Ba là, đối với nguồn vốn UNDP, thì do đặc thù
của viện trợ UNDP là cung cấp viện trợ không
hoàn lợi. Đây là ưu đãi đặc biệt của UNDP dành
cho bên tiếp nhận, tránh nguy cơ thành con nợ
khi tiếp nhận. Tuy nhiên, viện trợ cho không này
không nhiều như nguồn vốn vay ưu đãi của WB,
ADB nhưng Việt Nam cũng không nên bỏ phí và
cần tận dụng thu hút và sử dụng hiệu quả khi Việt
Nam sắp tốt nghiệp ODA dành cho nhóm nước
nghèo, có thu nhập thuộc diện viện trợ của UNDP.
- Bốn là, để tận dụng và khai thác hiệu quả nguồn
vốn ODA và vốn vay ưu đãi như kể trên, Việt Nam
cần xây dựng chiến lược sử dụng ODA bám sát
với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quốc gia
trung hạn và dài hạn. Mục tiêu nào cần vốn của
IDA hay UNDP hay ADF của ADB; còn mục tiêu
nào có thể thu hồi vốn thì chuyển sang dùng ODA
của IBRD, vốn OCR của ADB Ngoài ra, cần
tăng cường vốn đối ứng cho các dự án, chương
trình thuộc lĩnh vực ưu tiên nhằm giải ngân nhanh,
tránh chậm tiến độ dự án, chương trình này, nhất
là quy định mức giải ngân nhanh mà Quốc hội
kiểm soát. Do vậy, sửa đổi quy định, chính sách
sao cho phù hợp là cần thiết. Cuối cùng là đào
tạo đội ngũ nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đặt
ra trong bối cảnh mới nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả xây dựng kế hoạch, thủ tục thực hiện tiếp
nhận nguồn vốn ODA trong thời gian ngắn nhất
theo yêu cầu của bên viện trợ.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 298 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những thay đổi trong chính sách ODA của một số tổ chức quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
68
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017
NHỮNG THAY ĐỔI TRONG CHÍNH SÁCH ODA CỦA MỘT SỐ
TỔ CHỨC QUỐC TẾ VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
A CHANGE IN ODA POLICIES OF SOME INTERNATIONAL
ORGANIZATIONS AND POLICY
RECOMMENDATIONS FOR VIETNAM
Nguyễn Hữu Dũng1, Nguyễn Bá Toản1, Phạm Thị Hồng Hoa2
Email: huudungkh@gmail.com
1Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh
2Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 15/9/2017
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 11/12/2017
Ngày chấp nhận đăng: 28/12/2017
Tóm tắt
ODA ra đời nhằm cung cấp nguồn vốn cho bên tiếp nhận, đặc biệt các nước đang phát triển để tái thiết,
xây dựng và phát triển đất nước. Do vậy, bài viết này đánh giá những thành công và hạn chế của Việt
Nam trong việc thu hút và sử dụng ODA giai đoạn 2006-2015. Cùng với đó là đề cập những thay đổi
về chính sách cung cấp ODA của Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP); trên cơ sở đó đưa ra hàm ý chính sách cho Việt Nam.
Từ khóa: ODA; chính sách ODA; ADB; UNDP; WB.
Abstract
ODA was born to provide funding for the recipient countries, especially for developing countries for
their reconstruction and development. Therefore, this article presents achievements, and limitations in
attracting and utilizing ODA of Vietnam in the period 2006-2015. Toghether with this, the paper deals
with changes in the ODA policy of the World Bank (WB), the Asian Development Bank (ADB) and the
United Nations Development Program (UNDP); thereby proposing policy recommendations for Vietnam
the coming time.
Keywords: ODA; ODA policies; ADB; UNDP; WB.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiền thân của ODA ngày nay là khoản viện trợ
trong Kế hoạch Marshall năm 1947. Khoản viện
trợ này đã giúp các nước Tây Âu không chỉ phục
hồi kinh tế mạnh mẽ mà còn chuyển từ nước
nhận viện trợ thành một nước đi viện trợ cho thế
giới. Sau này có Nhật Bản và Hàn Quốc cũng là
những nước thành công trong việc thu hút và sử
dụng ODA. Đến nay, ODA trở thành nguồn vốn
bên ngoài quan trọng đối với các nước đang phát
triển, trong đó Việt Nam đạt được những thành
tựu kinh tế - xã hội là một phần có sự đóng góp lớn
từ ODA. Từ năm 1993 đến 2015, các nhà tài trợ
quốc tế đã ký kết cho Việt Nam 74.368 triệu USD
và giải ngân được 52.689 triệu USD [1], trong đó
WB và ADB luôn là những nhà tài trợ lớn nhất và
sát cánh cùng Việt Nam. Do vậy, việc nghiên cứu
điều kiện và chính sách ODA của các nhà tài trợ
nhằm tăng cường khai thác tối đa tiềm năng của
họ phục vụ phát triển đất nước là cần thiết.
2. THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA
CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2015
2.1. Tình hình cam kết
Hiện nay, ở Việt Nam có 51 nhà tài trợ song
phương và đa phương, trong đó 28 nhà tài trợ
song phương và 23 nhà tài trợ đa phương có
các chương trình ODA thường xuyên. Giai đoạn
2006-2015 được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn
2006-2010 và giai đoạn 2011-2015, trong đó giai
đoạn 2006-2010 tổng vốn ODA cam kết của các
nhà tài trợ thông qua 05 Hội nghị CG đạt trên
31.756,25 triệu USD, cao hơn 15% so với chỉ tiêu
đề ra trong Đề án ODA 2006-2010 (bảng 2). Sang
giai đoạn 2011-2015, do Việt Nam có sự chuyển
đổi từ một nước có thu nhập thấp sang nước có
thu nhập trung bình thấp nên công tác vận động
ODA có sự chuyển đổi từ Hội nghị CG sang Diễn
đàn VDPF (từ năm 2013-2015) rồi VDPF thành
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017 69
VDF (năm 2016). Việc đổi tên này thể hiện một
bước ngoặt mới đối với vị thế của Việt Nam trong
hành trình từ Hội nghị CG tới Diễn đàn VDPF và
giờ đây là VDF. Ban đầu là nước nhận tài trợ, tổ
chức các Hội nghị CG để kêu gọi vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA), tiến tới là các đối tác phát
triển - đồng tổ chức diễn đàn đối thoại chính
sách cấp cao để chia sẻ kinh nghiệm và khuyến
nghị chính sách phát triển, và hiện tại, Chính phủ
Việt Nam sẽ đóng vai trò “chủ nhà”, mời các đối
tác phát triển tới để tham vấn chính sách. Điều
này dẫn đến ODA cam kết giai đoạn này chỉ đạt
13.872,77 triệu USD.
Cả giai đoạn 2006-2015, tổng vốn ODA cam
kết của các nhà tài trợ dành cho Việt Nam đạt
45.629,02 triệu USD. Nhìn chung vốn ODA cam
kết luôn trong xu hướng tăng. Nếu như năm 2005,
các nhà tài trợ cam kết 3,7 tỷ USD thì năm 2006
đã tăng lên hơn 4,4 tỷ USD; năm 2007 hơn 5,426
tỷ USD. Đặc biệt, năm 2009 các nhà tài trợ cam
kết ODA đạt mức cao kỷ lục với trên 8 tỷ USD,
tăng 3 tỷ USD so với năm 2008. Từ năm 2010-
2012 tuy có giảm so với năm 2009 nhưng vẫn
cao hơn so với cam kết ODA giai đoạn 2006-2008
[2, 3, 4] (bảng 1).
2.3. Tình hình ký kết
ODA ký kết giai đoạn 2006-2010 đạt 20.641,39
triệu USD, cao hơn 12,7% so với chỉ tiêu đề ra
trong Đề án ODA 2006-2010. Còn giai đoạn
2011-2015, tổng vốn ODA ký kết đạt 24.218,13
triệu USD. Tổng ODA của cả giai đoạn 2006-2015
đạt 44.859,52 triệu USD. Cơ cấu vốn theo nhà tài
trợ thì Nhật Bản, WB và ADB vẫn là những nhà
tài trợ lớn nhất cho Việt Nam. Riêng giai đoạn
2011-2015, ODA ký kết của Nhật Bản đạt trên
10.000 triệu USD, của WB hơn 8.000 triệu USD
và của ADB gần 6.000 triệu USD (bảng 2).
2.2. Tình hình giải ngân
Bảng 1. Cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 2006-2015
Đơn vị tính: triệu USD
Năm Cam kết Ký kết Giải ngân
Tỷ lệ giải ngân
so với ký kết
2006 4.445,60 2.945,69 1.785 60,60
2007 5.426,60 3.911,73 2.176 55,63
2008 5.914,67 4.359,55 2.253 51,68
2009 8.063,87 6.217,04 4.105 66,03
2010 7.905,51 3.207,38 3.541 110,40
2011 7.386,77 6.814,46 3.650 53,56
2012 6.486,00 5.869,36 4.183 71,27
20131 - 6.601,00 5.137 77,82
2014 - 4.379,00 5.655 129,14
2015 - 3.500,00 5.000 142,86
Tổng 45.629,02 44.859,52 37.485 83,56
Nguồn: [2,4]
Tổng vốn ODA giải ngân giai đoạn 2006-2015
đạt 37.485 triệu USD, đạt hơn 84% so với ký
kết (44.859,52 triệu USD), trong đó giai đoạn
2010-2015 mức giải ngân đạt 97,55%, ứng
với 23.625/24.218,13 triệu USD, cao hơn
giai đoạn 2006-2010 chỉ đạt 67,15%, ứng với
13.860/20.641,39 triệu USD. Có được kết quả này
là do giải ngân của các nhà tài trợ quy mô vốn lớn
(WB, Nhật Bản) đã có những cải thiện đáng kể. Tỷ
lệ giải ngân của Nhật Bản tại Việt Nam năm 2011
đứng thứ hai và năm 2012 đứng thứ nhất trong
số các nước nhận ODA của Nhật Bản, tỷ lệ giải
ngân của WB tại Việt Nam tăng từ 13% năm 2011
lên 19% năm 2012 (bảng 1).
2.4. Tình hình sử dụng
Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng
phát triển theo ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ
đề ra trong các chiến lược, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra
định hướng chiến lược, chính sách ưu tiên sử
dụng vốn ODA cho từng thời kỳ. Các lĩnh vực
ưu tiên sử dụng vốn ODA thời kỳ 2006-2010 và
2011-2015 của Chính phủ bao gồm:
70
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm
nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản kết
hợp xóa đói, giảm nghèo).
- Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục
và đào tạo, dân số và phát triển và một số lĩnh
vực khác).
- Bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên
thiên nhiên.
- Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn
nhân lực, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng
lực nghiên cứu và triển khai.
Cơ cấu vốn ODA theo các điều ước quốc tế về
ODA ký kết trong thời gian qua phù hợp với những
định hướng ưu tiên sử dụng vốn ODA nêu trên.
Bảng 2 cho thấy những lĩnh vực như năng lượng
và công nghiệp, phát triển giao thông, thông tin
liên lạc và cấp thoát nước đô thị đạt mức cao hơn
về giá trị tương đối và đạt xấp xỉ về giá trị tuyệt
đối so với chỉ tiêu dự kiến nêu trong Đề án ODA
2006-2010. Riêng các lĩnh vực nông nghiệp và
phát triển nông thôn, y tế, giáo dục, đạt thấp
hơn dự kiến 3 ÷ 5%.
Bảng 2. Cơ cấu ODA ký kết theo ngành và lĩnh vực thời kỳ 2006 - 2010
Ngành, lĩnh vực
ODA ký kết 2006 - 2010
theo Đề án
ODA ký kết
2006 - 2010
Cơ cấu
ODA (%)
Tổng ODA
(tỷ USD)
Cơ cấu
ODA (%)
Tổng ODA
(tỷ USD)
1. Nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp và
thủy sản kết hợp phát triển nông nghiệp
và nông thôn, xóa đói, giảm nghèo
21 4,27 - 4,98 16,21 3,34
2. Năng lượng và công nghiệp 15 3,05 - 3,56 18,97 3,91
3. Giao thông, bưu chính viễn thông, cấp,
thoát nước và đô thị 33 6,72 - 7,84 36,78 7,58
4. Y tế, giáo dục và đào tạo, môi trường,
khoa học công nghệ và các ngành khác
(bao gồm xây dựng thể chế, tăng cường
năng lực)
31 6,31 - 7,37 28,04 5,78
Tổng 100 20,35 - 23,75 100 20,61
Bảng 3. ODA ký kết theo ngành và lĩnh vực thời kỳ 2011-2015
Đơn vị tính: triệu USD
Ngành, lĩnh vực
Tổng ODA
và vốn vay
ưu đãi
Tỷ trọng
(%)
Trong đó
Vốn vay ODA
và vay
ưu đãi
Viện trợ
1. Giao thông vận tải 9.913,73 35,68 9.565,94 347,79
2. Môi trường (cấp, thoát nước, đối
phó với biến đổi khí hậu,...) và phát
triển đô thị
5.181,26 18,65 5.048,76 132,51
3. Năng lượng và công nghiệp 4.762,50 17,14 4.730,15 32,34
4. Nông nghiệp và phát triển nông
thôn - xóa đói giảm nghèo 2.632,23 9,47 2.514,79 117,44
5. Y tế - xã hội 1.292,30 4,65 1.073,12 219,18
6. Giáo dục và đào tạo 930,13 3,35 767,85 162,28
7. Ngành khác (khoa học công nghệ,
tăng cường năng lực thể chế,...) 3.070,14 11,05 2.827,35 242,79
Tổng số 27.782,29 100,00 26.527,95 1.254,34
Nguồn: [4]
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017 71
Bảng 3 cho thấy giai đoạn 2011-2015, các lĩnh vực
giao thông vận tải, môi trường (cấp, thoát nước,
ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh,...)
và phát triển đô thị, năng lượng và công nghiệp là
những ngành có tỷ trọng vốn ODA và vốn vay ưu
đãi tương đối cao trong khi ngành nông nghiệp
và phát triển nông thôn kết hợp với xóa đói giảm
nghèo, y tế, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học
công nghệ, tăng cường năng lực thể chế,... chiếm
tỷ lệ khá khiêm tốn. Nguyên nhân của tình hình
này là tỷ lệ sử dụng vốn ODA không hoàn lại trong
tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các ngành
này thường cao. Hiện nay vốn ODA không hoàn
lại giảm mạnh, cùng với đó phần lớn các chương
trình và dự án trong các ngành này không có khả
năng hoàn vốn, do vậy khó sử dụng vốn vay, nhất
là vốn vay ưu đãi (lãi suất cao, thời gian trả nợ
ngắn sát với điều kiện vay thương mại), đồng thời
nguồn vốn vay ODA (lãi suất thấp, thời gian trả nợ
dài) hiện đang giảm mạnh [4].
2.5. Những kết quả đạt được và hạn chế
2.5.1. Kết quả đạt được
Một là, ODA đã được sử dụng hiệu quả để giúp
Việt Nam sớm hoàn thành mục tiêu thoát khỏi
nước nghèo để trở thành nước có thu nhập trung
bình thấp vào năm 2010, đồng thời giúp Việt Nam
đạt được các chỉ tiêu trong Chiến lược Phát triển
kinh tế - xã hội thời kỳ 2005-2010 và 2011-2015,
đặc biệt giúp Việt Nam trở thành nước hoàn thành
sớm Mục tiêu thiên niên kỷ (MDGs) mà Liên Hợp
Quốc đề ra. Theo bà Pratibha Mehta, Điều phối
viên thường trú Liên Hợp Quốc, Trưởng đại diện
UNDP tại Việt Nam nhận xét: “Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu trong việc thực hiện các
mục tiêu thiên niên kỷ. Việt Nam nằm trong top 6
quốc gia có những kết quả ấn tượng trên thế giới.
Trong 8 mục tiêu thiên niên kỷ thì Việt Nam đều cơ
bản hoàn thành. Ở cấp độ quốc gia, Việt Nam đã
có nhiều thành tựu đáng kể”.
Hai là, duy trì được nguồn vốn ODA ổn định.
Giai đoạn này là thời gian hậu khủng hoảng tài
chính thế giới và kinh tế toàn cầu nhưng Việt Nam
vẫn luôn nhận được sự ủng hộ từ ba nhà tài trợ
mặc dù kinh tế thế giới khó khăn, nhất là kinh tế
của nhóm nước G7 và G20. Điều này thể hiện sự
đồng tình và ủng hộ chính trị mạnh mẽ của cộng
đồng quốc tế đối với công cuộc đổi mới và chính
sách phát triển đúng đắn, sự tin tưởng của các
nhà tài trợ vào hiệu quả tiếp nhận và sử dụng vốn
ODA của Việt Nam.
Ba là, đổi mới phương thức, cách thức vận động
ODA để phù hợp với sư thay đổi của Việt Nam.
Trong bối cảnh Việt Nam trở thành nước thu nhập
trung bình thấp, yêu cầu về đối thoại chính sách
giữa Chính phủ và các nhà tài trợ phải sâu hơn về
nội dung, rộng hơn về phạm vi tham gia của các
bên vào quá trình phát triển và kết quả đối thoại
cần được theo dõi và triển khai thực hiện trong
đời sống thực tế. Để đáp ứng yêu cầu này, tại Hội
nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG) lần thứ 19
(tháng 12/2012), Chính phủ và các nhà tài trợ đã
quyết định cải tiến hội nghị này thành Diễn đàn
Đối tác phát triển Việt Nam thường niên (VDPF),
năm 2016 VDPF lại đổi thành Đối tác phát triển
Việt Nam (VDF) để tập trung nhiều hơn cho đối
thoại về các chính sách phát triển.
Bốn là, ODA đã bổ sung đáng kể vào tổng số vốn
đầu tư toàn xã hội.
Đây là nguồn lực rất quan trọng trong cân đối tài
chính quốc gia, tăng thêm nguồn lực phát triển
để hỗ trợ Việt Nam phát triển hạ tầng kinh tế, kỹ
thuật và xã hội. ODA chủ yếu tập trung vào các
lĩnh vực đầu tàu của nền kinh tế như giao thông,
điện, đường, trường, trạm nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo. Giai đoạn
1993-2012, ODA cam kết của WB chiếm 25,71%
(20.102,00 triệu USD), còn của ADB chiếm 18,20%
(14.239,73) trong tổng số 78.195,73 triệu USD vốn
ODA cam kết cho Việt Nam [4]. Hai tổ chức này
luôn là nhà viện trợ hàng đầu, lớn nhất và sát cánh
với Việt Nam.
2.5.2. Hạn chế và nguyên nhân
- Tình hình giải ngân còn ở mức thấp, chậm trễ
khiến cho một lượng lớn ODA bị ứ đọng và làm
gia tăng chi phí cho dự án do chậm giải ngân trong
khi đất nước đang cần thêm nguồn vốn phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các chương
trình, dự án ODA của IDA, từ nguồn vốn ADF
của ADB và UNDP. Đây là nguồn vốn có nhiều
ưu đãi và sắp hết viện trợ cho Việt Nam các loại
vốn này vì loại viện trợ này chỉ cung cấp cho
nhóm nước nghèo, có thu nhấp. Hiện nay ở cấp
độ quốc gia giai đoạn 2011-2015 còn khoảng 22
tỷ USD chưa thể giải ngân được, riêng giai đoạn
2006-2010 còn khoảng 6,9 tỷ USD vốn ODA đã ký
kết nhưng chưa giải ngân phải chuyển sang thời
kỳ 2011-2015. Đối với Ngân hàng Thế giới trong
thời kỳ từ năm 1994 đến tháng 9/2011, số vốn vay
đã cam kết nhưng chưa giải ngân còn lớn, khoảng
5,9 tỷ USD. Tương tự, kết quả nghiên cứu của
72
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017
ADB (năm 2013) chỉ ra rằng việc chậm thực hiện
giải ngân làm tăng 17,6% chi phí mỗi năm (6,5%
do lạm phát giá các hạng mục chính (chưa kể chi
phí tái định cư) và 11,1% chi phí do lợi ích của dự
án bị mất. Đồng thời, chính sự chậm trễ giải ngân
này đang là nguyên nhân khiến chi phí gia tăng và
không phát huy được lợi ích của dự án có sử dụng
vốn vay ODA. Việt Nam trung bình phải mất 5 năm
mới giải ngân một dự án, tiến độ còn chậm [5, 6].
Nguyên nhân vốn ODA chậm giải ngân, đại diện
của nhóm 6 ngân hàng trên cho biết, theo Nghị
quyết số 78/2014/QH13 của Quốc hội Khóa 13,
năm 2014, nếu giải ngân ODA vượt quá ước tính,
Chính phủ phải báo cáo với Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội trước khi giải ngân. Đặc biệt, thủ tục phê
duyệt rườm rà, sự chủ động của các ban quản lý
dự án còn kém cũng là nguyên nhân chủ quan gây
ra hiện trạng trên.
- Thời gian chuẩn bị chương trình, dự án ODA kéo
dài, bao gồm từ khâu đề xuất ý tưởng dự án. Tuy
kéo dài thời gian nhưng chất lượng chương trình,
dự án thấp, chưa đáp ứng yêu cầu, dẫn đến khi
thực hiện phải điều chỉnh, thay đổi nhiều lần, có
trường hợp phải hủy dự án. Theo Báo cáo của
06 ngân hàng và tổ chức cho biết: “Trung bình
mất 3 năm từ ngày phê duyệt để khởi công dự án.
Thường thời gian thuê tư vấn dài hơn thời gian thi
công, triển khai dự án...”. Về tác động trực tiếp
đến dự án, báo cáo của các ngân hàng trên nêu
rõ, từ tháng 2/2015 đến nay có 34 dự án bị gián
đoạn giải ngân vốn, trong đó ADB có 5 dự án bị
ảnh hưởng; AFD có một dự án bị ảnh hưởng;
JICA có 15 dự án bị ảnh hưởng nghiêm trọng...
- Thiếu vốn và chậm trễ trong giải ngân vốn đối
ứng cho dự án ODA. Đây được đánh giá là hạn
chế lớn, có nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến các
dự án, làm chậm tiến độ so với kế hoạch đặt ra.
Nhiều dự án công trình bị ảnh hưởng như dự án
Đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi sử dụng
nguồn vốn ODA của WB tài trợ do Tổng Công ty
Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC)
là chủ đầu tư. Dự án này hiện đang thiếu vốn cho
các địa phương thực hiện công tác giải phóng mặt
bằng (GPMB) mặc dù chủ đầu tư đã phải tự ứng
trước hơn 700 tỷ đồng. Tương tự, dự án Đường
cao tốc Bến Lức - Long Thành sử dụng một phần
nguồn vốn ODA của ADB trị giá 636 triệu USD
cũng do VEC làm chủ đầu tư trong thời gian qua,
do nguồn ngân sách nhà nước gặp rất nhiều khó
khăn nên kinh phí bố trí cho công tác GPMB của
các dự án do VEC làm chủ đầu tư luôn thiếu hụt
và không kịp thời [7].
- Năng lực của các ban quản lý dự án yếu. Thiếu
sự phối hợp với các nhà tài trợ; hài hòa thủ tục
chưa tốt. Tính làm chủ của các bộ, ngành, địa
phương chưa cao, còn ỷ lại các tư vấn quốc tế...
3. NHỮNG THAY ĐỔI CHÍNH SÁCH CỦA MỘT
SỐ TỔ CHỨC QUỐC TẾ VÀ HÀM Ý CHÍNH
SÁCH CHO VIỆT NAM
3.1. Những thay đổi chính sách của một số tổ
chức quốc tế
3.1.1. Ngân hàng Thế giới (WB)
Chiến lược Đối tác Quốc gia (CPS) của Ngân hàng
Thế giới cho Việt Nam giai đoạn 2012-2016 tập
trung vào ba trụ cột gồm có: (i) tăng cường khả
năng cạnh tranh của Việt Nam trong nền kinh
tế khu vực và toàn cầu, (ii) tăng cường tính bền
vững trong quá trình phát triển của Việt Nam, và
(iii) mở rộng điều kiện tiếp cận với các cơ hội kinh
tế - xã hội. Các chủ đề xuyên suốt gồm có: (i) tăng
cường quản trị, (ii) hỗ trợ bình đẳng giới và (iii) tăng
cường khả năng chịu đựng khi đối mặt với các cú
sốc kinh tế từ bên ngoài, các thảm họa thiên nhiên,
và tác động của biến đổi khí hậu [8]. Và từ năm
2017, chính sách cung cấp ODA của WB có sự thay
đổi do Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung
bình thấp. Do đó, ngày 20/3/2017, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư cùng Ngân hàng Thế giới thảo luận xây
dựng Khung đối tác quốc gia (CPF) giai đoạn 2018-
2022 vì đến năm tài khóa 2018 đánh dấu một giai
đoạn hợp tác mới trong quan hệ giữa Chính phủ
Việt Nam và Ngân hàng Thế giới. Từ tháng 7/2017,
Việt Nam sẽ tốt nghiệp IDA, các khoản vay trong
giai đoạn thực hiện CPF sẽ là vốn vay từ IBRD
và vốn IDA chuyển đổi (IDA không ưu đãi). Theo
đó, ba lĩnh vực trọng tâm của CPF bao gồm: Tạo
điều kiện tăng trưởng hòa nhập và sự tham gia của
doanh nghiệp tư nhân; Đầu tư vào con người và tri
thức; Tăng cường tính bền vững và khả năng ứng
phó môi trường [9].
IDA cung cấp vốn và ODA dưới hình thức cho
không và cho vay ưu đãi cho nhóm các nước
nghèo nhất thế giới có GNI bình quân của người
dân là dưới 1.045 USD/năm. Những năm qua, IDA
cho Việt Nam vay với lãi suất 0%, thời gian vay 40
năm, ân hạn 10 năm và phí dịch vụ 0,75 (bảng 4).
IBRD chỉ cung cấp vốn vay ưu đãi và viện trợ ODA
cho các nước thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp
với GNI bình quân 1026 - 4.035 USD và nước có
GNI trung bình cao 4.036 - 1.2475 USD. Việt Nam
đang thuộc nhóm nước có thu nhập trung bình
thấp. Vừa qua IBRD cho Việt Nam vay với lãi suất
0,2%, thời gian vay 30 năm, ân hạn 5 năm và phí
dịch vụ 0,25% (bảng 4).
Theo lộ trình, đến tháng 7/2017, Ngân hàng Thế
giới (World Bank) sẽ tuyên bố chấm dứt ODA ưu
đãi với Việt Nam và phải chuyển chủ yếu sang
sử dụng nguồn vay kém ưu đãi và tiến tới vay
theo điều kiện thị trường. Nguồn vốn ODA đã vay
chuyển sang điều khoản trả nợ nhanh gấp đôi hoặc
tăng lãi suất lên 2÷3,5% [10].
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017 73
3.1.2. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)
Giai đoạn 2012-2015, trọng tâm của chiến lược
đối tác quốc gia của ADB hỗ trợ Việt Nam về mục
tiêu tiến tới quốc gia có thu nhập trung bình ở mức
cao qua ba trụ cột: tăng trưởng toàn diện, nâng
cao hiệu quả kinh tế, và bền vững về môi trường
[11]. Mục tiêu giúp Việt Nam thành quốc gia có
thu nhập trung bình đã thành hiện thực. Sang
giai đoạn 2016-2020, Chiến lược Đối tác quốc
gia (CPS) của ADB dành cho Việt Nam sẽ hỗ trợ
cho các hoạt động đầu tư và cải cách chính sách
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng đều và
bền vững với môi trường. Để đạt được mục tiêu
này, khuôn khổ chiến lược của ADB dựa trên ba
trụ cột: (i) thúc đẩy tạo việc làm và năng lực cạnh
tranh, (ii) tăng cường tính bao trùm toàn diện trong
cung cấp hạ tầng và dịch vụ, và (iii) cải thiện tính
bền vững môi trường và ứng phó với biến đổi khí
hậu. CPS đưa ra một chương trình với các hoạt
động ưu tiên nhằm hỗ trợ cho từng trụ cột chiến
lược. Cách tiếp cận này dựa trên kết quả và nhằm
tối đa hóa tác động của hỗ trợ từ ADB qua việc
nâng cao tác động cộng hưởng của các chương
trình và dự án của ADB. ADB cũng tìm cách tăng
cường sự kết nối và tính cộng hưởng giữa (i) các
chương trình dự án cho chính phủ và cho khu vực
tư nhân, qua đó thúc đẩy hoạt động khu vực tư
nhân, và (ii) chương trình cải cách của quốc gia
và vùng [12].
Bảng 4. Điều kiện vay ODA của ADB và WB cho Việt Nam
STT Tên nhà tài trợ Lãi suất (%)
Thời gian
trả nợ (năm)
Ân hạn
(năm)
Phí dịch vụ
(%)
1
ADB:
- ADF (ưu đãi) 0 32 8 1%
- OCR
(thông thường)
0,4
(LIBOR+ chênh
lệch lãi suất)
15÷25
3÷5 (tương
ứng với thời
gian trả nợ)
0,5% (phí
đầu vào) và
0,75% (phí
cam kết)
2
WB:
- IDA (ưu đãi) 0 40 10 0,75%
- IBRD (kém ưu đãi) (LIBOR+ 0,2) 30
5 0,25 (phí thu
xếp một lần)
Nguồn: [10]
3.1.3. Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
(UNDP)
Ngày 18/8/2016, Chính phủ Việt Nam và Liên
Hợp Quốc mà UNDP là cơ quan đại điện, khởi
xướng quá trình xây dựng Kế hoạch chiến lược
chung giai đoạn 2017-2021. Dự thảo Kế hoạch
chiến lược chung giai đoạn 2017-2021 đặt trọng
tâm vào 4 lĩnh vực và đề ra các mục tiêu, kết quả
đạt được trong thời gian tới. Lĩnh vực đầu tư vào
con người trên cơ sở tình trạng bất công, bất bình
đẳng và dễ bị tổn thương ngày càng gia tăng; Kết
quả đặt ra gồm có giảm đói nghèo và tình trạng dễ
bị tổn thương, công bằng về chăm sóc sức khỏe,
công bằng về giáo dục và học tập có chất lượng.
Trước các nguy cơ ngày càng tăng về biến đổi khí
hậu và thiên tai, lĩnh vực đảm bảo khả năng chống
chịu với khí hậu và bền vững về môi trường đặt ra
các kết quả: Phát triển carbon thấp, chống chịu
với thiên tai và biến đổi khí hậu; Quản lý bền vững
nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Trên
cơ sở năng suất giảm và tăng trưởng chưa mang
tính toàn diện, lĩnh vực thúc đẩy thịnh vượng và
quan hệ đối tác đặt ra kết quả cần xây dựng mô
hình tăng trưởng kinh tế mới và thị trường lao
động bao trùm, mở rộng cơ hội cho tất cả. Lĩnh
vực thúc đẩy công lý, hòa bình và quản trị toàn
diện với các kết quả đặt ra: Ra quyết định có sự
tham gia và các thể chế đáp ứng; Bảo vệ quyền
con người, pháp quyền và tiếp cận pháp lý. Qua
đó, tăng cường các cơ chế và thông lệ điều phối
liên ngành của Chính phủ, nâng cao năng lực lập
kế hoạch và năng lực quản lý, tăng cường các
cơ chế đảm bảo trách nhiệm giải trình của Chính
phủ, tăng cường hệ thống dữ liệu để lập kế hoạch
dựa trên các bằng chứng, có theo dõi và đánh
giá thường xuyên, đẩy mạnh các hoạt động với
dân sự xã hội và hỗ trợ phát triển năng lực, thay
đổi các chuẩn mực xã hội không còn phù hợp.
Tổng ngân sách dự kiến cho Kế hoạch chiến lược
chung giai đoạn 2017-2021 vào khoảng 420 triệu
USD được huy động từ các nhà tài trợ ODA, các
quỹ toàn cầu và quỹ theo chủ đề, các sáng kiến từ
thiện và các quỹ dọc, đóng góp của Chính phủ thông
qua các dự án/chương trình phát triển và các nguồn
khác [13].
74
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017
3.2. Hàm ý chính sách cho Việt Nam
Kể từ khi Việt Nam được tái khởi động viện trợ
ODA từ các nhà tài trợ quốc tế, trong đó giai đoạn
2006-2015 là thời kỳ có nhiều khó khăn, thách
thức cho Việt Nam. Thời kỳ này chịu sự tác động
không nhỏ của cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu, làm cho kinh tế thế giới suy
giảm, nhất là kinh tế của nhóm nước G7, G20,
những nước viện trợ chính ODA song phương và
đa phương trên thế giới. Tuy nhiên, thời kỳ này
Việt Nam vẫn duy trì ổn định mức cam kết, ký kết
và giải ngân từ các nhà tài trợ. Đây là thành công
lớn của Việt Nam, thể hiện sự tin tưởng lớn của
các nhà tài trợ dành cho Việt Nam, giúp Việt Nam
thực hiện thành công nhiều mục tiêu quốc gia về
kinh tế - xã hội, trong đó phải kể đến Việt Nam
thoát khỏi nhóm nước kém phát triển, có thu nhập
thấp, trở thành nước có thu nhập trung bình thấp,
hoàn thành sớm Mục tiêu thiên niên kỷ của Liên
Hợp Quốc cùng nhiều mục tiêu khác trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội cho kế hoạch 5 năm,
10 năm và 20 năm. Thành công này là nhờ viện
trợ ODA của các nhà tài trợ, trong đó phải kể đến
viện trợ quan trọng của WB, ADB và UNDP. Đây
là ba nhà viện trợ đa phương lớn nhất cho Việt
Nam từ năm 1993 đến nay nói chung và giai đoạn
2008-2015 nói riêng.
Bên cạnh những kết quả, thành công đạt được,
quá trình thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam
vẫn tồn tại những hạn chế, thiếu sót. Do vậy, để
khắc phục các hạn chế, tồn tại này và khai thác tốt
hơn nữa tiềm năng của các nhà tài trợ, góp phần
quan trọng vào sự nghiệp phát triển của đất nước,
tác giả đưa ra một số kiến nghị sau:
- Một là, đối với nguồn vốn của WB, Việt Nam cần
thúc đẩy giải ngân các dự án, chương trình đã ký
kết, nhất là nguồn vốn của IDA cần tận dụng triệt
để vì nguồn vốn của IDA có tính ưu đãi cao dành
cho nhóm nước nghèo; còn nguồn vốn của IBRD
tính ưu đãi thấp hơn. Do vậy, khi Việt Nam không
được nhận viện trợ ODA của IDA năm 2017, Việt
Nam sẽ khó khăn hơn trong việc huy động vốn
cho những lĩnh vực ít khả năng thu hồi vốn như y
tế, giáo dục, công bằng xã hội, giảm nghèo ở vùng
sâu, vùng xa.
- Hai là, đối với nguồn vốn của ADB cũng tương tự,
đến năm 2019 ADB sẽ cắt nguồn vốn ADF dành
cho Việt Nam và chuyển sang viện trợ nguồn vốn
OCR, nguồn vốn vay thông thường, sát với vốn
vay trên thị trường. Do đó, Việt Nam cũng nên có
các giải pháp tận dụng cơ hội tiếp nhận nguồn vốn
ADF này của ADB cho các lĩnh vực khó thu hồi
vốn như đã đề cập ở trên.
- Ba là, đối với nguồn vốn UNDP, thì do đặc thù
của viện trợ UNDP là cung cấp viện trợ không
hoàn lợi. Đây là ưu đãi đặc biệt của UNDP dành
cho bên tiếp nhận, tránh nguy cơ thành con nợ
khi tiếp nhận. Tuy nhiên, viện trợ cho không này
không nhiều như nguồn vốn vay ưu đãi của WB,
ADB nhưng Việt Nam cũng không nên bỏ phí và
cần tận dụng thu hút và sử dụng hiệu quả khi Việt
Nam sắp tốt nghiệp ODA dành cho nhóm nước
nghèo, có thu nhập thuộc diện viện trợ của UNDP.
- Bốn là, để tận dụng và khai thác hiệu quả nguồn
vốn ODA và vốn vay ưu đãi như kể trên, Việt Nam
cần xây dựng chiến lược sử dụng ODA bám sát
với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quốc gia
trung hạn và dài hạn. Mục tiêu nào cần vốn của
IDA hay UNDP hay ADF của ADB; còn mục tiêu
nào có thể thu hồi vốn thì chuyển sang dùng ODA
của IBRD, vốn OCR của ADB Ngoài ra, cần
tăng cường vốn đối ứng cho các dự án, chương
trình thuộc lĩnh vực ưu tiên nhằm giải ngân nhanh,
tránh chậm tiến độ dự án, chương trình này, nhất
là quy định mức giải ngân nhanh mà Quốc hội
kiểm soát. Do vậy, sửa đổi quy định, chính sách
sao cho phù hợp là cần thiết. Cuối cùng là đào
tạo đội ngũ nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đặt
ra trong bối cảnh mới nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả xây dựng kế hoạch, thủ tục thực hiện tiếp
nhận nguồn vốn ODA trong thời gian ngắn nhất
theo yêu cầu của bên viện trợ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Thủ tướng Chính phủ (2016). Quyết định số 251/
QĐ-TTg ban hành ngày 17 tháng 02 năm 2016 về
việc Phê duyệt Đề án “Định hướng thu hút, quản
lý và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi
của các nhà tài trợ nước ngoài thời kỳ 2016-2020”.
[2]. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013). Báo cáo đánh giá toàn
diện 20 năm quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam
và các nhà tài trợ (1993-2013).
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017 75
[3]. Thủ tướng Chính phủ (2012). Quyết định số 106/
QĐ-TTg ban hành ngày 19 tháng 01 năm 2012
về Phê duyệt Đề án “Định hướng thu hút, quản
lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản
vốn vay ưu đãi khác của các nhà tài trợ thời kỳ
2011 - 2015”.
[4]. Ngân hàng Thế giới (2011). Báo cáo “Ngân hàng
Thế giới đồng hành cùng Việt Nam trên đường
phát triển”.
[5]. World Bank (2011). Country partnership strategy
for the Socialist Republic of Vietnam for the period
fy12 - fy16.
[6]. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013). Báo cáo đánh giá
toàn diện 20 năm quan hệ hợp tác phát triển giữa
Việt Nam và các nhà tài trợ (1993-2013).
[7]. Asian Development Bank (2012). Country
Partnership Strategy, Vietnam 2012-2015.
[8]. Ngân hàng Phát triển châu Á (2016). Chiến
lược Đối tác quốc gia: Việt Nam, 2016-2020
thúc đẩy tăng trưởng đồng đều và bền vững
môi trường.
[9]. https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/
projects
[10]. h t t p : / / w w w. m p i . g o v. v n / P a g e s / t i n b a i .
aspx?idTin=36091&idcm=188, cập nhật ngày
21/03/2017.
[11]. h t tps : / /www.baomo i . com/van -cham- t re -
trong-giai-ngan-von-doi-ung-cho-cac-du-an-
oda/c/19419741.epi, cập nhật ngày 20/5/2016.
[12].
von-du-an-oda-bi -doi - them-50-so-voi -du-
toan-20161018195556802.htm, cập nhật ngày
19/10/2016.
[13]. h t t p : / / w w w. m p i . g o v. v n / P a g e s / t i n b a i .
aspx?idTin=34021&idcm=188, cập nhật ngày
19/8/2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_thay_doi_trong_chinh_sach_oda_cua_mot_so_to_chuc_quoc.pdf