kiện trước khi thụ lý
vụ án và trước khi xét xử phiên tòa sơ thẩm;
về xác định tư cách pháp lý của hộ gia đình,
tổ hợp tác khi tham gia vào các quan hệ
9 Phạm Thái Quý (2010), “Thu thập chứng cứ
trong tố tụng còn gian nan”, Báo điện tử Đại
biểu nhân dân, ngày 03/05/2010.
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 25
PLTTDS; phân công Thẩm phán giải quyết
vụ việc hay vấn đề gửi đơn khởi kiện thông
qua hệ thống trực tuyến;
Thứ hai, cần quy định cụ thể việc xác
định chủ thể có quyền khởi kiện và chủ thể
khi bị xâm phạm về quyền và lợi ích có thể
ủy quyền cho người khác khởi kiện thay.
Nếu chỉ hiểu những chủ thể tham gia
vào quan hệ pháp luật dân sự mới có quyền
khởi kiện VADS là hạn chế quyền của các
cá nhân, cơ quan, tổ chức. Do đó, Nghị
quyết hướng dẫn thi hành BLTTDS năm
2015 cần đưa ra tiêu chí xác định chủ thể có
quyền, lợi ích bị xâm phạm có quyền khởi
kiện.
Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi
cho người có quyền, lợi ích bị xâm hại trong
việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình, tránh việc áp dụng
không đúng các quy định tại Điều 186, 189
của BLTTDS năm 2015 theo hướng bắt
buộc người có quyền và lợi ích bị xâm hại
phải ký hoặc điểm chỉ vào đơn khởi kiện
như trên và để đảm bảo thống nhất áp dụng
pháp luật rất cần có hướng dẫn cụ thể của
hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao.
Đối với các vụ án ly hôn không áp
dụng chế độ người đại diện có quy định đích
thân chồng hay vợ phải đứng đơn khởi kiện
và tham gia tố tụng chứ không thể nhờ ai
thay mặt mình được. Thực tiễn cho thấy
những vụ xin ly hôn liên quan đến vợ, chồng
bị mất năng lực hành vi dân sự (NLHVDS)
ngày càng trở nên phổ biến mà pháp luật
hiện nay lại chưa có quy định điều chỉnh
tình huống này. Vậy cha, mẹ có thể là người
đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho con họ - người bị mất NLHVDS trong
vụ án ly hôn hay không? Hiện nay thì Tòa
án vẫn không tiếp nhận giải quyết những
trường hợp mà người đại diện khởi kiện là
cha hoặc mẹ của những người này. Do đó,
nhằm hướng tới việc bảo vệ tối đa quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, cần ban hành
văn bản hướng dẫn theo đó cho phép cha,
mẹ là người giám hộ theo hàng thứ hai (vợ,
chồng là người giám hộ theo hàng thứ nhất)
có quyền đại diện cho con bị mất NLHVDS
trong khởi kiện và tham gia tố tụng ở vụ việc
ly hôn.
Để đảm bảo việc áp dụng thống nhất
pháp luật trong TAND, cần có sự thống nhất
trong nhận thức về quy định của pháp luật.
Vì vậy cần hướng dẫn cụ thể việc ủy quyền
thực hiện việc khởi kiện của cá nhân.
Thứ ba, cần sửa đổi quy định pháp
luật về xác định thẩm quyền của Tòa án theo
lãnh thổ.
Việc nghiên cứu, phân tích của luận
văn cho thấy cấu trúc các quy định tại Điều
39 và Điều 40 BLTTDS năm 2015 về thẩm
quyền theo lãnh thổ chưa thực sự hợp lý. Xét
về bản chất và logic của vấn đề thì các quy
định tại Điều 39 và Điều 40 của BLTTDS
năm 2015 đều nhằm xác định thẩm quyền
của Tòa án theo lãnh thổ nhưng tiêu đề của
Điều 39 được đặt tên là :”Thẩm quyền của
Tòa án theo lãnh thổ”, trong khi đó tiêu đề
của Điều 40 lại là “Thẩm quyền của Tòa án
theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu
cầu”. Vậy phải chăng quy định tại Điều 40
BLTTDS năm 2015 không phải là quy định
26 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
về thẩm quyền theo lãnh thổ10.§§§§§§Ngoài ra, để
xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh
thổ một cách chính xác thì thứ tự áp dụng sẽ
là (1) điểm c, Khoản 1, Điều 39; (2) điểm b,
Khoản 1, Điều 39; (3) Điều 40 và cuối cùng
là (4) điểm a, Khoản 1, Điều 39; như vậy sẽ
gây khó khăn cho các chủ thể muốn khởi
kiện ra Tòa án khi xác định thẩm quyền của
Tòa án theo lãnh thổ. Chính vì vậy, sẽ hợp
lý hơn nếu các quy định tại Điều 40
BLTTDS năm 2015 được thể hiện trong
Điều 39 của Bộ luật này và sắp xếp các điều
khoản theo thứ tự ưu tiên hợp lý các tiêu chí
sau:
(i) Thẩm quyền của Tòa án đối với
tranh chấp bất động sản được quy định theo
nguyên tắc:
- Tòa án nơi có bất động sản có thẩm
quyền đối với trường hợp đối tượng tranh
chấp là bất động sản, trừ trường hơp khác
được pháp luật quy định (vụ án lý hôn
nhưng có tranh chấp là tài sản bất động
sản,);
- Đối với tranh chấp có đối tượng là bất
động sản thì các đương sự không có quyền
lựa chọn Tòa án, trừ trường hợp lựa chọn
Tòa án nơi có một trong các bất động sản
tranh chấp nếu tranh chấp nhiều bất động
sản;
(ii) Thẩm quyền của Tòa án đối với
các tranh chấp không phải là bất động sản
được quy định theo thứ tự ưu tiên sau:
- Xác định theo sự thỏa thuận hợp pháp
của các bên chủ thể;
- Xác định theo sự lựa chọn của nguyên
đơn, người yêu cầu trong số các Tòa án được
pháp luật quy định;
- Xác định theo nơi cư trú, sinh sống, làm
việc hoặc có trụ sở nếu bị đơn là cơ quan, tổ
chức.
3. Kết luận:
Thông qua phân tích các quy định của
pháp luật, tác giả nhận thấy BLTTDS năm
2015 đã kế thừa được những điểm tích cực
của các BLTTDS cũ cũng như các nghị
quyết hướng dẫn trước đây mặc dù đã hết
hiệu lực nhưng vẫn mang giá trị tham khảo.
Bên cạnh đó, việc quy định “Tòa án không
được phép từ chối giải quyết vụ việc dân sự
vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” là
một bước tiến mới trong tư tưởng lập pháp
tạo tiền đề pháp lý vững chắc cho người dân
thực hiện quyền khởi kiện của mình. Trên
cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, tác giả
đã đưa ra một số đề xuất về hoàn thiện và
thực hiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả
bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện, góp
phần xây dựng một xã hội ổn định, công
bằng và văn minh/./
10 Trần Anh Tuấn (2018), Kỷ yếu hội thảo
“Những quy định chung của BLTTDS năm
2015”, Hà Nội, tháng 06/2018, tr.55.
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 27
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
2. Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo
trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
3. Hà Thương (2018), “Thẩm phán và
Thư ký bị tố giả mạo chữ ký đương
sự”, Báo điện tử Thanh niên, ngày
17/07/2018.
4. Nguyễn Công Bình (2017), Giáo
trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
5. Phạm Thái Quý (2010), “Thu thập
chứng cứ trong tố tụng còn gian
nan”, Báo điện tử Đại biểu nhân
dân, ngày 03/05/2010.
6. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo
cáo Tổng kết công tác năm 2017 và
nhiệm vụ trọng tâm công tác của các
Tòa án nhân dân năm 2018.
7. Trần Anh Tuấn (2018), Kỷ yếu hội
thảo “Những quy định chung của
BLTTDS năm 2015”, Hà Nội, tháng
06/2018.
8. Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt
Nam - Bộ GD &ĐT (1999), Đại từ
điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
9. Từ điển tiếng Việt thông dụng
(1996), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
Địa chỉ tác giả: Khoa Luật, Trường Đại học
Mở Hà Nội
Email: dinhhang0409@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_kien_nghi_nham_hoan_thien_phap_luat_ve_khoi_kien_vu_an.pdf