Một là, xử lý nghiêm những trường hợp
không thực hiện đúng quy định của pháp luật về
điều kiện khu tái định cư và cần quy định cụ thể
về thời gian cấp GCNQSDĐ đối với suất TĐC
là đất ở. Mặc dù pháp luật đất đai hiện hành có
quy định về điều kiện khu tái định cư14 như: cơ sở
hạ tầng đồng bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn
xây dựng, phù hợp với điều kiện, phong tục, tập
quán của từng vùng, miền; việc thu hồi đất ở chỉ
được thực hiện sau khi hoàn thành xây dựng nhà
ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư. Tuy
nhiên, trên thực tế rất nhiều nơi chủ đầu tư chưa
hoàn thành cơ sở hạ tầng của khu tái định cư theo
quy định nhưng lại thu hồi đất ở của người dân,
thỏa thuận thuê nhà trọ cho người dân ở trong
thời gian chờ hoàn thành cơ sở hạ tầng của khu
TĐC. Mặc khác, pháp luật hiện hành chưa có
quy định thời gian cụ thể để cấp GCNQSDĐ tại
các khu TĐC cho người được bố trí TĐC. Bên
cạnh đó, các chủ đầu tư thường không muốn thực
hiện sớm thủ tục cấp GCNQSDĐ cho người
được bố trí TDC do họ sợ nếu có GCNQSDĐ thì
những suất TĐC này sẽ gây ảnh hưởng đến việc
bán, chuyển nhượng các sản phẩm thương mại
khác của chủ đầu tư. Chính vì những điều này,
nên việc cấp GCNQSDĐ cho người được bố trí
TĐC thường rất chậm (thường phải mất từ 3 - 5
năm, kể từ lúc được giao nền), có trường hợp gần
10 năm vẫn chưa được cấp GCNQSSĐ. Trong
khi đó, người dân lại có nhu cầu chuyển nhượng,
thế chấp, tặng cho, bảo lãnh. Do vậy, cần phải xử
lý nghiêm những trường hợp không thực hiện
đúng quy định của pháp luật về điều kiện khu tái
định cư và sớm ban hành quy định là trong một
khoảng thời gian cụ thể kể từ khi bàn giao suất
TĐC thì các cơ quan có thẩm quyền phải cấp
GCNQSDĐ cho người được bố trí TĐC.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 357 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những rủi ro khi nhận chuyển nhượng suất tái định cư là đất ở chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
47
NHỮNG RỦI RO KHI NHẬN CHUYỂN NHƯỢNG SUẤT TÁI ĐỊNH CƯ LÀ
ĐẤT Ở CHƯA CÓ GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Phan Trung Hiền1
Phạm Hồng Du2
Tóm tắt: Khi bị thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện theo quy định thì người có đất bị thu hồi sẽ được
bố trí tái định cư bằng nhà ở hoặc đất ở (suất tái định cư) nhằm mục đích giúp người có đất bị thu
hồi ổn định chỗ ở và cuộc sống. Tuy nhiên, trên thực tế thì phần lớn các suất tái định cư này lại được
giao dịch mua bán, chuyển nhượng rầm rộ trên thị trường. Do chưa được cấp giấy chứng nhận nên
các suất tái định cư này không thể tiến hành các thủ tục mua bán, chuyển nhượng theo quy định của
pháp luật được. Để tạo sự an tâm cho người mua, nhận chuyển chuyển nhượng suất tái định cư thì
các bên tìm cách “lách luật”. Giải pháp phổ biến nhất hiện nay được các bên lựa chọn là giao kết
bằng “hợp đồng ủy quyền” để mua bán, chuyển nhượng suất tái định cư. Dù được xem là “giải
pháp ưu việt” khi lựa chọn hình thức giao dịch qua ủy quyền, tuy nhiên, qua tìm hiểu, đối chiếu với
quy định của pháp luật hiện hành, thì hình thức giao dịch này này vẫn tồn tại rất nhiều rủi ro khó
lường cho cả hai bên, mà đặc biệt là bên mua, nhận chuyển nhượng suất tái định cư. Trong phạm
vi của bài viết này, nhóm tác giả đi sâu vào phân tích những rủi ro khi nhận chuyển nhượng suất tái
định cư là đất ở chưa có giấy chứng nhận và có đề xuất một số giải pháp để nhằm hạn chế rủi ro
khi tham gia giao dịch này.
Từ khóa: chuyển nhượng suất tái định cư, suất tái định cư, tái định cư.
Ngày nhận bài: 10/01/2018; Hoàn thành biên tập: 18/01/2018; Ngày duyệt đăng: 30/1/2018.
Abstract: When the land is recovered, if the conditions are met, the person whose land is
recovered will be arranged resettlement with a house or residential land (the reserve of resettlement)
for the purpose of helping people whose land is recovered to settle their life. However, in reality, most
of these resettlement reserves are traded, transferred in the market. Due to the lack of certificates,
these resettlement reserves can not carry out sale and transfer in accordance with the procedures of
law. In order to create peace of mind for buyers, assignee of resettlement reserves, the parties seek
to the way to break the law the most common solution now selected by the parties is to assign an
“authorization contract” to purchase, sale, transfer resettlement reserves. Although this have carried
out secretly, however, through understanding, in comparison with the current law, this form of trading
still exists many unpredictable risks for both sides, especially for the buyer, transfer resettlement
reserves. Within the scope of this article, the author would like to analysis the risks of receiving a
transfer of residential land without a certificate and propose a number of solutions to minimize the
risk when joining this transaction.
Keywords: Transfer resettlement reserves, resettlement reserves, resettlement.
Date of receipt: 10/01/2018; Date of revision:18/01/2018 ; Date of approval: 30/1/2018.
1 Phó giáo sư, Tiến sỹ, Phó Trưởng Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ
2 Luật sư, Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
48
1. Tái định cư và suất tái định cư là đất ở
Cho đến nay, pháp luật Việt Nam chưa có
quy định khái niệm “tái định cư” mặc dù cụm từ
này lần đầu tiên được quy định vào năm 19983
và được sử dụng rất nhiều trong Luật Đất đai
năm 2013 và Luật Xây dựng năm 2014 hiện
hành. Tuy nhiên, qua các quy định về tái định cư
(TĐC) có thể khái quát rằng: tái định cư là việc
bố trí chỗ ở mới hoặc trả chi phí để người có đất
bị thu hồi tìm một nơi ở mới trong trường hợp
người bị thu hồi đất không còn chỗ ở nào khác
trong phạm vi cấp xã nơi có đất bị thu hồi và
phải di chuyển chỗ ở 4. Tùy thuộc vào diện tích
đất bị thu hồi và khả năng chi trả của người được
TĐC, nếu người đủ điều kiện được bố trí TĐC
mà không nhận tiền để tự lo chỗ ở mới, sẽ được
ưu tiên bố trí TĐC tại chỗ bằng đất ở hoặc nhà ở
tại khu vực có đất bị thu hồi hoặc tại nơi có điều
kiện bố trí TĐC. Nguyên tắc bố trí TĐC là: phải
công khai hóa phương án TĐC; ưu tiên bố trí vị
trí thuận lợi cho người có đất thu hồi sớm bàn
giao mặt bằng, người có đất thu hồi là người có
công với cách mạng; phương án bố trí TĐC đã
được duyệt phải được công bố công khai tại trụ
sở Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã, địa điểm
sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất bị thu
hồi và tại nơi TĐC5. Để được nhận một suất TĐC
thì người có đất bị thu hồi phải nộp tiền sử dụng
đất, giá đất cụ thể tính tiền sử dụng đất tại nơi
TĐC do UBND cấp tỉnh quy định, trường hợp
người có đất thu hồi được bố trí TĐC mà tiền bồi
thường, hỗ trợ không đủ để mua một suất TĐC
tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ tiền đủ để mua
một suất TĐC tối thiểu6.
Để phù hợp với điều kiện, phong tục tập quán
của từng vùng, miền, phù hợp với các mức bồi
thường và khả năng chi trả của người được TĐC,
các suất TĐC được bố trí theo nhiều cấp nhà,
nhiều mức diện tích khác nhau nhưng diện tích
không thấp hơn suất TĐC tối thiểu bằng đất ở,
nhà ở do UBND cấp tỉnh quy định7. Đối với suất
TĐC bằng đất ở, do còn trong thời gian chờ để
được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), nên về
mặt pháp lý thì người có suất TĐC là đất ở
thường có thể có đầy đủ hoặc sẽ có một trong các
giấy tờ sau đây:
(i) Biên bản họp xét TĐC cho các hộ gia
đình, cá nhân có đất bị thu hồi. Biên bản này thể
hiện người có đất bị thu hồi được các cơ quan có
thẩm quyền xác định được bố trí một hoặc nhiều
suất TĐC bằng đất ở, có thể hiện rõ diện tích là
bao nhiêu, nhưng có thể chưa biết là được bố trí
tại khu TĐC tại chỗ hay ở khu TĐC nào khác,
cũng như chưa xác định được vị trí lô nền cụ thể
trong khu TĐC. Trường hợp này, nếu người có
suất TĐC là đất ở mà có nhu cầu chuyển nhượng
thì gọi là “chuyển nhượng suất tái định cư”:
(ii) Biên bản bốc thăm nền TĐC. Biên bản
này thể hiện người được bố trí TĐC được các cơ
quan có thẩm quyền xác định đã bốc thăm được
kết quả: Số lô nền, diện tích, trục đường, khu tái
định cư;
(iii) Biên bản bàn giao nền TĐC ngoài thực
địa. Biên bản này thể hiện việc người được bố trí
TĐC được các cơ quan có thẩm quyền đo đạc,
cắm mốc và bàn giao nền TĐC ngoài thực địa;
(iv) Quyết định về việc giao nền TĐC. Theo đó,
người được bố trí TĐC sẽ được cơ quan có thẩm
quyền ra Quyết định bằng văn bản giao nền tái định
cư với các nội dung như: Vị trí, diện tích của suất
tái định cư, số tiền sử dụng đất phải nộp, nghĩa vụ
nộp tiền sử dụng đất, nghĩa vụ nộp lệ phí trước bạ.
2. Quy định của pháp luật về chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và thực trạng
chuyển nhượng suất tái định cư là đất ở
2.1. Quy định của pháp luật về chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
3 Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 04 năm 1998 của Chính phủ về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu
hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia lợi ích công cộng hướng dẫn các quy định
của Luật Đất đai năm 1993.
4 TS. Phan Trung Hiền, Những điều cần biết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nxb Chính
trị quốc gia, năm 2014, tr.50.
5 Khoản 2 Điều 86 Luật Đất đai năm 2013.
6 Khoản 3, 4 Điều 85 Luật Đất đai năm 2013.
7 Khoản 3 Điều 26, 27 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
49
Theo quy định tại khoản 1 Điều 502 BLDS
năm 2015:“Hợp đồng về quyền sử dụng đất phải
được lập thành văn bản theo hình thức phù hợp
với quy định của Bộ luật này, pháp luật về đất đai
và quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Bên cạnh đó, theo quy định của Luật Đất đai
năm 2013 thì một trong những điều kiện để thực
hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
(CNQSDĐ) là người sử dụng đất phải có giấy
chứng nhận và hợp đồng CNQSDĐ phải được
công chứng, chứng thực, trừ trường hợp kinh
doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản 3
Điều 167 của Luật Đất đai năm 2013, cụ thể: Tại
điểm a khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013
quy định:“1. Người sử dụng đất được thực hiện
các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử
dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi
có các điều kiện sau đây: a) Có Giấy chứng
nhận, ”. Ngoài ra, tại điểm a khoản 3 Điều 167
Luật đất đai năm 2013 cũng quy định: “Hợp
đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp
vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng
hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất
động sản quy định tại điểm b khoản này”.
Như vậy, khi thực hiện việc CNQSDĐ thì
điều kiện tiên quyết là người CNQSDĐ phải có
giấy chứng nhận và các bên phải thực hiện thông
qua hợp đồng. Hợp đồng CNQSDĐ đất phải lập
thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo
quy định của luật.
2.2. Thực trạng chuyển nhượng suất tái
định cư là đất ở
TĐC là một chính sách của Nhà nước áp
dụng khi thu hồi đất nhằm đảm bảo cho người bị
thu hồi đất có điều kiện để tiếp tục duy trì, ổn
định cuộc sống. Tuy nhiên, trên thực tế có rất ít
trường hợp người được bố trí suất TĐC bằng đất
ở xây nhà ở để tiếp tục ổn định cuộc sống, phần
lớn những người này khi có được suất TĐC thì
họ lại chuyển nhượng cho người khác. Lý giải về
vấn đề này, theo nhóm tác giả có thể là do một
trong những nguyên nhân như sau: Họ không có
nhu cầu sử dụng do đã có chỗ ở khác, không hài
lòng với chất lượng của khu TĐC hoặc không
quen với việc định cư theo dạng phân lô nền liền
kề mà quen với tập quán sinh sống gần kề họ
hàng, láng giềng8.
Đối với người nhận chuyển nhượng suất tái
định cư (CNSTĐC) là đất ở thì mặc dù họ biết là
có rất nhiều rủi ro cho mình khi nhận CNSTĐC
là đất ở chưa có giấy chứng nhận, cũng như biết
chất lượng về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội
của các khu TĐC trước mắt là không được tốt.
Tuy nhiên, do các suất TĐC bằng đất ở này có
một số ưu điểm nổi trội như: đất ở nằm trong khu
quy hoạch đã ổn định, giá hợp lý, chuyển nhượng
lại có khả năng sinh lời cao mà không phải nộp
thuế, không bị ràng buộc phải xây dựng theo
đúng quy cách (về số tầng, khoảng lùi trước sau)
nên nhu cầu nhận CNSTĐC là rất lớn.
Có cầu, có cung, trong khi suất TĐC bằng đất
ở thì lại chưa được cấp GCNQSDĐ nên chưa đủ
điều kiện để thực hiện việc CNQSDĐ. Vậy làm
thế nào để các bên, mà đặt biệt là bên nhận
chuyển nhượng an tâm khi tham gia thực hiện
giao dịch này? Nhu cầu chuyển nhượng, nhận
chuyển nhượng là có thật nên đã thôi thúc các
bên tạo ra những giao dịch đường vòng, mà phổ
biến nhất hiện nay là các bên lập hợp đồng ủy
quyền (HĐUQ) để che giấu việc CNSTĐC là đất
ở. Theo đó, các bên sẽ thực hiện giao kết thông
qua hai hợp đồng gồm: hợp đồng CNQSDĐ và
HĐUQ. Hợp đồng CNQSDĐ cũng có các nội
dung đúng theo quy định pháp luật như: Tên, địa
chỉ của các bên; quyền, nghĩa vụ của các bên;
loại đất, hạng đất, diện tích, vị trí, số hiệu, ranh
giới và tình trạng đất; thời hạn sử dụng đất của
bên chuyển nhượng; thời hạn sử dụng đất còn lại
của bên nhận chuyển nhượng; giá chuyển
nhượng; phương thức, thời hạn thanh toán;
quyền của người thứ ba đối với đất chuyển
nhượng; các thông tin khác liên quan đến quyền
sử dụng đất; trách nhiệm của các bên khi vi phạm
hợp đồng và có đầy đủ chữ ký của các bên. Tuy
nhiên, hợp đồng này sẽ để trống các nội dung
như số thửa, tờ bản đồ, số giấy, số vào sổ, ngày
cấp, nơi cấp của giấy chứng nhận (do chưa có).
Hợp đồng này do chưa có giấy chứng nhận nên
8 Xem thêm “Ảnh hưởng của yếu tố tập quán truyền thống đến tâm lý người dân trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư” của TS. Phan Trung Hiền và CN. Nguyễn Văn Học, Tạp chí Nghề luật số 04 (46) năm 2013.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
50
không được công chứng, chứng thực theo quy
định của pháp luật9. Để “hợp pháp hóa” việc
chuyển nhượng này các bên lập song song với
hợp đồng CNQSDĐ một hợp đồng khác đó là
HĐUQ. Theo đó, bên CNSTĐC bằng đất ở sẽ là
bên ủy quyền, còn bên nhận chuyển nhượng sẽ là
bên nhận ủy quyền, bên chuyển nhượng sẽ ủy
quyền cho bên nhận chuyển nhượng được quyền
thay mặt, nhân danh bên chuyển nhượng quyết
định tất cả các vấn đề liên quan đến suất TĐC
như: từ việc bốc thăm, nhận nền ngoài thực địa,
nhận quyết định giao nền, nộp tiền sử dụng đất,
làm thủ tục để được cấp GCNQSDĐ, đến việc
được chiếm hữu, quản lý, sử dụng, định đoạt suất
TĐC, trong đó có việc được ủy quyền lại cho
người khác. Thời hạn ủy quyền thường rất dài,
thường là từ 15 đến 20 năm tùy thuộc vào tiến
độ hoàn thành của khu TĐC. Để bên nhận
chuyển nhượng yên tâm, HĐUQ này được công
chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật.
Sau khi các bên hoàn thành việc chuyển nhượng
này, bên nhận chuyển nhượng sẽ thanh toán cho
bên chuyển nhượng từ 90 – 95% hoặc 100% /giá
trị suất TĐC (tùy theo thỏa thuận) để nhận suất
tái định cư và toàn bộ các giấy tờ bản chính có
liên quan đến suất TĐC, số tiền còn lại (nếu có),
bên nhận chuyển nhượng sẽ thanh toán đủ cho
bên chuyển nhượng sau khi bên chuyển nhượng
được cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ và
hoàn tất việc công chứng, chứng thực hợp đồng
CNQSDĐ cho bên nhận chuyển nhượng theo
quy định của pháp luật.
Ngoài việc thực hiện giao kết như trên, thời
gian gần đây, để tạo sự an tâm cho người nhận
chuyển nhượng, một số Văn phòng Công chứng
(VPCC) đã hướng dẫn các bên ký thêm một hợp
đồng nữa gọi là “hợp đồng bảo lưu”. Theo đó,
VPCC sẽ thu ngay của người nhận quyển
nhượng số tiền từ 2.500.000 – 3.000.000
đồng/trường hợp (không có phiếu thu), VPCC sẽ
cho các bên ký khống trước vào hợp đồng
CNQSDĐ (nếu người nhận chuyển nhượng
nhằm mục đích để chuyển nhượng lại thì không
cần ký trước), hợp đồng này sẽ được VPCC lưu
giữ, đến khi Cơ quan có thẩm quyền cấp
GCNQSDĐ cho bên chuyển nhượng thì bên
nhận chuyển nhượng đem GCNQSDĐ đó đến
VPCC để làm thủ tục công chứng tiếp tục. Lúc
này VPCC sẽ lấy hợp đồng CNQSDĐ đã lưu giữ
trước đây ra điền các thông tin còn thiếu vào, đưa
Công chứng viên (CCV) sẽ ký công chứng và
phát hành một bản cho người nhận chuyển
nhượng để làm thủ tục chuyển nhượng sang tên
theo quy định của pháp luật.
Sau khi hoàn tất việc giao dịch nói trên, các
bên, mà đặc biệt là bên nhận chuyển nhượng đã
yên tâm rằng mình đã thực hiện thành công giao
dịch. Tuy nhiên, hình thức giao dịch này chứa
đựng những rủi ro từ khi thực hiện giao dịch cho
đến khi người nhận chuyển nhượng suất TĐC
nhận được suất TĐC đó.
3. Những rủi ro khi chuyển nhượng suất
tái định cư chưa có giấy chứng nhận
Dù rằng việc giao dịch đã hoàn tất, bên nhận
chuyển nhượng đã thanh toán tiền theo thỏa
thuận, nhận suất TĐC và toàn bộ các giấy tờ bản
chính có liên quan đến suất TĐC kèm hợp đồng
CNQSDĐ và HĐUQ, còn bên chuyển nhượng đã
nhận đủ tiền theo thỏa thuận. Tuy nhiên, đối
chiếu với các quy định của pháp luật hiện hành
và thực tiễn thì hình thức giao dịch này này vẫn
tồn tại rất nhiều rủi ro khó lường cho bên nhận
CNSTĐC, bởi những lẽ sau:
Thứ nhất, HĐUQ vô hiệu. Nếu vì lý do bất
kỳ nào đó, ví dụ: Bên chuyển nhượng đổi ý không
chuyển nhượng, giá bất động sản tang. Bất kể thời
gian nào kể từ ngày giao dịch được xác lập, bên
chuyển nhượng có thể yêu cầu Tòa án tuyên hợp
đồng ủy quyền là vô hiệu10 do hợp đồng này được
xác lập trên cơ sở nhằm che giấu giao dịch khác đó
là CNSTĐC là đất ở, đây mới là giao dịch thuộc
ý chí đích thực của các bên. Theo khoản 1 Điều
124 BLDS năm 2015 thì giao dịch dân sự vô hiệu
do giả tạo, cụ thể như sau: “Khi các bên xác lập
giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu
một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự
giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu
vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng
vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật
khác có liên quan”.
Về hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu:
Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu trước
9 Điểm a khoản 1 Điều 188, điểm a khoản 3 Điều 167 LĐĐ năm 2013.
10 Khoản 3 Điều 132 BLDS năm 2015.
Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
51
khi giao kết hợp đồng, hoàn trả cho nhau những
gì đã nhận, sau đó mới xét đến yếu tố lỗi để bồi
thường. Khoản 1,2 và 4 Điều 131 BLDS năm
2015 quy định: “1) Giao dịch dân sự vô hiệu
không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao
dịch được xác lập. 2) Khi giao dịch dân sự vô
hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường
hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị
giá thành tiền để hoàn trả4)Bên có lỗi gây thiệt
hại thì phải bồi thường”.
Như vậy, trong trường hợp này bên nhận
CNQSDĐ sẽ chỉ được nhận lại số tiền đã đưa cho
bên chuyển nhượng, không được tính lãi suất.
Trường hợp, bên chuyển nhượng không có thiện
chí trả lại hoặc đã chi xài hết tiền mà không còn
tài sản để thi hành bản án/quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền thì việc
nhận lại số tiền đã đưa là vô cùng khó khăn.
Thứ hai, HĐUQ có thể bị chấm dứt do bên
ủy quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng hoặc theo quy định của pháp luật.
HĐUQ có thể bị chấm dứt do bên ủy quyền
đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng. Bên
nhận chuyển nhượng luôn an tâm vì cho rằng bên
chuyển nhượng không thể đơn phương chấm dứt
hợp đồng ủy quyền được, muốn chấm dứt hợp
đồng phải có sự đồng ý của bên được ủy quyền
(bên nhận chuyển nhượng). Quan điểm này là
không có cơ sở bởi vì thông thường các HĐUQ
trong trường hợp này sẽ là hợp đồng không có
thù lao. Do là ủy quyền không có thù lao nên bên
ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng ủy quyền bất kỳ lúc nào miễn là báo trước
cho bên được ủy quyền một thời hạn hợp lý.
Khoản 2 Điều 569 BLDS năm 2015 quy định:
“Trường hợp ủy quyền không có thù lao, bên
được ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải
báo trước cho bên ủy quyền biết một thời gian
hợp lý; nếu ủy quyền có thù lao thì bên được ủy
quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện
hợp đồng bất cứ lúc nào và phải bồi thường thiệt
hại cho bên ủy quyền, nếu có”. Hiện tại, pháp
luật cũng chưa có hướng dẫn cụ thể “một thời
gian hợp lý” là bao lâu. Tuy nhiên, khi bên ủy
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng thì các
bên sẽ xảy ra tranh chấp. Các bên lại phải khởi
kiện ra Tòa án để yêu cầu phân xử và thực tiễn
xét xử nhiều vụ án đã bị Tòa án tuyên hợp đồng
ủy quyền vô hiệu do giả tạo như đã nêu.
HĐUQ có thể bị chấm dứt theo quy định của
pháp luật. HĐUQ rơi vào một trong các trường
hợp sau đây sẽ bị chấm dứt đương nhiên bất kể
các bên có thỏa thuận gì khác. Khoản 2 Điều 422
BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng chấm dứt
trong trường hợp sau đây: 1) Hợp đồng đã được
hoàn thành; 2) Theo thỏa thuận của các bên; 3)
Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao
kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải
do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện; 4) Hợp
đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực
hiện; 5)Hợp đồng không thể thực hiện được do
đối tượng của hợp đồng không còn; 6) Hợp đồng
chấm dứt theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật
dân sự năm 2015; 7) Trường hợp khác do luật quy
định”. Hậu quả pháp lý trong trường hợp này sẽ
là: (i) nếu HĐUQ chấm dứt do hết hạn hoặc do
bên nhận ủy quyền chết hoặc bị Toà án tuyên bố
mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết thì quyền
định đoạt suất TĐC sẽ thuộc về người ủy quyền;
(ii) còn trường hợp chấm dứt do người ủy quyền
chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân
sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích
hoặc là đã chết thì quyền định đoạt suất TĐC sẽ
thuộc về người được thừa kế của người ủy quyền,
người đại diện theo pháp luật của bên ủy quyền.
Thứ ba, “hợp đồng bảo lưu” vô hiệu. Cũng
giống như đối với trường hợp vô hiệu của
HĐUQ, nếu vì bất cứ lý do gì, bất kể thời gian
nào11 bên chuyển nhượng cũng có quyền yêu cầu
Tòa án tuyên bố “hợp đồng bảo lưu” – hợp đồng
CNQSDĐ có công chứng là vô hiệu12 do hợp
đồng này vi phạm điều cấm của pháp luật và việc
công chứng có vi phạm pháp luật. Điều 123
BLDS năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự
có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật,
trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Điều cấm của luật
là những quy định của luật không cho phép chủ
thể thực hiện những hành vi nhất định”.
11 Khoản 3 Điều 132 BLDS năm 2015.
12 Điều 52 Luật Công chứng năm 2014.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
52
Mặt khác, việc VPCC, CCV tư vấn, hướng
dẫn, giúp các bên ký “hợp đồng bảo lưu” để thu
tiền là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm và vi
phạm pháp luật. Theo điểm b, đ khoản 1 Điều 7
Luật Công chứng (LCC) năm 2014 quy định: “1.
Nghiêm cấm Công chứng viên, tổ chức hành nghề
công chứng thực hiện các hành vi sau đây: ... b)
Thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích
và nội dung của hợp đồng, giao dịch, nội dung
bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội;
xúi giục, tạo điều kiện cho người tham gia hợp
đồng, giao dịch thực hiện giao dịch giả tạo hoặc
hành vi gian dối khác đ) Nhận, đòi hỏi tiền hoặc
lợi ích khác từ người yêu cầu công chứng ngoài
phí công chứng, thù lao công chứng và chi phí
khác đã được xác định, thỏa thuận.”.
Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật thì
điều kiện để thực hiện việc CNQSDĐ thì người
sử dụng đất phải có giấy chứng nhận13 và bộ hồ
sơ nộp yêu cầu công chứng cũng phải có bản sao
GCNQSDĐ, theo điểm d khoản 1 Điều 40 LCC
năm 2014 quy định: “1. Hồ sơ yêu cầu công
chứng được lập thành một bộ, gồm các giấy tờ
sau đây:d) Bản sao giấy chứng nhận quyền sở
hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay
thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà
pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu,
quyền sử dụng trong trường hợp hợp đồng, giao
dịch liên quan đến tài sản đó”.
Về hậu quả pháp lý trong trường hợp “hợp
đồng bảo lưu” là vô hiệu do vi phạm điều cấm
của pháp luật thì cũng sẽ được giải quyết như hậu
quả pháp lý trong trường hợp HĐUQ vô hiệu do
giả tạo.
Khi tham gia giao kết “Hợp đồng bảo lưu”
thì ngoài rủi ro nêu trên, bên nhận chuyển
nhượng còn phải đối mặt với vô số những rủi ro
khác, như trong các trường hợp sau: (i) Công
chứng viên thực hiện “hợp đồng bảo lưu” đã nghỉ
việc hoặc bị tạm đình chỉ hành nghề công chứng,
bị miễn nhiệm Công chứng viên hoặc chết; (ii)
VPCC thực hiện “hợp đồng bảo lưu” hợp nhất,
sáp nhập, chuyển, chấm dứt hoạt động với
VPCC; (iii) VPCC, Công chứng viên gây khó
khăn hoặc bắt tay với bên chuyển nhượng để “đề
nghị” thêm chi phí.
Thứ tư, bên nhận chuyển nhượng sẽ gặp
khó khăn trong việc làm thủ tục cấp
GCNQSDĐ. Do pháp luật không thừa nhận việc
CNQSDĐ khi chưa có giấy chứng nhận, nên khi
cấp GCNQSDĐ của suất TĐC là đất ở thì cơ
quan có thẩm quyền chỉ cấp GCNQSDĐ cho
người được bố trí TĐC (chủ gốc). Trong khi đó,
suất TĐC thường không phải chỉ chuyển
nhượng cho một người mà là đã chuyển nhượng
qua rất nhiều người trung gian, mà những người
này có thể là không quen biết nhau. Do đó, rủi
ro rất lớn cho người nhận chuyển nhượng cuối
cùng là khi có GCNQSDĐ thì không thể tìm ra
được người chủ gốc để làm thủ tục chuyển
nhượng sang tên theo quy định pháp luật. Còn
trường hợp nếu có tìm được người chủ gốc thì
thông thường sẽ bị người chủ gốc gây khó khăn
nhằm “đề nghị” thêm chi phí mới chịu ký hợp
đồng CNQSDĐ công chứng, chứng thực theo
quy định của pháp luật.
Thứ năm, khó chuyển nhượng lại cho người
khác. Khi nhận CNSTĐC là đất ở, nếu không
còn nhu cầu sử dụng hoặc bị kẹt tiền, muốn
chuyển nhượng lại suất TĐC này, thì sẽ rất khó
để chuyển nhượng lại cho người khác do về mặt
pháp lý không rõ ràng, người nhận chuyển
nhượng sau có thể hiểu rõ bản chất và ngại nhiều
hệ lụy của việc giao dịch chuyển nhượng thông
qua HĐUQ.
Thứ sáu, ngoài những rủi ro như phân tích
trên, người nhận chuyển nhượng suất TĐC là đất
ở còn gặp phải những rủi ro khác như: Bên
chuyển nhượng cố tình lừa đảo chiếm nhằm
chiếm đoạt tài sản hoặc cùng một lúc ủy quyền
cho nhiều người.
Tóm lại, khi tham gia giao dịch CNSTĐC
bằng các hình thức nêu trên, bên nhận chuyển
nhượng sẽ đối mặt với rất nhiều rủi ro, các hình
thức giao dịch này vẫn không thể thay thế được
cho việc thực hiện giao dịch hợp đồng CNQSDĐ
tuân theo quy định pháp luật được.
5. Đề xuất một số giải pháp
Việc nhận CNSTĐC là đất ở khi chưa được
cấp GCNQSDĐ sẽ gặp rất nhiều rủi ro, bất lợi
cho người nhận chuyển nhượng, nhưng do suất
TĐC có một số ưu điểm như đã phân tích ở trên
13 Điểm a khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013.
Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
53
nên nhu cầu nhận chuyển nhượng là rất lớn. Do
vậy, chúng tôi đề xuất một số giải pháp để hạn
chế rủi ro cho người nhận chuyển nhượng suất
TĐC là đất ở như sau:
Một là, xử lý nghiêm những trường hợp
không thực hiện đúng quy định của pháp luật về
điều kiện khu tái định cư và cần quy định cụ thể
về thời gian cấp GCNQSDĐ đối với suất TĐC
là đất ở. Mặc dù pháp luật đất đai hiện hành có
quy định về điều kiện khu tái định cư14 như: cơ sở
hạ tầng đồng bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn
xây dựng, phù hợp với điều kiện, phong tục, tập
quán của từng vùng, miền; việc thu hồi đất ở chỉ
được thực hiện sau khi hoàn thành xây dựng nhà
ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư. Tuy
nhiên, trên thực tế rất nhiều nơi chủ đầu tư chưa
hoàn thành cơ sở hạ tầng của khu tái định cư theo
quy định nhưng lại thu hồi đất ở của người dân,
thỏa thuận thuê nhà trọ cho người dân ở trong
thời gian chờ hoàn thành cơ sở hạ tầng của khu
TĐC. Mặc khác, pháp luật hiện hành chưa có
quy định thời gian cụ thể để cấp GCNQSDĐ tại
các khu TĐC cho người được bố trí TĐC. Bên
cạnh đó, các chủ đầu tư thường không muốn thực
hiện sớm thủ tục cấp GCNQSDĐ cho người
được bố trí TDC do họ sợ nếu có GCNQSDĐ thì
những suất TĐC này sẽ gây ảnh hưởng đến việc
bán, chuyển nhượng các sản phẩm thương mại
khác của chủ đầu tư. Chính vì những điều này,
nên việc cấp GCNQSDĐ cho người được bố trí
TĐC thường rất chậm (thường phải mất từ 3 - 5
năm, kể từ lúc được giao nền), có trường hợp gần
10 năm vẫn chưa được cấp GCNQSSĐ. Trong
khi đó, người dân lại có nhu cầu chuyển nhượng,
thế chấp, tặng cho, bảo lãnh. Do vậy, cần phải xử
lý nghiêm những trường hợp không thực hiện
đúng quy định của pháp luật về điều kiện khu tái
định cư và sớm ban hành quy định là trong một
khoảng thời gian cụ thể kể từ khi bàn giao suất
TĐC thì các cơ quan có thẩm quyền phải cấp
GCNQSDĐ cho người được bố trí TĐC.
Hai là, xem xét nên cho phép chuyển nhượng
suất TĐC là đất ở khi đã bốc thăm nền tái định cư
vì nói cho cùng đây cũng là quyền tài sản. Điều
115 BLDS năm 2015 quy định:“Quyền tài sản
là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền
tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.
Hơn nữa, suất TĐC là đất ở sau khi bốc thăm thì
đã được các cơ quan có thẩm quyền xác định
bằng văn bản về khu TĐC, vị trí lô nền, mã nền,
diện tích và trục đường của lô nền cho người
được bố trí TĐC. Người được bố trí TĐC chỉ còn
chờ các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các thủ
tục tiếp theo để cấp GCNQSDĐ. Việc giao dịch
CNSTĐC thực chất là việc chuyển giao quyền
và nghĩa vụ của người được TĐC sang cho người
nhận chuyển nhượng, đây là giao dịch dân sự,
pháp luật không cấm. Hơn nữa, cho phép
CNSTĐC chính thức mới hạn chế được những
giao dịch “ngầm”, “lách luật”, giúp bảo vệ được
quyền lợi và an toàn pháp lý cho người được bố
trí TĐC lẫn người nhận CNSTĐC, bên cạnh đó
cũng giúp Nhà nước không bị thất thoát tiền thuế
thu nhập cá nhân từ việc CNQSDĐ./.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật dân sự năm 2015;
2. Luật Đất đai năm 1993 (được sửa đổi, bổ
sung năm 1998, 2001);
3. Luật Đất đai năm 2003 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2009, 2010);
4. Luật Đất đai năm 2013;
5. Luật Công chứng năm 2014;
6. Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng
04 năm 1998 của Chính phủ về việc đền bù thiệt
hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng;
7. Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
của Chính phủ Quy định về Bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
8. Châu Anh, Nhà tái định cư giá “hời”:
Khách “cầm dao đằng lưỡi”, Báo VTC New
ngày 06/11/2014 tại
c u - g i a - h o i - k h a c h - c a m - d a o - d a n g -
luoi.1.514445.htm truy cập ngày 21/05/2015.
9. Hoàng Quốc Hùng, Ba vấn đề cần cảnh báo
trong việc công chứng hợp đồng ủy quyền, Bộ Tư
pháp ngày 18/04/2015 tại
dannv/Lists/TaiLieuNghiepVu/View_Detail.aspx?
ItemId=397 truy cập ngày 20/05/2015
14 Khoản 2, 3 Điều 85 Luật đất đai năm 2013; Điều 26 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ
quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_rui_ro_khi_nhan_chuyen_nhuong_suat_tai_dinh_cu_la_dat.pdf