KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Sự phát triển đa dạng của các công nghệ chiếu xạ
y tế đã và đang đặt ra thách thức rất lớn trong quản
lý nhà nước để đảm bảo việc khai thác sử dụng an
toàn hiệu quả tại các cơ sở y tế. Các cơ sở điều trị có
xu hướng triển khai nhiều kỹ thuật phức tạp (xạ trị
proton, xạ trị điều trị bệnh động kinh, tắc mạch xạ
trị gan ) mang tính chất tự phát, thiếu vai trò kiểm
định độc lập (ngoại kiểm) của các cơ quan quản lý.
Nhiệm vụ cấp thiết đặt ra là cần tăng cường các quy
chuẩn kỹ thuật để bảo vệ cho người bệnh, là đối
tượng cuối cùng của chuỗi công việc bức xạ y tế.
Để quản lý tốt và nhanh nhất các quy trình kỹ thuật
xạ trị cần tiến hành song song 2 nhóm việc chính sau:
1) Phát triển các chương trình ngoại kiểm mà
trước hết là ngoại kiểm thử nghiệm theo các bước đã
được khuyến cáo của cơ quan năng lượng nguyên tử
quốc tế (IAEA) hoặc của một quốc gia nào đó phù
hợp (ví dụ, theo ARPANSA của Úc).
2) Tăng cường xây dựng các khung pháp lý
(QCVN) để quản lý về mặt kỹ thuật việc triển khai
các kỹ thuật xạ trị.
Cụ thể, cần lưu ý xem xét đưa vào một số quy
định mang tính bắt buộc như sau:
1) Để một kỹ thuật xạ trị trên một thiết bị cụ thể
được thực hiện trên người bệnh thì tối thiểu phải
đạt yêu cầu thử nghiệm trên phantom người thông
qua kiểm tra ‘End-to-End’. Đây là việc cần ưu tiên
thực hiện trước, không phụ thuộc loại trang thiết bị
và cấu hình máy móc của cơ sở điều trị. Nên ràng
buộc các cơ sở điều trị phải thông qua quá trình này
định kỳ hàng năm hoặc trước khi thực hiện một kỹ
thuật mới.
2) Xem xét bổ sung các vấn đề kiểm tra trước
điều trị một chương trình mô phỏng xạ trị (Plan QA)
như một điều kiện thực hiện kỹ thuật cao.
3) Các thiết bị chụp ảnh định vị (Cộng hưởng từ,
thiết bị chụp định vị bề mặt) và máy CT-simulator
cũng cần được xem xét, nghiên cứu để quản lý (như
khuyến cáo của Hiệp hội Y vật lý Mỹ AAPM).
4) Quản lý hồ sơ về liều bức xạ đối với bệnh
nhân theo ICRU một cách thống nhất, kể cả liều
chụp định vị.
5) Quản lý chặt chẽ hơn nữa việc cấp chứng chỉ
nhân viên bức xạ: Có chứng chỉ vận hành loại thiết
bị nào thì chỉ được vận hành loại thiết bị đó. Chứng
chỉ này phải được hãng cấp trực tiếp hoặc đào tạo lại
thông qua quy trình đào tạo liên tục có thẩm định,
phù hợp với yêu cầu của Cục Khoa học công nghệ
và Đào tạo K2ĐT (Bộ Y tế).
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 16 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những kỹ thuật hạt nhân mới trong y học và các vấn đề pháp quy đặt ra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020 115
Kỹ thuật
NHỮNG KỸ THUẬT HẠT NHÂN MỚI TRONG Y HỌC
VÀ CÁC VẤN ĐỀ PHÁP QUY ĐẶT RA
Đỗ Đức Chí1*
DOI: 10.38103/jcmhch.2020.66.16
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, nhiều kỹ thuật hạt nhân mới đã được áp dụng trong chẩn đoán và
điều trị làm thay đổi đáng kể chiến lược quản lý và điều trị bệnh nhân, đồng thời làm thay đổi cách
nhìn về vai trò của chuyên ngành xạ trị và y học hạt nhân. Ở nước ta đã và đang có nhiều cơ sở
sớm áp dụng các thành tựu về khoa học công nghệ này vào chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân
dân. Điều đó đặt ra những vấn đề mới trong công tác quản lý nhà nước nhằm phát huy hiệu quả
của trang bị kỹ thuật, giảm thiểu rủi ro phát sinh trong điều trị đối với người bệnh.
Từ khoá: Xạ trị, pháp quy.
ABSTRACT
ADVANCED AND EMERGING NUCLEAR TECHNOLOGIES IN MEDICAL
APPLICATIONS AND REGULATORY CHALLENGES
Do Duc Chi1*
In recent years, many advanced nuclear technologies has been clinically applied for diagnostics and
treatment, making significant changes in disease management and the public attitude about the role of
nuclear imaging and radiation therapy. In Vietnam, there have been a number of clinical facilities making
use of these achievements for heathcare. However, these complex applications require more reinforcement
on current regulations to ensure efficiency of medical equipment as well as minimize potential risk to patient.
Keywords: Radiation therapy, regulatory.
1 Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 - Ngày nhận bài (Received): 2/10/2020, Ngày phản biện (Revised): 5/11/2020;
- Ngày đăng bài (Accepted): 21/12/2020
- Người phản hồi (Corresponding author): Đỗ Đức Chí
- Email: chidd108@gmail.com; ĐT: 0983671400
I. NHỮNG KỸ THUẬT HẠT NHÂN MỚI
TRONG XẠ TRỊ
Trong khoảng 10 năm gần đây có một sự bùng
nổ các hình thức chẩn đoán và điều trị mới dựa trên
các thành tựu của công nghệ hạt nhân và gần như
ngay lập tức được ứng dụng ở các bệnh viện lớn
trong nước như Bệnh viện Trung ương quân đội
108, Bệnh viện K trung ương, Bệnh viện Ung bướu
thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh
viện đa khoa quốc tế VINMEC, Bệnh viện Bạch
Mai và thậm chí đã chuyển giao dần cho nhiều bệnh
viện tuyến tỉnh. Đây là một chủ trương đúng đắn
Bệnh viện Trung ương Huế
116 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020
Những kỹ thuật hạt nhân mới trong y học và các vấn đề pháp quy đặt ra
giúp cho bác sĩ và người bệnh có những lựa chọn tốt
nhất trong chẩn đoán và điều trị.
Các ứng dụng chẩn đoán không chỉ giới hạn đối
với bệnh lý ung thư mà còn mở rộng sang nhiều
bệnh lý khác như bệnh lý tim mạch (xạ hình kiểm
tra chức năng tưới máu cơ tim, xạ hình kiểm tra khả
năng sống còn của cơ tim), bệnh lý thận (xạ hình
kiểm tra chức năng thận), bệnh lý thần kinh (xạ hình
kiểm tra một số bệnh lý thuộc hệ thần kinh trung
ương, tìm ổ động kinh) Việc chẩn đoán cũng đã
định lượng hóa dần dựa trên chỉ số (như chỉ số SUV
- Standard Uptake Value chẳng hạn) thay vì chỉ quan
sát định tính trên hình ảnh. Tương tự, việc điều trị
bằng các loại bức xạ cũng đã có nhiều thay đổi và
không chỉ giới hạn đối với bệnh lý ung thư: điều trị
xóa các búi dị dạng thông động-tĩnh mạch não, điều
trị u dây thần kinh thính giác, điều trị đau dây thần
kinh tam thoa, điều trị bắc cầu cho ghép gan
Một số hướng nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật
hạt nhân trong xạ trị đang chuẩn bị triển khai trong
nước có thể kể đến là điều trị một số bệnh lý động
kinh, xạ trị toàn thân theo phác đồ điều kiện cho
ghép tế bào gốc tạo máu, xạ trị hướng đích... Trong
khuôn khổ hạn chế, bài viết này sẽ chỉ tập trung bàn
luận vào mảng điều trị ứng dụng các công nghệ bức
xạ tiên tiến đi cùng sự phát triển của các chuyên
ngành hẹp liên quan.
1.1. Sự phát triển của dược phóng xạ
1.1.1. Xạ trị chiếu trong chọn lọc (SIRT)
Phương pháp xạ trị chiếu trong chọn lọc phổ biến
là sử dụng các hạt vi cầu (microsphere) gắn đồng vị
Yttrium-90 bơm theo đường động mạch nuôi khối u
gan ác tính trong khi các tổ chức lành chủ yếu được
cung cấp máu qua tĩnh mạch cửa [1]. Y-90 là đồng
vị phóng xạ phát beta (-) với năng lượng 2.28MeV,
thời gian bán rã 64.1h và quãng chạy 2.5-11mm
đủ ngắn [H.1] có tác dụng tiêu diệt chọn lọc tế bào
ung thư trong khi cơ chế làm teo, xơ hóa mạch máu
nhỏ do bức xạ cũng được xem là một yếu tố kép
làm giảm nuôi dưỡng cho khối u. Do đó người ta
còn gọi phương pháp này là tắc mạch xạ trị (radio-
embolization).
Hình 1: sơ đồ phân rã của Y-90 về Zr-90 bền.
Có hai loại hạt vi cầu phóng xạ chính là hạt
nhựa (resin, đường kính 20-40µm) và hạt thủy
tinh (glass) trong đó hạt nhựa được ưa dùng hơn.
Các hạt beta phát ra tương tác với vật chất xung
quanh sẽ tạo ra bức xạ hãm, có thể ghi đo được
bằng thiết bị chụp ảnh SPECT. Có 4 bệnh viện lớn
đã áp dụng các phương pháp điều trị này là Bệnh
viện Trung ương quân đội 108, Bệnh viện Bạch
Mai, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện đa khoa quốc
tế VINMEC.
1.1.2. Xạ trị bắt neutron của hạt nhân Boron
(BNCT)
Đây là phương pháp tiêm hợp chất của B-10 vào
khối u, dùng phản ứng bắt neutron của hạt nhân B-10
tạo ra sản phẩm là hạt alpha (He-4) có hệ số truyền
năng lượng tuyến tính 150keVµm-1 và hạt nhân Li-7
có hệ số truyền năng lượng tuyến tính 175keVµm-1.
Những hạt này có quãng chạy trong nước hoặc mô
khoảng 4.5-10µm, do đó sẽ giải phóng hầu hết năng
lượng trong phạm vi một tế bào đơn lẻ. Về mặt lý
thuyết điều này sẽ giúp điều trị mang tính lọc lựa
cao, tiêu diệt tế bào u và tránh tuyệt đối ảnh hưởng
lên tế bào lành. Bản thân chùm neutron tới là chùm
neutron nhiệt có xác suất tương tác với các phần tử
vật chất của cơ thể rất thấp so với xác suất tương tác
với B-10 [H.2].
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020 117
Phương pháp này được Locher giới thiệu lần đầu
năm 1936 và được ứng dụng lâm sàng ở Mỹ năm
1951 nhưng không thành công do chưa phát triển
được dược chất chứa B-10 tập trung đặc hiệu ở tế
bào ung thư cũng như chưa tạo được nguồn neutron
nhiệt thương mại có thông lượng cao và ổn định
[2]. Các nghiên cứu tiếp theo hướng này được phát
triển mạnh ở Nhật Bản do Hatanaka khởi xướng
từ 1968 đến những năm 1980. Hiện nay, nguồn
neutron được lựa chọn là nguồn neutron cận nhiệt
(epithermal) tạo ra từ phản ứng hạt nhân trên các
máy gia tốc vòng. Hai loại dược chất chính chứa
B-10 được sử dụng trong các thử nghiệm lâm sàng
hiện nay là BSH và BPA tập trung khá đặc hiệu vào
các tế bào khối u trong thử nghiệm.
1.1.3. Liệu pháp miễn dịch phóng xạ (RIT)
Liệu pháp miễn dịch phóng xạ là một dạng
của xạ trị toàn thân hướng đích (targeted systemic
radiotherapy) sử dụng các kháng thể đơn dòng hoặc
các cấu trúc miễn dịch gắn với các nhân phóng xạ.
Các kháng thể gắn phóng xạ đã được nghiên cứu
đánh giá trong xạ trị các khối u đặc và ung thư gan
(Jurcic et al. 2016; Speer 2013). [3]thereby sparing
surrounding tissues, has been equated to surgery
with the advantages of reduced tissue trauma and
recovery time. FUS may also be used to induce
moderate temperature hyperthermia to enhance
effects of radiation, chemotherapy, and potentially
immunotherapy. The combination of magnetic
resonance guidance with FUS (MRgFUS
Hình 2: Minh họa hiệu ứng tương tác của neutron nhiệt lên các tế bào ung thư
Bảng 1: Các nhân phóng xạ sử dụng trong miễn dịch xạ trị bệnh bạch cầu cấp
Việc lựa chọn loại nhân phóng xạ phù hợp cho
RIT dựa trên khả năng sản xuất thương mại, chu
kỳ bán rã, năng lượng đâm xuyên, hiệu suất gắn
vào kháng thể. I-131 là nhân phóng xạ phát beta
và gamma. Việc phát gamma cho phép ghi hình và
đánh giá phân bố của chất phóng xạ trong cơ thể
trong khi việc phát beta tạo ra hiệu quả của liệu
pháp điều trị. Nhược điểm của việc dùng I-131 là:
việc phát gamma làm tăng chiếu xạ cho cơ quan
lành của bệnh nhân và tăng phơi nhiễm bức xạ đối
Bệnh viện Trung ương Huế
118 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020
Những kỹ thuật hạt nhân mới trong y học và các vấn đề pháp quy đặt ra
với nhân viên y tế, đồng thời I-131 còn có thể phân
ly khỏi kháng thể (hiệu ứng dehalogenation, đặc
biệt là khi kháng thể được đưa vào trong tế bào sau
khi gắn kháng nguyên) làm giảm tính hiệu quả của
phương pháp này.
Y-90 là nhân phóng xạ được sử dụng thường
xuyên hơn trong RIT và là nhân phát beta không
lẫn tạp. Quãng chạy của tia beta này khoảng 2.7mm
so với 0.8mm đối với I-131, có thể tiêu diệt tế bào
ung thư trong phạm vi lớn hơn. Để đánh giá phân
bố sinh học của Y-90 cần phải đưa vào cơ thể đồng
thời cùng loại kháng thể đơn dòng nhưng gắn In-
111 phát gamma, cho phép quan sát được phân bố
sinh học này bằng chụp xạ hình thông thường và
chụp SPECT.
1.2. Sự phát triển của các công cụ định vị dẫn
đường cho xạ trị ngoài
Trong xạ trị, việc định vị trực tiếp khối u để xạ trị
rất khó khăn, do đó người ta thường dùng phép định
vị tương đối theo mốc xương, đôi khi là theo mốc
xác định trên da bệnh nhân.
Trước kia khi không có hệ thống dẫn đường, việc
chiếu xạ ngoài hoàn toàn dựa vào các mốc đánh dấu
kẻ vẽ ở bề mặt da của bệnh nhân.
Ngày nay có nhiều hình thức định vị, dẫn đường
cho điều trị, dựa vào các mốc bên trong và ngoài cơ
thể bệnh nhân. Về cơ bản có thể sử dụng kết hợp
các hình thức dẫn đường, tận dụng ưu điểm của mỗi
loại thiết bị này, cho phép thực hiện định vị trước,
trong và sau khi phát tia, chuyển dần sang định vị
thời gian thực trong toàn bộ quá trình chiếu xạ (4D
imaging/monitoring).
Ngược lại, việc dự kiến áp dụng một quy trình
kỹ thuật định vị cụ thể cho quá trình chiếu xạ sẽ tác
động lên quá trình tính toán mô phỏng xạ trị, làm
giảm biên mở thêm ra cho thể tích điều trị (nhằm bù
trừ sai số định vị và thiết lập tư thế bệnh nhân), do
đó làm giảm thể tích lành bị chiếu xạ ngoài mong
muốn.
Xạ trị dưới dẫn đường bằng thiết bị chụp ảnh
tia X là loại hình dẫn đường phổ biến nhất và khá đa
dạng: chụp ảnh bằng nguồn phát kilovolt (kV) hoặc
megavolt (MV) dưới dạng chụp ảnh phẳng, ảnh cắt
lớp bằng chùm tia hình nón (CBCT: Cone Beam
Computed Tomography), ảnh 4D-CBCT hoặc sử
dụng chế độ rọi liên tục (fluoroscopy) [H.3].
Hình 3: các hệ thống định vị bằng tia X tích hợp với máy xạ trị Varian, BrainLab.
Ngoài ra với các khối u có hình dạng và vị trí
không cố định so với mốc xương hoặc bề mặt cơ
thể, người ta còn có thể đưa vào khối u hoặc xung
quanh khối u các hạt kim loại nhỏ để định vị trực
tiếp như với khối u gan, u tiền liệt tuyến. Các hạt
kim loại này dễ hiện hình trong các ảnh chụp tia X.
Xạ trị dưới dẫn đường bằng Cộng hưởng từ
(MRgRT: Magnetic Resonance-guided Radiation
Therapy) là loại hình được giới thiệu gần đây và
chưa có cơ sở xạ trị nào ở Việt Nam đầu tư được.
Các hệ thống máy xạ trị này có kết cấu đặc biệt
để không bị ảnh hưởng bởi từ trường mạnh của
hệ thống máy chụp cộng hưởng từ. Ngoài ra việc
chụp cộng hưởng từ chẩn đoán thông thường tốn
khá nhiều thời gian (khoảng 20 phút) và gây tiếng
ồn lớn do các hiệu ứng lực Lorentz cũng được khắc
phục trong các hệ thống cộng hưởng từ định vị này
[H.4].
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020 119
Hình 4: Các máy xạ trị dưới hướng dẫn của cộng hưởng từ
Xạ trị dưới hướng dẫn của định vị bề mặt
(SGRT: Surface Guided Radiation Therapy) là hình
thức xạ trị sử dụng các hệ thống nhận dạng bề mặt
và theo dõi thời gian thực sự thay đổi của bề mặt
dựa trên các ánh sáng hồng ngoại hoặc trong dải
ánh sáng nhìn thấy, có mặt trên thị trường từ khoảng
năm 2017 [H.5]. Hệ thống định vị bề mặt quang
học (OSMS: Optical Surface Monitoring System)
thường không được sử dụng riêng lẻ mà kết hợp với
các hệ thống định vị tia X để tăng thêm tính chính
xác. Ưu điểm nổi bật của hệ thống này là việc không
sử dụng tia X nên có thể theo dõi liên tục sự thay
đổi bề mặt cần quan sát trong suốt quá trình xạ trị
trên một diện rộng, đối với các khối u phần mềm (u
vú, sarcoma mô mềm), hoặc sử dụng để điều trị các
khối u di động theo nhịp thở (u gan, u phổi, u vú).
Ở nước ta đã có 5 bệnh viện trang bị hệ thống này.
giới thiệu trên thị trường.
Xạ trị dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc GPS
là các kiểu xạ trị định vị sử dụng thiết bị siêu âm
hoặc định vị GPS để xác định sự thay đổi tọa độ của
khối u hàng ngày, ngay trước khi điều trị.
1.3. Sự phát triển của các loại thuật toán và
công nghệ máy tính
Việc sử dụng các thuật toán chồng hình biến dạng
(deformable registration) [H.6] hoặc các thuật toán
sử dụng trí tuệ nhân tạo đã được ứng dụng nhiều
nhưng cần được kiểm chứng cẩn thận trước khi sử
dụng. Việc vẽ các thể tích điều trị và thiết lập các
trường chiếu, tính toán liều đã được nâng lên một
bước mới dựa vào dữ liệu lớn (big-data).
Hình 6: Chồng hình PET/CT với CT trên
phần mềm Velocity (Varian)
Sử dụng chồng hình biến dạng được tận dụng
triệt để trong Xạ trị thích ứng (Adaptive therapy)
cho phép các nhà lâm sàng điều chỉnh kế hoạch điều
trị theo sự thay đổi từng ngày trên người bệnh, trên
cơ sở chụp ảnh CT, MR hoặc PET.
Hình 5: Xạ trị dưới định vị bề mặt quang học.
Xạ trị dưới hướng dẫn chụp ảnh sinh học
(BgRT: Biology Guided Radiation Therapy) sử
dụng thêm ảnh chụp cắt lớp phát xạ positron (PET:
Positron Emission Tomography) để phân biệt thể
tích cần điều trị trong một khối bất thường (ví dụ
phân biệt thể tích u với đám xẹp phổi), giảm liều
cho cơ quan lành. Tính năng này sắp được Reflexion
Bệnh viện Trung ương Huế
120 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020
Những kỹ thuật hạt nhân mới trong y học và các vấn đề pháp quy đặt ra
1.4. Sự thay đổi của các thiết bị chuẩn trực
Hình 7: Các loại thiết bị chuẩn trực chùm photon: (Từ trái qua phải) bộ chuẩn trực đa lá dạng thông
thường, bộ chuẩn trực đa lá dạng nhị phân, bộ chuẩn trực hình trụ, bộ chuẩn trực dạng mũ bảo hiểm.
Các loại thiết bị chuẩn trực đã thay đổi nhiều,
không chỉ đơn giản với bộ ngàm tạo dạng trường
chiếu hình chữ nhật mà được sử dụng chủ yếu là bộ
chuẩn trực đa lá (MLC: Multileaf Collimator) với
các độ phân giải khác nhau (miniMLC, HD-MLC,
binary-MLC). Một số thiết bị xạ phẫu chuyên dụng
thì sử dụng bộ chuẩn trực hình trụ (cone), bộ chuẩn
trực dạng cửa trập (IRIS), hoặc bộ chuẩn trực dạng
mũ bảo hiểm (helmet) [H.7].
1.5. Sự thay đổi chiếu xạ tĩnh sang chiếu xạ động
Sự phát triển của các công cụ định vị và các công
nghệ tạm dừng phát tia (auto beam-hold) cũng cho
phép điều trị các mục tiêu tĩnh (xạ trị điều biến liều
tĩnh, xạ trị điều biến liều động, xạ trị phức hợp động
[H.8]) và các mục tiêu di động theo nhịp thở, dưới
hình thức xạ trị theo cửa sổ thở (gating) hoặc xạ trị
thời gian thực (realtime).
Hình 8: Điều biến liều tĩnh (a) và điều biến liều động (b) bằng bộ chuẩn trực đa lá.
1.6. Sự thay đổi trong ứng dụng loại chùm tia bức xạ
Các máy xạ trị truyền thống là máy xạ trị bằng nguồn Cobalt-60 nhưng ngày nay ít được sử dụng mà
thay thế vào đó là các máy xạ trị gia tốc tuyến tính. Từ những năm 1990 đến nay các loại máy gia tốc tuyến
tính cũng đã có nhiều cải tiến vượt bậc.
Máy xạ trị gia tốc tuyến tính dạng máy chụp cắt lớp CT là dạng máy có xu hướng được phát triển cũng
như đầu tư mạnh hiện nay do kết cấu đơn giản, phạm vi điều trị rộng [H.9].
Hình 9: Các máy gia tốc tuyến tính nhỏ được thiết kế quay quanh bệnh nhân.
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020 121
Máy xạ trị gia tốc dạng robotic là máy xạ trị sử dụng cánh tay robot công nghiệp có 6 khớp nối để di
chuyển máy gia tốc tuyến tính nhỏ gọn hoạt động ở dải tần X-band đến các vị trí cần thiết [H.10, trái].
Hình 10: Máy xạ trị CyberKnife S7 (Accuray) và máy xạ trị Zap-X.
Máy xạ trị dạng con quay hồi chuyển là dòng
máy mới được giới thiệu trên thị trường năm 2019
có thiết kế tự che chắn hoàn toàn nên không cần
boong-ke, chuyên dụng trong xạ phẫu não và khu
vực cột sống cổ. Dòng máy này sử dụng máy gia
tốc tuyến tính hoạt động ở dải tần S-band, được di
chuyển bằng hệ thống cơ cấu dạng con quay hồi
chuyển [H.10, phải].
1.7. Sự thay đổi trong áp dụng suất liều điều trị
Xạ trị suất liều cao: Trước kia, xạ trị suất liều
thấp dưới 1Gy/phút thường được sử dụng trong xạ
trị toàn thân bằng chùm photon trong khi xạ trị thông
thường có suất liều từ 1-6Gy/phút. Đối với các kỹ
thuật điều trị cần liều cao và không cần đến sự đồng
đều trong trường chiếu thì chùm tia không lọc phẳng
(FFF) sẽ làm giảm thời gian phát tia do tạo được suất
liều cao. Trong trường hợp này suất liều có thể đạt
14-24Gy/phút. Các máy gia tốc xạ trị ở một số trung
tâm lớn ở Việt Nam đã sử dụng các suất liều này
trong điều trị xạ phẫu, xạ trị lập thể ngoài sọ.
Xạ trị suất liều siêu cao (tối thiểu 50Gy/s) có
thể đạt được với hệ thống máy gia tốc công nghệ
mới, suất liều tối thiểu đạt được gấp 300 lần so với
suất liều cao nhất dùng trong lâm sàng hiện nay,
nhằm đạt được hiệu ứng sinh học khác hẳn các loại
hình xạ trị hiện tại (FLASH therapy). Hiện nay các
nghiên cứu này đang ở giai đoạn thử nghiệm tiền
lâm sàng đối với các chùm tia electron và proton.
Máy gia tốc proton bằng công nghệ laser là một xu
hướng mới đang được nghiên cứu, hứa hẹn cho ra
suất liều tối thiểu 1010Gy/phút [4][5].
1.8. Xạ trị bằng chùm tia siêu mảnh (MRT:
Microbeam Radiation Therapy) [6]
MRT là một kỹ thuật xạ trị dùng nhiều chùm
tia siêu mảnh [H.11] có liều lượng lớn nhưng ở
các vị trí giữa các chùm tia này có liều thấp hơn
rất nhiều. Độ rộng của các chùm tia siêu mảnh này
vào khoảng 25-75µm, khoảng cách giữa tâm các
chùm tia này khoảng 100-400µm. MRT đã được
quan tâm nghiên cứu lâm sàng trong vòng 5 thập
kỷ trước vì nó thể hiện đạt được sự bảo vệ mô lành
tốt hơn trong khi lại tiêu diệt được tế bào ung thư
tốt hơn so với xạ trị bằng các chùm tia rộng (Curtis,
1967; Slatkin 1992). Gần đây phương thức này
được quan tâm trở lại do đã đạt được các thành tựu
công nghệ chiếu xạ mới.
Hình 11: Kỹ thuật cross-firing MRT.
Bệnh viện Trung ương Huế
122 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020
Những kỹ thuật hạt nhân mới trong y học và các vấn đề pháp quy đặt ra
Slatkin (1992) cho rằng tỉ số về liều hấp thụ giữa
các vùng chiếu xạ (“peaks”) với các vùng liều thấp
xen kẽ ở giữa (“valleys”) [H.12] là một thành tố
quan trọng tạo nên hiệu quả điều trị của MRT. Tỉ số
này (PVDR: peak-to-valley dose ratio) càng cao thì
độc tính cho mô lành càng thấp.
II. CÁC THAY ĐỔI VỀ KỸ THUẬT LÂM SÀNG
Việc tổ hợp của các yếu tố kỹ thuật đã trình bày
ở phần 1 sẽ làm nên các kỹ thuật điều trị.
Kỹ thuật xạ trị truyền thống với tối đa 4 trường
chiếu vẫn là kỹ thuật được thực hiện chủ yếu nhưng
được tính toán trên các hệ thống máy tính và phần
mềm hiệu năng cao, tích hợp nhiều công cụ để đánh
giá chất lượng một kế hoạch điều trị cho bệnh nhân
trực quan (quan sát phân bố liều qua các đường
đồng liều (isodoseline), qua phổ màu (colourwash),
qua công cụ thống kê phân bố liều theo thể tích
(DVH-Dose Volume Histogram) Việc điều chỉnh
liều trên mỗi trường chiếu này được thực hiện bởi
các nêm (wedges) và hình dạng trường chiếu được
tạo bởi ngàm (jaws) và MLC.
Kỹ thuật xạ trị điều biến liều nhằm làm trường
chiếu không đồng nhất về thông lượng. Field-in-
Field là hình thức điều biến liều thô sơ nhất bằng bộ
chuẩn trực đa lá (MLC), gồm vài trường chiếu nhỏ
bên trong trường chiếu lớn theo thiết kế của kỹ thuật
xạ trị truyền thống.
Hình 12: Mô phỏng Monte Carlo phân bố liều
cách tâm của chùm tia X-ray siêu mảnh gồm
50 đỉnh, khoảng cách các đỉnh là 200µm với
bề rộng cả chùm tia là 25mm (Siegbahn et al.,
Med.Phys. 36, 1128-1137, 2009).
Hiện nay đã có nhiều thí nghiệm tiền lâm sàng
trên động vật đang được tiến hành theo hướng này.
Hình 13: Xạ trị điều biến liều thông thường, xạ trị điều biến liều quay và xạ phẫu.
Các kỹ thuật xạ trị lập thể (xạ phẫu, xạ trị lập
thể ngoài sọ) đòi hỏi độ chính xác cao, nhiều chùm
tia có trục chính không đồng phẳng nhằm (non-
coplanar, 4π) tạo ra độ giảm liều nhanh bên ngoài
thể tích điều trị [H.13]. Khi đó có thể dùng liều xạ
lớn, số phân liều rất ít hoặc chỉ đơn phân liều để
điều trị mà ít ảnh hưởng đến mô lành xung quanh.
Tại Việt Nam máy Gamma Knife đầu tiên có từ
2005, hiện tại đã có khoảng 8 máy Gamma Knife với
nhiều chủng loại khác nhau, 1 máy CyberKnife có
từ năm 2006. Hiện tại đang có 1 máy xạ trị Halcyon
dạng vòng đang lắp đặt ở một tỉnh phía Nam, có
nhiều máy thực hiện định vị bằng CBCT và định vị
bề mặt. Có 1 dự án lắp đặt máy xạ trị proton đang ở
giai đoạn chuẩn bị.
III. SỰ THAY ĐỔI TRONG CÔNG TÁC
QUẢN LÝ KỸ THUẬT
3.1. Có nhiều loại thiết bị kiểm tra và đảm
bảo chất lượng mới
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020 123
Ở nước ta, các cơ sở lâm sàng và cơ sở nghiên
cứu đã có các thiết bị đo chùm tia electron và photon
beam cơ bản. Tuy nhiên vẫn còn thiếu các thiết bị,
dụng cụ đo điểm đối với các trường chiếu nhỏ.
Thiết bị đo mảng dạng 2 chiều (2D) (H.14) lại
được đầu tư trang bị mạnh với hầu hết các cơ sở
có đầu tư trang thiết bị xạ trị. Hiện tại trong nước
đã có các thiết bị đo 2D với rất nhiều chủng loại
khác nhau nhưng chưa có dịch vụ chuẩn cho các
thiết bị này: Delta4 (ScandiDos), Dolphin (IBA),
Portal Dosimetry, MatriXX, MatriXX-FFF (IBA),
Mapcheck (PTW), ArcCheck 4D, SRS MapCheck
(Sun Nuclear). Ngoài ra cũng có cơ sở trang bị film
gafchromic thế hệ 3 để đo liều.
Hình 14: Các thiết bị đo bức xạ 2D+
Phantom hình người [H.15] là một trong những dụng cụ đo cần thiết để kiểm tra các kỹ thuật điều trị
mới trước khi thực hiện trên người, từ khâu chụp CT-mô phỏng đến việc tính toán mô phỏng, định vị trên
máy và chiếu tia. Tuy nhiên có rất ít cơ sở đầu tư và sử dụng.
Hình 15: Phantom mô phỏng đầu và ngực người bệnh.
3.2. Các chương trình ngoại kiểm
3.2.1 Chương trình ngoại kiểm từ xa của Cơ
quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA)
Từ 1994 đến 2017, IAEA đã tiến hành một loạt 4
dự án điều phối nghiên cứu (CRP: Co-ordinated Re-
search Projects) nhằm mở rộng khả năng ngoại kiểm
các cơ sở xạ trị và hỗ trợ phát triển các chuyên gia của
các quốc gia thành viên Mạng lưới ngoại kiểm đo liều
bức xạ (DAN: Dosimetry Audit Network), sử dụng
các hệ thống ngoại kiểm từ xa theo 9 bước như sau:
Bước 1: Ngoại kiểm từ xa đối với chùm tia
photon trong điều kiện tham chiếu theo TRS-398,
sử dụng TLD. Đây là bước đầu tiên và quan trọng
để có thể ngoại kiểm các bước tiếp theo;
Bước 2: Ngoại kiểm từ xa trong điều kiện phi
tham chiếu, trên trục chính chùm photon (2a), ngoại
kiểm trong điều kiện tham chiếu và phi tham chiếu,
trên trục chính chùm electron (2b), sử dụng TLD.
Bước 3: Ngoại kiểm từ xa chùm photon trong
điều kiện tham chiếu và phi tham chiếu nhưng ngoài
Bệnh viện Trung ương Huế
124 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020
Những kỹ thuật hạt nhân mới trong y học và các vấn đề pháp quy đặt ra
trục chính của chùm tia, sử dụng TLD.
Bước 4: Ngoại kiểm từ xa chùm photon được
chuẩn trực bằng bộ chuẩn trực đa lá MLC, bao gồm
việc tính toán của TPS, sử dụng TLD.
Bước 5: Ngoại kiểm từ xa chùm photon trong
môi trường không đồng nhất, kiểm tra việc tính toán
của TPS
Bước 6: Ngoại kiểm từ xa phân bố liều 2D của
các trường chiếu nhỏ, sử dụng radiochromic film
trong phantom rắn để kiểm tra việc tính toán của TPS
đối với các trường chiếu nhỏ đơn giản (các trường
chiếu nhỏ sau này sẽ dùng để tính toán cho IMRT).
Bước 7: Ngoại kiểm từ xa sự phụ thuộc của suất
liều của trường chiếu nhỏ tạo bởi MLC (step 7a) và
ngoại kiểm kiểm tra việc thực thi của MLC trong khi
thực hiện chiếu xạ bằng kỹ thuật IMRT (step 7b).
Bước 8: Ngoại kiểm từ xa phân bố liều tương đối
của đơn trường chiếu IMRT, sử dụng radiochromic
film để đo phân bố thông thượng, so sánh với phân
bố thông lượng tính toán trên TPS.
Bước 9: Ngoại kiểm từ xa tổng thể một quy trình
IMRT (End-to-End) bao gồm từ chụp ảnh (CT), lập
kế hoạch điều trị (tính toán mô phỏng). Công việc
này sử dụng một phantom người với khối u và các
tạng, kèm theo TLD và radiochromic film để đo
liều, so sánh với tính toán mô phỏng.
3.2.2. Chương trình ngoại kiểm End-to-End tại
chỗ của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế
(IAEA)
Từ năm 2009, IAEA hỗ trợ các chương trình
ngoại kiểm tổng thể ‘End-to-End’ cho kỹ thuật
3DCRT của các quốc gia thành viên thông qua việc
mang phantom người đến trực tiếp các cơ sở điều trị
để thực hiện chiếu xạ theo quy trình lâm sàng của
chính cơ sở đó. Việc đọc liều xạ trị sau đó sẽ được
một cơ quan khác đọc độc lập. Cả hai nội dung này
đều được hỗ trợ bởi các dự án hợp tác kỹ thuật
(IAEA TC).
Từ năm 2017, IAEA hỗ trợ chương trình tương
tự đối với kỹ thuật IMRT/VMAT, điển hình là với
ung thư đầu cổ.
3.2.3. Chương trình ngoại kiểm của Cơ quan
An toàn hạt nhân và bảo vệ phóng xạ Úc (AR-
PANSA)
Các chương trình ngoại kiểm đối với cơ sở lâm
sàng được phát triển tại Úc gồm 4 cấp độ sau:
Ngoại kiểm cấp Ia: Tiến hành ngoại kiểm máy xạ
trị trên các trang thiết bị của cơ sở
Ngoại kiểm cấp Ib: Sử dụng trang thiết bị của
ARPANSA để tiến hành ngoại kiểm máy xạ trị của
cơ sở.
Ngoại kiểm cấp II: Ngoại kiểm hệ thống lập kế
hoạch điều trị của cơ sở.
Ngoại kiểm cấp III: ngoại kiểm tổng thể của
toàn bộ quy trình thực hiện kỹ thuật trên phantom
người của cơ sở điều trị, bao gồm các kỹ thuật xạ
trị 3DCRT, IMRT/VMAT, SRS/SBRT. ARPANSA
đang phát triển chương trình ngoại kiểm cho các kỹ
thuật tương tự nhưng dùng chùm photon không lọc
phẳng (FFF).
3.2.4. Chương trình ngoại kiểm của Cục An
toàn bức xạ và hạt nhân (VARANS)
Sự phát triển ứng dụng công nghệ bức xạ y tế
ở nước ta những năm gần đây phát triển rất nhanh.
Các cơ quan quản lý nhà nước đã nhanh chóng
vào cuộc. Tuy nhiên, hiện tại trong lĩnh vực xạ trị
ngoài, ở nước ta chỉ có duy nhất một quy chuẩn kỹ
thuật cho máy gia tốc xạ trị loại thông dụng (QCVN
13:2017, ban hành kèm Thông tư số 15/2017/TT-
BKHCN), đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật tối thiểu
để có thể thực hiện kỹ thuật xạ trị 3DCRT. Các thiết
bị đa nguồn phát, thiết bị phát chùm tia suất liều
cao, thiết bị có kết cấu chuẩn trực đặc biệt, thiết
bị có hình dạng máy phi truyền thống đã trình
bày ở trên đang không thuộc phạm vi kiểm soát
của quy chuẩn kỹ thuật hiện hành ở nước ta. Việc
kiểm định các thiết bị X-quang (QCVN 11:2015/
BKHCN đối với thiết bị X-quang tổng hợp dùng
trong y tế); QCVN 12:2016/BKHCN đối với thiết
bị chụp cắt lớp vi tính dùng trong y tế); QCVN
15:2018/BKHCN đối với thiết bị X-quang di động
dùng trong y tế); QCVN 16:2018/BKHCN đối với
thiết bị tăng sáng truyền hình dùng trong y tế) hiện
tại cũng vẫn chưa đủ để thực hiện kiểm định các
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020 125
thiết bị X-quang định vị trong xạ trị bởi vì còn có
sự phối hợp tọa độ trong không gian 3 chiều giữa hệ
thống định vị và hệ thống máy xạ trị cũng như chất
lượng hình ảnh. Do đó các chương trình quản lý kỹ
thuật này vẫn cần được bổ sung, mở rộng.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Sự phát triển đa dạng của các công nghệ chiếu xạ
y tế đã và đang đặt ra thách thức rất lớn trong quản
lý nhà nước để đảm bảo việc khai thác sử dụng an
toàn hiệu quả tại các cơ sở y tế. Các cơ sở điều trị có
xu hướng triển khai nhiều kỹ thuật phức tạp (xạ trị
proton, xạ trị điều trị bệnh động kinh, tắc mạch xạ
trị gan) mang tính chất tự phát, thiếu vai trò kiểm
định độc lập (ngoại kiểm) của các cơ quan quản lý.
Nhiệm vụ cấp thiết đặt ra là cần tăng cường các quy
chuẩn kỹ thuật để bảo vệ cho người bệnh, là đối
tượng cuối cùng của chuỗi công việc bức xạ y tế.
Để quản lý tốt và nhanh nhất các quy trình kỹ thuật
xạ trị cần tiến hành song song 2 nhóm việc chính sau:
1) Phát triển các chương trình ngoại kiểm mà
trước hết là ngoại kiểm thử nghiệm theo các bước đã
được khuyến cáo của cơ quan năng lượng nguyên tử
quốc tế (IAEA) hoặc của một quốc gia nào đó phù
hợp (ví dụ, theo ARPANSA của Úc).
2) Tăng cường xây dựng các khung pháp lý
(QCVN) để quản lý về mặt kỹ thuật việc triển khai
các kỹ thuật xạ trị.
Cụ thể, cần lưu ý xem xét đưa vào một số quy
định mang tính bắt buộc như sau:
1) Để một kỹ thuật xạ trị trên một thiết bị cụ thể
được thực hiện trên người bệnh thì tối thiểu phải
đạt yêu cầu thử nghiệm trên phantom người thông
qua kiểm tra ‘End-to-End’. Đây là việc cần ưu tiên
thực hiện trước, không phụ thuộc loại trang thiết bị
và cấu hình máy móc của cơ sở điều trị. Nên ràng
buộc các cơ sở điều trị phải thông qua quá trình này
định kỳ hàng năm hoặc trước khi thực hiện một kỹ
thuật mới.
2) Xem xét bổ sung các vấn đề kiểm tra trước
điều trị một chương trình mô phỏng xạ trị (Plan QA)
như một điều kiện thực hiện kỹ thuật cao.
3) Các thiết bị chụp ảnh định vị (Cộng hưởng từ,
thiết bị chụp định vị bề mặt) và máy CT-simulator
cũng cần được xem xét, nghiên cứu để quản lý (như
khuyến cáo của Hiệp hội Y vật lý Mỹ AAPM).
4) Quản lý hồ sơ về liều bức xạ đối với bệnh
nhân theo ICRU một cách thống nhất, kể cả liều
chụp định vị.
5) Quản lý chặt chẽ hơn nữa việc cấp chứng chỉ
nhân viên bức xạ: Có chứng chỉ vận hành loại thiết
bị nào thì chỉ được vận hành loại thiết bị đó. Chứng
chỉ này phải được hãng cấp trực tiếp hoặc đào tạo lại
thông qua quy trình đào tạo liên tục có thẩm định,
phù hợp với yêu cầu của Cục Khoa học công nghệ
và Đào tạo K2ĐT (Bộ Y tế).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. M. T. M. Reinders et al., “Radioembolisation in
Europe: A Survey Amongst CIRSE Members,”
Cardiovasc. Intervent. Radiol., vol. 41, pp. 1–11,
2018, doi: 10.1007/s00270-018-1982-4.
2. W. A. G. Sauerwein, Neutron Capture Therapy:
Principles and Applications. Springer, 2012.
3. J. Y. C. Wong, Advances in Radiation Oncology, vol.
172. Springer International Publishing AG, 2017.
4. P. G. Maxim, S. G. Tantawi, and B. W. Loo,
“PHASER: A platform for clinical translation
of FLASH cancer radiotherapy,” Radiother.
Oncol., vol. 139, pp. 28–33, 2019, doi: 10.1016/j.
radonc.2019.05.005.
5. M. Durante, E. BräUer-Krisch, and M. Hill,
“Faster and safer? FLASH ultra-high dose rate
in radiotherapy,” Br. J. Radiol., vol. 91, pp. 6–9,
2018, doi: 10.1259/bjr.20170628.
6. A. A. B. Ruíz, Advanced and Emerging
Technologies in Radiation Oncology Physics,
vol. 3. Taylor & Francis group, LLC, 2018.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhung_ky_thuat_hat_nhan_moi_trong_y_hoc_va_cac_van_de_phap_q.pdf