Những thực trạng chung trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại

MỤC LỤC CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.Khái quát về Ngân hàng thương mại 3 2. Nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại 4 3. Các hình thức của nghiệp vụ tín dụng tài trợ Xuất Nhập khẩu 8 CHƯƠNG 2: NHỮNG THỰC TRẠNG CHUNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. Tổng quan về hoạt động XNK và TTQT tại Việt Nam 21 2. Thực trạng các hình thức tín dụng tài trợ XNK tại các NHTM Việt Nam 26 3. Những hạn chế trong quá trình thực hiện tín dụng XNK 44 CHƯƠNG 3:GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM 1. Định hướng hoạt động và một số dự báo về tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam trong thời gian tới. 48 2. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu 50

doc58 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2195 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những thực trạng chung trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hà xuất khẩu vẫn chịu trách nhiệm rủi ro nếu nhà nhập khẩu không trả tiền. Factoring miễn truy đòi: ngân hàng hay công ty factoring gánh chịu mọi rủi ro nếu như nhà nhập khẩu không trả tiền. (2) Bán các khoản phải thu (1) Hợp đồng xuất khẩu Nhà Nhập Khẩu Nhà Xuất khẩu (6) Thanh toán (5) Ủy nhiệm thu (3) Thanh toán (4) Ủy nhiệm thu Export factor Import factor (7) Thanh toán Quy trình nghiệp vụ Factoring Dịch vụ Factoring chỉ phù hợp với các doanh nghiệp đã chiếm lĩnh được thị trường rộng và chỉ được cung cấp với một số điều kiện như: Đạt quy mô về doanh thu xuất khẩu hàng năm Thời hạn thanh toán không quá 120 ngày Cơ cấu khách hàng thay đổi ở mức có thể chấp nhận được 3.5 Chiết khấu nợ dài hạn - Forfaiting Forfaiting là hình thức tài trợ xuất khẩu dựa trên việc chiết khấu các khoản nợ dài hạn phát sinh do xuất khẩu máy móc, thiết bị có giá trị lớn. Theo thoả thuận nhà xuất khẩu bán thiết bị dưới hình thức trả góp. Để hỗ trợ tài chính cho nhà xuất khẩu, ngân hàng sẽ mua lại khoản nợ này, đây là nghiệp vụ forfaiting. (1 Hợp đồng xuất khẩu) Nhà nhập khẩu Nhà xuất khẩu (3) Đề nghị bảo lãnh (5) Thanh toán (2) Hợp đồng forfaiting (4) Hợp đồng bảo lãnh Ngân hàng bảo đảm Ngân hàng tài trợ Sơ đồ Forfaiting thông thường 3.7 Bảo lãnh Trong mua bán quốc tế, đôi khi nhà xuất khẩu không nắm chắc khả năng tài chính và mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu, nên yêu cầu nhà nhập khẩu phải có một tổ chức (ngân hàng) đứng ra bảo lãnh thanh toán. Ngược lại do không biết hoặc không tin tưởng nhau, nhà nhập khẩu có thể yêu cầu bên xuất khẩu có ngân hàng đứng ra bảo lãnh giao hàng hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Ngân hàng nhận bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng dùng để vay vốn nước ngoài dưới hình thức tín dụng thương mại hoặc tín dụng tài chính…Trách nhiệm của ngân hàng bảo lãnh là đảm bảo thi hành đúng cam kết với nước ngoài trong trường hợp người xin bảo lãnh không thực hiện đầy đủ một nghiệp vụ nào đó với bên nước ngoài. Các hình thức bảo lãnh: Mở thư tín dụng trả chậm Ký bảo lãnh hay ký chấp nhận trên hối phiếu Phát hành thư bảo lãnh với nước ngoài Lập giấy cam kết trả nợ với nước ngoài. CHƯƠNG 2 NHỮNG THỰC CHUNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. Tổng quan về hoạt động XNK và TTQT tại Việt Nam Hoạt động xuất nhập khẩu tại Việt Nam: Năm 1875, ngân hàng Đông Dương, Ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam được thành lập. Tuy nhiên suốt thời gian tồn tại cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, Ngân hàng Đông Dương chỉ như nơi cất giữ, chuyển tiền cho ngân hàng mẹ ở Paris và phục vụ các nhu cầu tài chính của giới cầm quyền thực dân. Các hoạt động tín dụng, thanh toán quốc tế rất hạn chế. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, sáu năm sau, ngày 6/5/1951, Ngân hàng quốc gia Việt Nam-nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thành lập. Trong những năm đầu do đang trong kháng chiến chống Pháp nên hầu như chưa thực hiện thanh toán quốc tế. Sau hòa bình lập lại ở miền Bắc, kinh tế bắt đầu khôi phục và phát triển, quan hệ kinh tế đối ngoại được thiết lập với các nước, chủ yếu là khu vực Xã hội chủ nghĩa, nghiệp vụ thanh toán quốc tế hình thành, chủ yếu là các hoạt động chuyển tiền. Năm 1963, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ra đời, chính thức đánh dấu sự ra đời và phát triển các hoạt động thanh toán quốc tế-trong đó có thanh toán quốc tế. Ở miền Nam từ 1954 đến 1975 dưới ách cai trị của đế quốc Mỹ, các ngân hàng cũng chỉ hoạt động thanh toán quốc tế rất hạn chế. Từ năm 1975, nước ta bị bao vây, cấm vận; kinh tế suy thoái, khủng hoảng. Hoạt động kinh tế đối ngoại hầu như vẫn chỉ với các nước Xã hội chủ nghĩa, chủ yếu thanh tóan bù trừ Clearing bằng đồng rúp chuyển nhượng và chỉ do Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam độc quyền thực hiện. Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra đường lối đổi mới, trong đó kinh tế đối ngoại được chú trọng phát triển với khái niệm “Việt Nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước”. Cùng với việc Mỹ, Trung Quốc và các nước khác bỏ chính sách bao vây cấm vận, từ năm 1990, kinh tế đối ngoại tăng trưởng mạnh. (Trích: Giải pháp hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế ở Việt Nam) 1.2 Hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt Nam: 1.2.1 Doanh số: Cùng tăng trưởng kinh tế đối ngoại, doanh số hoạt động thanh toán quốc tế cũng gia tăng mạnh. Từ năm 1991, nhiều ngân hàng thương mại được phép kinh doanh đối ngoại, thanh toán quốc tế, tới nay đã có gần 60 ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động này. Doanh số thanh toán quốc tế của NHTM Việt Nam 1991 – 2005 Năm 1991 1995 2000 2003 2005 Doanh số (triệu USD) 2900 12731 25800 39500 60032 Số NHTM 1 4 38 50 59 (Trích: Giải pháp hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế ở Việt Nam) Biểu đồ trên đã thể hiện rõ sự tăng trưởng nhanh chóng và mạnh mẽ của doanh số thannh toán quốc tế của các NHTM Việt Nam từ năm 1991 đến năm 2005. Năm 1991, doanh số mới chỉ dừng lại ở 2,9 tỉ USD. Đến năm 1995, doanh số tăng lên 4,39 lần với 12,7 tỉ USD và vẫn tiếp tục tăng mạnh hơn trong vòng 10 năm kế tiếp. Kết quả là cuối năm 2005, doanh số đã đạt trên 60 tỉ USD, tức là gấp 20,7 lần so với năm 1991. Thị phần thanh toán quốc tế của NHTM Việt Nam Đơn vị: % CHỈ TIÊU 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2005 Tổng thị phần 100 100 100 100 100 100 100 100 NHTM Q.Doanh Quốc Doanh 82 66.2 66.2 60.7 61.7 61 62.4 63.4 VIETCOMBANK 66.1 49.8 47 44.1 41 42.7 43.9 54.3 INCOMBANK 9 7.7 8.9 5.2 4.6 4.9 5.2 13.4 BIDV 1.9 2.1 2.2 3.2 4.5 4.3 4.1 16.9 AGRIBANK 5 6.6 8.1 8.2 11.6 9.1 9.2 15.4 NHTM khác 8 33.8 33.8 39.3 38.3 39 37.6 35.2 Tuy có 59 ngân hàng thương mại tham gia, song 4 ngân hàng thương mại Nhà nước là Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Ngoại thương chiếm thị phần thanh toán quốc tế chủ yếu, trong đó lớn nhất vẫn là Ngân hàng Ngoại thương. So với kim ngạch xuất nhập khẩu, doanh số thanh toán quốc tế qua hệ thống ngân hàng hàng năm đều chiếm trên 80%. Tỷ lệ còn lại thuộc về một số trường hợp như đổi hàng, thanh toán trực tiếp tại biên giới bằng tiền mặt…. Như vậy, có thể nói hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại gắn chặt và là điều kiện không thể thiếu để thực hiện kinh tế đối ngoại nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Các nghiệp vụ: Các ngân hàng thương mại đã áp dụng hầu hết các nghiệp vụ thanh toán quốc tế (chuyển tiền, ghi sổ, nhờ thu, thư tín dụng, bảo lãnh,…) theo các quy tắc và thông lệ quốc tế, tư vấn và hướng dẫn khách hàng lựa chọn các nghiệp vụ phù hợp. Trong những năm gần đây, một số ngân hàng thương mại – nhất là NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam áp dụng thành công thanh toán biên mậu tại biên giới Việt Trung. Từ cá nghiệp vụ chuyển tiền, ghi sổ, tới nay đã mở rộng thực hiện thư tín dụng, bảo lãnh bằng đồng bản tê đưa thanh toán biên giới trở thành một phương thức thanh toán quốc tế. Kỹ thuật công nghệ: Từ năm 1995, Việt Nam bắt đầu tham gia SWIFT. Tới nay đã có 43 ngân hàng thương mại Việt Nam là thành viên của hệ thống SWIFT. Khối lượng thanh toán qua SWIFT hiện đã chiếm trên 96% doanh số. Nhờ vậy, việ thanh toán được tiến hành nhanh nhạy, chính xác và an toàn theo chuẩn quốc tế. Các ngân hàng thương mại, đặc biệt ngân hàng thương mại nhà nước đã có đổi mới mạnh mẽ về công nghệ thông tin. Hệ thống tin học nối mạng hầu hết chi nhánh cấp 1, cấp 2. Thanh toán trong nước nhanh chóng, an toàn cũng góp phần quan trọng vào thành công của thanh toán quốc tế vì chu trình thanh toán quốc tế và trong nước luôn gắn liền với nhau. Đến đây có thể nhận xét: Tự chỗ chỉ có một NHTM hoạt động thanh toán quốc tế với doanh số vài trăm triệu USD một năm và một vài nghiệp vụ đơn giản, hạn hẹp, chỉ sau 15 năm ở Việt Năm đã hình thành hệ thống các NHTM hoạt động đa năng với nhiều nghiệp vụ ngân hàng quốc tế hiện đại. Doanh số thanh toán quốc tế tăng 20 đến 30% một năm. Các NHTM Việt Nam xây dựng được uy tín và vị thế khá cao trong lĩnh vực thanh toán quốc tế trên thế giới. Mặc dù có một vài thời điểm khó khăn như năm 1997, 1998 với L/C trả chậm, hoặc một vài tranh chấp trong thanh toán quốc tế nhưng cơ bản cho tới nay, các ngân hàng thương mại vẫn được đánh giá cao – đặc biệt so với nhiều nước chuyển đổi kinh tế từ tập trung bao cấp sang thị trường hoặc các nước đang phát triển. 2. Thực trạng các hình thức tín dụng tài trợ XNK tại các NHTM Việt Nam 2.1. Cho vay thanh toán bằng L/C Tại Việt Nam, thanh toán xuất nhập khẩu thông qua L/C là hình thức phổ biến nhất và đem lại doanh thu không ngừng tăng lên cho các ngân hàng. Đây là hình thức mà các ngân hàng thay mặt người nhập khẩu cam kết với người xuất khẩu sẽ trả tiền trong thời gian quy định khi người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ phù hợp với quy định trong L/C đã được ngân hàng mở theo yêu cầu của người nhập khẩu. Các qui định trong L/C dựa trên Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP) do Phòng thương mại quốc tế (ICC) ban hành. Hiện nay UCP 600 đã có hiệu lực từ 1/1/2007. Nếu lựa chọn và sử dụng đúng, L/C có thể đem lại nhiều lợi ích và đặc biệt là sự an toàn cần thiết cho cả hai bên – đảm bảo là người xuất khẩu phải thực hiện hợp đồng nghiêm túc và người nhập khẩu sẽ phải thanh toán tiền. Tuy nhiên, để có được các lợi ích này, cả hai bên nhất thiết phải thực hiện theo đúng các nguyên tắc và các qui định. Các hình thức thanh toán L/C cung cấp bởi NHTM Việt Nam: Thư tín dụng không huỷ ngang, không xác nhận: Loại L/C này chỉ đòi hỏi sự cam kết thanh toán từ phía ngân hàng phát hành, ngân hàng thông báo không có bất kỳ một sự cam kết thanh toán nào. Ngân hàng thông báo chỉ đóng vai trò là đại diện cho ngân hàng phát hành. Thư tín dụng không huỷ ngang có xác nhận của một ngân hàng khác: Bằng việc xác nhận L/C, ngân hàng xác nhận tạo ra thêm một sự cam kết thanh toán một cách độc lập đối với cam kết của ngân hàng phát hành. Ngân hàng xác nhận đảm bảo thực hiện cam kết đó bất kể ngân hàng phát hành có thanh toán hay không. Xét theo thời gian thanh toán: Thư tín được thực hiện theo hình thức trả ngay hoặc trả chậm. Các hình thức thư tín dụng đặc biệt khác: Thư tín dụng dự phòng, Thư tín dụng tuần hoàn, Thư tín dụng chuyển nhượng, Thư tín dụng giáp lưng. Trình tự thủ tục thực hiện thanh toán L/C tại các NHTM Việt Nam a) Thanh toán bằng L/C nhập khẩu Yêu cầu mở L/C : Nguồn vốn để đảm bảo thanh toán L/C: - L/C phát hành bằng vốn tự có, người nhập khẩu ký quỹ đủ 100% - L/C phát hành bằng vốn tự có, người nhập khẩu không ký quỹ đủ 100% - L/C phát hành bằng vốn vay của Ngân hàng Đơn yêu cầu mở L/C: - Thư yêu cầu phát hành L/C (theo Mẫu) - Bản sao Hợp đồng mua bán ngoại thương - Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp xuất  nhập khẩu (đối với khách hàng giao dịch lần đầu) -  Văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ Thương mại hoặc Bộ quản lý chuyên ngành (đối với hàng nhập khẩu có điều kiện). - Đơn xin vay vốn (đối với L/C nhập khẩu bằng vốn vay của Chính Phủ, ODA…). Kiểm tra nội dung L/C Sau khi Ngân hàng phát hành L/C, người nhập khẩu sẽ nhận được một bản sao L/C đó để xem xét đối chiếu giữa nội dung L/C với đơn yêu cầu L/C của mình đồng thời thông báo ngay cho ngân hàng những sai lệch nếu có. Sửa đổi L/C - Thư yêu cầu sửa đổi L/C (theo Mẫu) - Văn bản thoả thuận giữa người mua và người bán (nếu có) Nhận và kiểm tra chứng từ Người nhập khẩu kiểm tra đối chiếu giữa nội dung L/C với các chứng từ nhận được, trường hợp có khác biệt, trong vòng 03 ngày làm việc, cần thông báo gấp cho ngân hàng để khiếu nại ngân hàng nước ngoài. Yêu cầu phát hành Bảo lãnh/ uỷ quyền nhận hàng theo L/C          Điều kiện: Người nhập khẩu cần ký quỹ 100% trị giá hóa đơn, hoặc ủy quyền cho ngân hàng khoanh số tiền tương ứng trên tài khoản tiền gửi hoặc ghi nợ tài khoản tiền vay khi thanh toán. Phát hành Thư bảo lãnh nhận hàng: - Thư yêu cầu phát hành bảo lãnh (theo Mẫu) - Bản sao vận đơn đường biển hoặc vận đơn hàng không - Bản sao hoá đơn do người xuất khẩu gửi trực tiếp Phát hành Thư uỷ quyền nhận hàng: - Thư yêu cầu phát hành Uỷ quyền nhận hàng (theo Mẫu) - Bản gốc vận đơn hàng không ghi người nhận hàng là Ngân hàng phát hành L/C - Bản sao hoá đơn Ký hậu vận đơn đường biển: - Thư yêu cầu ký hậu vận đơn (theo Mẫu) - Bản gốc vận đơn đường biển - Bản sao hoá đơn Thanh toán L/C: Ngân hàng thanh toán cho ngân hàng nước ngoài theo quy định của L/C khi nhận được bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều kiện, điều khoản của L/C. Huỷ bỏ L/C Ngân hàng không chấp nhận huỷ L/C trong trường hợp: - Người nhập khẩu đã nhận hàng thông qua bảo lãnh nhận hàng của Ngân hang phát hành L/C. - Có tranh chấp thương mại mặc dù hai bên mua bán thoả thuận nhưng chưa được sự chấp nhận huỷ L/C của các Ngân hàng liên quan. b) Thanh toán bằng L/C xuất khẩu 1. Nhận L/C: Người xuất khẩu nhận L/C từ ngân hàng phát hành 2. Kiểm tra L/C Người xuất khẩu kiểm tra nội dung L/C, đối chiếu với các điều khoản của hợp đồng đã ký kết. Nếu thấy có sai sót thì yêu cầu người mở L/C sửa đổi L/C thông qua ngân hàng mở L/C. 3. Giao hàng và lập chứng từ giao hàng Nếu chấp nhận L/C nhận được, người xuất khẩu phải chuẩn bị hàng hóa và phải giao hàng đúng thời gian quy định, kèm theo tất cả các chứng từ đã yêu cầu trong L/C. 4. Xuất trình chứng từ tại Ngân hàng thông báo - Xuất trình kèm bản gốc L/C (có dấu và chữ ký, ngày ký của người có thẩm quyền của Ngân hàng thông báo) và các bản gốc của các sửa đổi L/C liên quan đã được xác thực. - Bản gốc thông báo L/C và các bản gốc thông báo sửa đổi L/C của Ngân hàng thông báo. Giá trị đòi thanh toán phải tương ứng với giá trị của lần giao hàng cần thanh toán. 5. Thanh toán L/C Căn cứ theo “Thư yêu cầu thanh toán”, người xuất khẩu sẽ được thanh toán hoặc khi nhận được tiền từ ngân hàng nước ngoài, hoặc thanh toán ngay một số tiền nhất định dưới hình thức chiết khấu chứng từ. 2.1.3 Tình hình thanh toán L/C của các NHTM Việt Nam a) L/C nhập khẩu và xuất khẩu của Việt Nam Nguồn: Swift Traffic (Trích từ JP Morgan Traning for Incombank) Nhìn chung, số L/C nhập khẩu phát ra của các ngân hàng Việt Nam gấp nhiều lần số L/C xuất khẩu nhận được. Điều này dễ dàng được lý giải dựa trên tình hình kinh tế thực tại vì Việt Nam hiện đang là một nước nhập siêu. Xét theo phạm vi khu vực thì 89% L/C nhập khẩu được chuyển tới Châu Á Thái Bình Dương, trong khi châu Âu chỉ có 8% và châu Mỹ là 2%. Trong đó, chủ yếu tập trung vào Trung Quốc (17%), Singapore (15%), Hàn Quốc (12%), Nhật Bản (9%) và Đài Loan (8%). L/C xuất khẩu phát hành từ khu vực Châu Á Thái Bình Dương chiếm 67%, từ châu Mỹ 23% và châu Âu 6% tổng số L/C xuất khẩu mà các NHTM Việt Nam nhận được trong năm 2006. Trong đó, chủ yếu là L/C xuất khẩu nhận được từ Hàn Quốc (26%), Nhật Bản (12%), tiếp đến là Đài Loan (7%), Mỹ (5%), Hồng Kông (5%) và Trung Quốc chỉ có 3%. Như vậy các L/C chủ yếu được lưu chuyển trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Điều này là hợp lí vì các thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam đều nằm trong khu vực này: Năm 2006 5 thị trường nhập khẩu lớn nhất là Trung Quốc (16.6%), Đài Loan (10.9%), Nhật (10.6%) , Hàn Quốc (8.7%). Đối với xuất khẩu các thị trường chủ lực là Mỹ (23.1%), Nhật Bản (15.4%), Australia (10.8%), Trung Quốc (8.9%) và Singapore (4.8%) 4.2. Doanh số thanh toán L/C của các NHTM Các NHTM Việt Nam hiện nay đều rất chú trọng mở rộng công tác cho vay XNK, đây là hoạt động cần có sự phối hợp chặt chẽ nghiệp vụ giữa các phòng ban đặc biệt là phòng Quan hệ Khách hàng và phòng Thanh toán XNK bởi các hình thức tín dụng được cấp dựa trên các phương tiện thanh toán quốc tế mà doanh nghiệp sử dụng. Các ngân hàng như Vietcombank, Eximbank, BIDV, Agribank, Techcombank, Incombank… đã xây dựng được uy tín và kinh nghiệm trong lĩnh vực thanh toán XNK, ngày càng có nhiều doanh nghiệp XNK sử dụng dịch vụ và xin tài trợ tại các ngân hàng trên. Nhìn vào doanh số cho vay XNK theo hình thức thanh toán ta thấy chủ yếu là cho vay thanh toán theo phương thức L/C, các hình thức thanh toán khác doanh số tài trợ nhỏ do môi trường kinh doanh của Việt Nam còn nhiều rủi ro, tiềm lực tài chính và thương hiệu của các doanh nghiệp chưa cao, chưa đủ độ tín nhiệm với khách hàng nước ngoài. Dưới đây là doanh số thực hiện thanh toán quốc tế của chi nhánh Eximbank tại Hà Nội để làm dẫn chứng cụ thể. Doanh số thực hiện thanh toán quốc tế của Eximbank Hà Nội Đơn vị: nghìn USD CHỈ TIÊU 2003 2004 2005 I. Thanh toán xuất khẩu 49,651.73 59,453.28 67,192.48 1. Thanh toán LC 49,132.02 58,752.28 66,344.28 2. Nhờ thu 519.71 701.00 848.20 3. TTR II. Thanh toán nhập khẩu 61,993.78 69,739.63 98,182.45 1. Thanh toán LC 50,263.66 56,099.22 76,824.48 2. Nhờ thu 3,222.35 3,425.15 1,887.30 3. TTR 8,507.77 10,215.26 19,470.67 TỔNG 111,645.51 129,192.91 165,374.93 (Nguồn Phòng Thanh toán quốc tế) Năm 2005, tổng doanh số thanh toán quốc tế của Eximbank Hà Nội tăng 28.0% so với năm 2004. Trong đó, xuất khẩu tăng 13.0%, nhập khẩu tăng 40.8%. Còn năm 2004 so với 2003, doanh số thanh toán quốc tế tăng 15.7%. Trong đó, xuất khẩu tăng 19.7%, nhập khẩu 12.5%. Như vậy, một lần nữa ta thấy rằng hoạt động ở chi nhánh phần lớn là tài trợ và thanh toán cho nhập khẩu. Dựa vào 2 biểu đồ trên đây, dễ dàng nhận doanh số thanh toán L/C sự gia tăng vượt bậc qua các năm 2003, 2004 và 2005 của chi nhánh Eximbank Hà Nội. Trong thanh toán xuất khẩu, doanh số thanh toán L/C từ xấp xỉ 50 triệu USD năm 2003, đến năm 2004 đã tăng thêm 19.6% và thêm 15.4% nữa vào năm 2005. Thanh toán nhập khẩu cũng diễn ra xu hướng tương tự. Doanh số L/C năm 2005 tăng hẳn 52,8% so với năm 2003. Trong khi đó, các hình thức khác như nhờ thu, chuyển tiền bằng điện (TTR) cũng đem lại cho Eximbank doanh số gia tăng hàng năm nhưng không đáng kể. Điều này càng chứng tỏ vai trò chủ đạo của L/C trong các giao dịch thương mại quốc tế (chiếm đến gần 90%). Bởi lẽ L/C là phương thức thanh toán có nhiều ưu điểm nhất đối với cả nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu cũng như ngân hàng. 2.2. Cho vay chiết khấu hối phiếu và chiết khấu bộ chứng từ Đây là hai hình thức tài trợ cho nhà xuất khẩu và có xu hướng ngày càng được mở rộng và phát triển. Hình thức này làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp nhờ đó có thể tăng nhanh vòng quay của vốn, mở rộng phạm vi, là động cơ thúc đẩy nền kinh tế. Vì thế nó là hình thức hết sức cần thiết đối với doanh nghiệp XNK. Mặc dù vậy, hình thức chiết khấu hối phiếu trơn nói chung không được phổ biến ở nước ta, việc lưu thông hối phiếu chưa được đảm bảo do nước ta chưa có luật hoàn thiện về hối phiếu. Mặc dù Luật công cụ chuyển nhượng đã được ban hành vào tháng 11/2006 nhưng chưa thực sự tạo ra được bước thúc đẩy tích cực. Một nguyên nhân chính khác là do chứng khoán nước ta mới ở hình thức phôi thai chưa tạo thuận lợi cho việc mua bán những chứng từ có giá như hối phiếu. Hối phiếu thường mang tính chất như một giấy nhận nợ hơn là một công cụ nợ có thể chuyển nhượng được và người sở hữu hối phiếu cũng thường khó tìm được người mua lại chúng. Do chiết khấu hối phiếu trơn mang tính rủi ro cao, ngân hàng nếu có chấp nhận chiết khấu thì cũng thường chỉ chấp nhận các hối phiếu đã có chấp nhận chi trả của một ngân hàng khác. Hình thức chiết khấu bộ chứng từ phổ biến hơn. Ngân hàng thường áp dụng hai hình thức: - Chiết khấu miễn truy đòi (ngân hàng mua đứt BCT và chịu rủi ro khi nước ngoài không trả tiền). - Chiết khấu truy đòi (ngân hàng thực hiện chiết khấu chứng từ được truy đòi khách hàng nếu nước ngoài từ chối thanh toán). Tuy nhiên hiện nay, tình hình chung của các NHTM là nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ cũng rất ít. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn chưa có kinh nghiệm trong quan hệ thương mại với các đối tác nước ngoài, nhiều khi ký các hợp đồng với những Điều khoản bất lợi đến hậu quả là không thể lập được bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C hoặc nếu xuất trình bộ chứng từ tới ngân hàng xin chiết khấu thì bộ chứng từ lại không hoàn hảo, rủi ro không đựơc thanh toán là rất cao và Ngân hàng không chấp nhận chiết khấu. Hơn nữa do sự chưa hoàn thiện của hệ thống luật pháp mà Ngân hàng rất ngại chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất vì sau đó nếu xảy ra tranh chấp sẽ không có luật điều chỉnh giữa ngân hàng và nhà xuất khẩu. Ngân hàng chỉ thực hiện chiết khấu đối với những L/C xuất khẩu những mặt hàng dễ đạt những tiêu chuẩn quốc tế, xuất sang những thị trường quen thuộc. 2.3. Bao thanh toán Dịch vụ bao thanh toán xuất hiện ở thị trường Việt Nam từ tháng 4 năm 2005, đến nay có 11 đơn vị cung cấp dịch vụ này ( kể cả trong nước và xuất khẩu).Trong đó, có 4 ngân hàng Việt Nam là ngoại thương (VCB), Á châu (ACB), Kĩ thương Việt Nam ( techcombank) và Sài Gòn thương tín (Sacombank) .Nhưng 4 ngân hàng Việt Nam mới chỉ dừng lại ở dịch vụ bao thanh toán mua bán trong nước. Đơn vị tiên phong triển khai dịch vụ chính là ACB, với 20 hợp đồng đã thực hiện và 30 khách hàng tiềm năng.Theo như dự kiến ,4 đơn vị trên sẽ triển khai dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu, nhằm tránh rủi ro cho doanh nghiệp Việt Nam khi bán hàng và xoay vòng vốn sản xuất. Với những ưu điểm như vậy, nhưng bao thanh toán lại chưa phổ biến ở Việt Nam. Có nhiều lí do dẫn đến hiện tượng này. Trên lý thuyết, bao thanh toán là một nghiệp vụ đơn giản,nhưng điều kiện để nó trở nên thực sự đơn giản là được sự hỗ trợ bởi một hành lang pháp lý minh bạch, đầy đủ. Chính vì Việt Nam không đáp ứng được những điều kiên trên nên bao thanh toán còn là hình thức mới mẻ ở Việt Nam. Bao thanh toán không chỉ tham gia vào công đoạn đầu là cho vay đối với người bán, mà còn đi sâu vào cả quá trình tiếp theo nhằm mục đích để cho đơn vị bao thanh toán có thể kiểm soát được cả bên mua bán và nhất là kiểm soát được mục đích sử dụng vốn vay của doanh nghiệp.Chính đặc điểm này đã tạo ra rào cản ngăn trở quá trình đơn vị bao thanh toán tiếp xúc với các doanh nghiệp. Tâm lý các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa muốn công khai tình hình hoạt động, càng không muốn một tổ chức bất kỳ nào can thiệp vào quá trình kinh doanh của họ. Vì vậy, các đơn vị bao thanh toán gặp nhiều khó khăn khi tiếp thị sản phẩm mới với khách hàng. Dù xét về mặt lý thuyết, bao thanh toán khắc phục được tình trạng cho vay dựa trên thế chấp của tín dụng ngân hàng, nhưng thực tế ở Việt Nam thì chưa hẳn vậy. Các ngân hàng Việt Nam, và kể cả các ngân hàng nước ngoài, vẫn coi trọng tài sản đảm bảo. Về điều này cũng không thể trách các ngân hàng được vì đặc điểm thị trường Việt Nam đầy rủi ro không cho phép họ mạo hiểm. Các ngân hàng không thể xét duyệt hạn mức tín dụng đơn thuần sau khi nghe các doanh nghiệp chứng minh tình trạng tài chính của mình là lành mạnh trong khi những lý lẽ đó có được từ việc phân tích các báo cáo tài chính không thể tin tưởng được. Lợi ích của bao thanh toán là không cần dùng thương phiếu để tài trợ và giải quyết mọi tranh chấp thương mại, mà chỉ cần có hợp đồng và các hóa đơn thương mại đã được đóng dấu chuyển quyền sở hữu. Trong điều kiện Việt Nam chưa có Luật Thương phiếu để xử lý nợ thì hợp đồng bao thanh toán cũng như các hợp đồng thương mại khác sẽ được xem như là cơ sở pháp lý để trong trường hợp có tranh chấp, sẽ được đưa ra trọng tài kinh tế hoặc tòa án thương mại để xét xử. Nhưng vấn đề ở đây là, ở Việt Nam, hiệu lực hợp đồng và thậm chí là hiệu lực kết quả xét xử của trọng tài kinh tế hay tòa án thương mại vẫn còn bị xem nhẹ. Rất nhiều trường hợp vi phạm hợp đồng, không tuân thủ phán quyết của trọng tài và tòa án mà vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Nói tóm lại, một nguyên nhân khiến bao thanh toán chậm được triển khai ở Việt Nam là do luật pháp của ta chưa nghiêm. Ngoài ra, các doanh nghiệp vẫn quen dùng các phương thức thanh toán truyền thống như chuyển tiền T/T, đặc biệt là L/C. Nhận thức của phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam cộng với môi trường kinh tế không ổn định khiến rất khó thuyết phục được họ nhận biết được những lợi ích mà bao thanh toán có thể đem lại về lâu dài qua các dịch vụ phong phú, đa dạng của nó như tư vấn về khách hàng, thu nợ hộ, quản lý các khoản phải thu của khách hàng, bảo hiểm rủi ro. Chính tâm lý dè đặt trước sản phẩm mới của doanh nghiệp cũng góp phần làm thui chột đi sự năng động, sáng tạo và tìm kiếm các sản phẩm dịch vụ mới của ngân hàng. Ngòai ra, phí cho dịch vụ này cũng tốn kém đối với nhà xuất khẩu. Phí bao thanh toán xuất khẩu gồm phí tài trợ vốn, tương tự như lãi suất tín dụng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp xuất khẩu phải chịu phí dịch vụ khoảng 1-2%, tùy thuộc vào tổng doanh số xuất khẩu, giá trị bình quân của mỗi hóa đơn, thời hạn thanh toán và uy tín của nhà nhập khẩu. Riêng phí chuyển nhượng mỗi hóa đơn mất từ 10 đến 20 USD. Với khả năng tài chính còn yếu ủa các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, dễ hiểu tại sao họ không mặn mà với loại hình này. Hiện nay bao thanh tóan ở Việt Nam chủ yếu vẫn là bao thanh toán nội địa. Mặc dù vậy với rất nhiều ưu điểm, chúng ta có thể hy vọng loại hình này sẽ nhanh chóng phổ biến như một hình thức tài trợ xuất khẩu mang lại lợi nhuận cao. 2.4. Cho vay trên cơ sở nhờ thu kèm chứng từ Cho vay thanh toán trên cơ sở nhờ thu kèm là hình thức tín dụng XNK được ứng dụng rộng rãi. Hình thức này tuân theo Quy tắc thống nhất về nhờ thu (URC) do phòng thương mại quốc tế (ICC) ban hành. Phiên bản mới nhất là URC 522. Hiện nay phương thức nhờ thu kèm chứng từ đang được các ngân hàng đẩy mạnh triển khai, song nó vẫn chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ cả về số lượng lẫn doanh thu trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại các NHTM. Nhìn chung hình thức cho vay thanh toán L/C vẫn là chủ yếu. Qui trình của nhờ thu kèm chứng từ ở các NHTM thường được thực hiện qua các bước như sau: 2.4.1. Đối với nhờ thu đến: - Tiếp nhận chứng từ nhờ thu đến: Ngân hàng tiếp nhận chứng từ nhờ thu từ các ngân hàng trong nước và ngoài nước gửi đến. Ngân hàng kiểm tra các thông tin chung như địa chỉ ngân hàng nhận thư, chi tiết về ngân hàng gửi chứng từ (số fax, telex, phone, …), chi tiết về người ủy thác, chi tiết về ngân hàng xuất trình, về người ủy thác… - Kiểm tra chứng từ nhờ thu đến: Ngân hàng sử dụng các nghiệp vụ để kiểm tra các thông tin trong bộ chứng từ xem chứng từ có hợp lệ hoặc có sai sót gì không. - Thông báo, xử lí nhờ thu đến: Ngân hàng thông báo cho người khách hàng về chứng từ nhờ thu, tiếp nhận và xử lí các thông báo chấp nhận hoặc từ chối thanh toán từ phía khách hàng. - Kí hậu vận đơn/ Phát hành bảo lãnh nhận hàng/ Giao chứng từ cho khách hàng - Thanh toán và chấp nhận nhờ thu đến: Thông báo cho ngân hàng gửi chứng từ về việc chấp nhận thanh toán, đến hạn thanh toán đôn đốc khách hàng trả tiền và chuyển tiền đó cho ngân hàng gửi chứng từ. - Đóng hồ sơ nhờ thu trong trường hợp khách hàng từ chối thanh toán hoặc lưu trữ hồ sơ nhờ thu trong trường hợp khách hàng chấp nhận thanh toán. 2.4.2. Đối với nhờ thu đi: - Tiếp nhận chứng từ nhờ thu đến. - Lập lệnh nhờ thu kiêm bảng kê chứng từ, gửi kèm với chứng từ đến ngân hàng thanh toán. - Xử lí thông tin trong quá trình nhờ thu. - Thanh toán và chấp nhận thanh tóan. - Đóng hồ sơ nhờ thu hoặc lưu trữ hồ sơ nhờ thu 2.5. Bảo lãnh và tái bảo lãnh: Hiện nay các ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp và tái bảo lãnh cho các ngân hàng khác. Các hình thức bảo lãnh được cung cấp gồm có bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh tham gia đấu thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đặt cọc…nhưng thực tế bảo lãnh thực hiện hợp đồng và đấu thầu rất ít sử dụng vì ở nước ta chưa quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng để bảo vệ quyền lợi của mình. Bảo lãnh vay vốn là hình thức chủ yếu tại các ngân hàng, và tái bảo lãnh cũng ít thực hiện. Bảo lãnh chủ yếu để tài trợ cho nhà nhập khẩu vay vốn thực hiện dưới hình thức như phát hành thư bảo lãnh, mở L/C trả chậm, ký bảo lãnh trên hối phiếu nhận nợ nước ngoài, ký bảo lãnh lệnh phiếu, ký xác nhận bảo lãnh trên giấy nhận nợ do khách hàng (vay nợ) lập nhận nợ nước ngoài. Với nghiệp vụ tái bảo lãnh hình thức duy nhất được thực hiện là phát hành thư bảo lãnh. Nghiệp vụ bảo lãnh được qui định cụ thể ở Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 v/v ban hành Quy chế bảo lãnh ngân hàng trong đó qui định khách hàng của loại hình này phải đáp ứng những điều sau: 1. Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật; 2. Mục đích đề nghị tổ chức tín dụng bảo lãnh là hợp pháp; 3. Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ được tổ chức tín dụng bảo lãnh trong thời hạn cam kết; 4. Trường hợp khách hàng là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thì ngoài các điều kiện nêu trên phải tuân thủ các quy định về quản lý ngoại hối của Việt Nam. Tổng số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% (mười lăm phần trăm) vốn tự có của tổ chức tín dụng. Tổng số dư bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài. (Tổng số dư bảo lãnh là số dư bảo lãnh và các cam kết phát hành theo hình thức tín dụng chứng từ, ngoại trừ hình thức mở thư tín dụng trả ngay được khách hàng ký quỹ đủ hoặc được cho vay 100% giá trị thanh toán) 3. Những hạn chế trong quá trình thực hiện tín dụng XNK Nhìn chung có thể thấy tín dụng tài trợ XNK là một hoạt động đang phát triển mạnh mẽ tại các NHTM Việt Nam với doanh thu và chất lượng ngày một nâng cao. Mặc dù vậy hoạt động này vẫn còn một số hạn chế: 3.1. Hạn chế về phía Ngân hàng: Các ngân hàng chưa đa dạng hóa các loại hình tín dụng tài trợ XNK: Chủ yếu hiện nay các ngân hàng vẫn thực hiện cho vay thông thường, cho vay dựa trên cơ sở thanh toán L/C, còn các phương pháp chiết khấu hối phiếu, chiết khấu chứng từ, bao thanh toán … vẫn chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong tín dụng tài trợ XNK. Đặc biệt những hình thức như bao thanh tóan còn tương đối mới mẻ và có rất ít ngân hàng cung cấp dịch vụ này, hoặc nếu có chủ yếu là bao thanh tóan nội địa. Điều này làm giảm đi rất nhiều khả năng cạnh tranh cũng như lợi nhuận của ngân hàng . Hoạt động marketing còn yếu kém, các chính sách khách hàng chưa thực sự hiệu quả: Hiện nay ở các ngân hàng cán bộ tín dụng thường kiêm cả nhiệm vụ marketing và quan hệ khách hàng. Đây là điều hợp lí vì như vậy khách hàng sẽ chỉ phải liên lạc với một vài nhân viên ngân hàng trong suốt các qui trình tín dụng. Tuy nhiên việc này cũng dồn thêm gánh nặng cho các cán bộ tín dụng và bắt buộc họ phải tự nâng cao trình độ của mình. Thực tế cho thấy các cán bộ ngân hàng chưa ý thức được tầm quan trọng hàng đầu của khâu tiếp thị. Ngoài ra các chính sách đãi ngộ khách hàng chưa thật sự thỏa đáng và còn bị ràng buộc bởi nhiều qui chế (Ví dụ như mức chi giới hạn cho hoạt động này ở một số ngân hàng là quá thấp…) Công nghệ ngân hàng chưa thực sự đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế: Ở một số ngân hàng (Như Agribank và Vietcombank), hệ thống thanh tóan còn phân tán. Nhìn chung hệ thống thanh toán tại các ngân hàng hiện nay còn yếu kém ảnh hưởng đến chất lượng giao dịch. Khả năng quản lí rủi ro chưa tốt: Các ngân hàng thường không có thông tin về khách hàng của mình mà chỉ bắt đầu tìm hiểu về họ sau khi có đề nghị giao dịch với ngân hàng. Việc này đẩy ngân hàng vào tình thế bị động. Gần đây Ngân hàng nhà nước có xây dựng một Trung tâm quản lý rủi ro nhưng hoạt động của trung tâm này chưa hiệu quả do các NHTM chưa thực sự đóng góp tích cực vào hoạt động này: Số liệu cập nhật chậm và nhiều NHTM không gửi số liệu đến trung tâm. Hạn chế về nguồn nhân lực: Trình độ cán bộ tín dụng nhìn chung còn thấp, trình độ của cán bộ ngân hàng về quản lý kinh tế và chuyên môn chưa theo kịp với biến động phức tạp của thị trường, trong khi đó công tác huấn luyện, đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu hiện nay. Hơn nữa mức đãi ngộ chưa hợp lí: Cán bộ tín dụng là những người chịu áp lực rất lớn và đối mặt với nhiều rủi ro, tuy nhiên lương của họ không cao và không có những chính sách đãi ngộ thỏa đáng, đặc biệt là ở các ngân hàng quốc doanh. Điều này làm giảm nhiệt tình của các cán bộ tín dụng đối với công việc, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả làm việc. 3.2. Hạn chế về phía doanh nghiệp: - Chưa có bảo hiểm tín dụng XNK: Hiện nay rủi ro của các giao dịch tín dụng tài trợ XNK là khá cao, nhưng trong hợp đồng tín dụng thường không bao gồm bảo hiểm tín dụng. Các doanh nghiệp nước ngoài thường tự nguyện đóng phần này. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam do khả năng tài chính yếu và cũng do thói quen chúng ta chưa áp dụng biện pháp bảo vệ này, do vậy rủi ro của hoạt động tín dụng XNK là khá cao. - Năng lực quản lý chưa tốt: Có thể thấy đây là tình trạng khá phổ biến của các doanh nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp chưa sử dụng hiệu quả vốn vay, còn nhiều khó khăn trong việc xây dựng phương án kinh doanh khả thi và tài sản thế chấp. - Nghiệp vụ ngoại thương của các doanh nghiệp trong nước chưa cao: Doanh nghiệp chưa cập nhật những biến động thị trường XNK quốc tế, chưa am hiểu chính sách pháp luật của nước XNK và còn thiếu hiểu biết chính xác về những tập quán thương mại quốc tế. Chẳng hạn như trong Incoterms 2000, nhiều doanh nghiệp cho rằng việc xuất FOB và nhập CIF là có lợi, thực ra cách làm này không hiệu quả. Việc thẩm định kỹ thuật khi mua dây chuyền công nghệ mới còn yếu kém, có những doanh nghiệp mua phải thiết bị lạc hậu không đồng bộ nên sản xuất ra sản phẩm khó tiêu thụ, khó hoàn trả nợ cho ngân hàng. - Doanh nghiệp chưa thực sự năng động tìm dự án đầu tư có tính khả thi cao để Ngân hàng đầu tư vốn có hiệu quả. - Tình hình tài chính của doanh nghiệp chưa đảm bảo tính minh bạch: Điều này gây khó khăn trong khâu thẩm định của Ngân hàng. Doanh nghiệp thực hiện chưa nghiêm các chế độ hạch toán kế toán, nhiều doanh nghiệp có 2 bản thống kê tài sản, 2 bảng cân đối kế toán, đặc biệt các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không chấp hành tốt chế độ kế toán thống kê, sổ sách, chứng từ sơ sài trong khi hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro chưa đủ điều kiện để cung cấp thông tin cập nhật. 3.3. Hạn chế từ môi trường kinh doanh: - Hệ thống pháp luật chồng chéo: Hoạt động tín dụng XNK có liên quan đến nhiều ban ngành trong nước như Tổng cục Hải quan, Cục sở hữu trí tuệ, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam... nên hoạt động này hiện nay cũng đang chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các tổ chức này theo luật định. Điều này có thể gây trở ngại cho cả doanh nghiệp và ngân hàng khi tham gia tín dụng có quá nhiều bất lợi cho chúng ta nếu có tranh chấp xảy ra vì có nhiều sự khác biệt giữa luật pháp nước ta và luật pháp nước ngoài, rồi sự chồng chéo, thiếu đồng bộ của các điều luật, thời gian các vụ việc bị kéo dài. - Các dự án mang tính chỉ đạo của nhà nước: Trong nhiều dự án trung và dài hạn của Ngân hàng có sức ép trực tiếp hoặc gián tiếp từ phía cơ quan Nhà nước, các chương trình cho vay theo chỉ định của Chính phủ không được thể chế hoá bằng văn bản dưới luật để tạo hành lang pháp lý cho ngân hàng. - Thị trường hối đoái chưa phát triển: Việc này ảnh hưởng đến việc lưu hành của các công cụ nợ và các giấy tờ nhận nợ như hối phiếu, thương phiếu… dẫn đến việc những hình thức như chiết khấu chứng từ, hối phiếu, bao thanh tóan chưa thực sự có hiệu quả. - Nhà nước chưa có chính sách chiến lược đủ mạnh để khuyến khích hoạt động XNK như chính sách ưu đãi thuế, mạng lưới viễn thông, thương mại điện tử… CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM 1. Định hướng họat động và một số dự báo về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian tới 1.1. Định hướng Chính sách ngoại thương của Việt Nam hiện tại được xây dựng trên cơ sở thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội mà Chính phủ đề ra cho giai đoạn 2001-2010. Mục tiêu hoạt động XNK trong gia đoạn 2001-2010 được nêu trong văn kiện Đại hội của Ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 9 là: Nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh CNH-HĐH, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, thúc đẩy xuất khẩu, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất - nhập khẩu; mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh; hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới. Thị trường xuất nhập khẩu tiềm năng nhất là các bạn hàng truyền thống: Châu Á – Thái Bính Dương, Tây Âu. Thị trường cần mở rộng là Mỹ, Trung Quốc, Nga và các nước SNG. Chiến lược thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam được xấy dựng theo định hướng tăng tỷ trọng xuất nhập khẩu vào Mỹ, Tây Âu lên 20 – 25% vào năm 2010, giảm tỷ trọng xuất nhập khẩu sang thị trường chấu Á xuống còn 50% vào năm 2010. 1.2. Một số dự báo về tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam trong thời gian tới Trong những năm gần đây, thị trường xuất khẩu của Việt Nam đều tăng trưởng khá. Đặc biệt từ cuối năm 2006, chúng ta đã được kết nạp vào Tổ chức thương mại thế giới, chính thức gia nhập vào thị trường thương mại quốc tế rộng lớn và cũng nhiều thử thách. Các doanh nghiệp Việt Nam thực sự sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trường hàng hoá, dịch vụ của hơn 150 nước thành viên WTO với những mức thuế xuất nhập khẩu ưu đãi. Chiến lược thay đổi cơ cấu mặt hàng XNK của Việt Nam theo hướng tăng kim ngạch hàng công nghiệp và sản phẩm chế biến, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản chiếm trên 50%. Công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, giảm tỷ lệ xuất khẩu nguyên liệu thô và sơ chế (dầu, than, nông sản…), tăng tỷ lệ xuất khẩu hàng tinh chế (dệt may, nông sản chế biến, xăng dầu chế biến, đồ điện tử), nhập khẩu hàng tiêu dùng, công nghệ Tín dụng ngân hàng cũng phải đổi mới cơ cấu theo hướng kinh tế công- nông nghiệp sẽ là cơ sở quan trọng để tăng tỷ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu có hàm lượng kỹ thuật cao. Đối với khu vực sản xuất nguyên liệu, tín dụng chủ yếu sử dụng nguồn vốn tại chỗ và huy động trong nước, với công nghiệp tinh chế cần hình thành các trung tâm, các khu chế xuất, tín dụng có thể đầu tư từ nguồn vốn vay nước ngoài 2. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu 2.1. Giải pháp cho các ngân hàng thương mại Đẩy mạnh huy động vốn Nguồn vốn là điều kiện đầu tiên để cho ngân hàng mở rộng thì trường, phân chia các khoản mục đầu tư trong tài sản có, trong đó dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn. Hay nói cách khác, có huy động vống thì ngân hàng mới có thể đa dạng các hình thức kinh doanh. Ta thấy rằng nguồn vốn mà hầu hết các ngân hàng huy động chủ yếu là vốn ngắn hạn, vốn trung và dài hạn chiếm tỷ trọng rất ít, mặc dù trong những năm gần đây đã tăng lên đáng kể. Do đó, ngân hàng chỉ cho vay trung hạn với thời gian từ 1-3 năm trong khi nhà nước quy định là 1-5 năm, còn cho vay dài hạn khi nào ngân hàng xác định được nguồn vốn thì mới cho vay. Ngân hàng cần đưa ra nhiều hình thức huy động vốn, tạo ra nhiều tiện ích cho khách hàng, có những biện pháp tiếp thị, khuyến mãi, quảng cáo như các hình thức tiết kiệm dự thưởng, ưu đãi cho các khách hàng quen thuộc.. Ngân hàng cho vay từ vốn đi vay, để mở rộng hoạt động tín dụng phải có nguồn vốn tăng lên tương ứng nhất là vốn trung và dài hạn đối với các dự án. Chiến lược huy động vốn của các ngân hàng nên là kết hợp đa dạng hoá các hình thức, các công cụ huy động vốn như kỳ phiếu, trái phiếu, phát triển các sản phẩm ngân hàng hiện đại, tích hợp nhiều tiện ích, mở rộng mạng lưới hoạt động, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt, hấp dẫn để thu hút tiết kiệm, nguồn uỷ thác, nguồn vốn chỉ định, các quỹ đầu tư tín dụng nhà nước và nguồn vốn lãi suất thấp từ tín dụng nước ngoài. Mở rộng đối tượng tài trợ Chi nhánh nên hướng tới tài trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhằm tạo điều kiện đa dạng hoá khách hàng đồng thời cũng giúp cho các doanh nghiệp này có cơ hội tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiệu quả hoá chất lượng quy trình tín dụng nhằm tạo điều kiện phát triển sản phẩm Chú trọng hơn và nghiêm chỉnh trong việc thực hiện quy trình tín dụng đặc biệt quy trình mới theo Quyết định 90 của NHTM Việt Nam nhằm chặt chẽ hoá các bước thẩm định, kiểm tra kiểm soát việc sử dụng vốn vay. Càng thận trọng thì ngân hàng càng giảm thiểu được rủi ro. Với những khách hàng truyền thống thì có thể chỉ cần tập trung thẩm định phương án kinh doanh. Khi phê duyệt và giải ngân thì cần kiểm tra tình trạng tài sản thế chấp, cầm cố, hợp đồng tín dụng và giấy nhận nợ. Sau khi phát tiền cũng phải kiểm nghiệm lại tính chính xác khách quan của phương án kinh doanh, theo dõi xem vốn vay có được sử dụng đúng mục đích hay không qua việc kiểm tra việc rút vốn vay trên tài khoản của khách hàng. Các NHTM cần phải thường xuyên tiếp cận với khách hàng, nắm bắt các thông tin và khách hàng từ khâu nghiên cứu thị trường, nghiên cứu khách hàng, đến khâu điều ra, thẩm định dự án xin vay vốn, nắm bắt được các thông tin trong quá trình sử dụng vốn vay, tiêu thụ sản phẩm, nguồn trả nợ... Để thu được các thông tin này, ngoài những thông tin mà khách hàng cung cấp cho NH thì NH có thể phỏng vấn trực tiếp khách hàng, điều tra tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thông qua các khách hàng, đối tác, đối thủ canh tranh của doang nghiệp đó, cơ quan quản lý thuế, phương tiện thông tin đại chúng...Xây dựng tốt hệ thống thông tin tín dụng, ngân hàng mới có đầy đủ thông tin về khách hàng, nhờ vạy việc tài trợ sẽ trở nên thuận tiện, nhanh chóng và giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Tăng cường quản lý rủi ro và tài sản đảm bảo Rủi ro tín dụng luôn là bạn đồng hành với hoạt động tín dụng của các NHTM, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng tài trợ XNK, liên quan đến các giao dịch thương mại quốc tế. Rủi ro trong giao dịch quốc tế thường xảy ra do khoảng cách về địa lý, những khác biệt về văn hoá, luật pháp, đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp...Rủi ro có thể làm giảm hiệu quả kinh doanh, giảm thu nhập, thậm chí đưa ngân hàng đến tình trạng phá sản. Do vậy, vấn đề quản lý rủi ro tín dụng XNK là một tất yếu. Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro xảy ra, ngân hàng có thể thực hiện như sau: - Trong thời gian cụ thể, Ngân hàng cần phải có kế hoạch, phương án hoạt động kinh doanh có tính đến mức độ rủi ro sát với thực tế để có thể dự đoán được thu nhập và chi phí. - Tăng cường thu thập thông tin về khách hàng cũng như đối tác của khách hàng, tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, xuống tận cơ sở khảo sát thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, nghiên cứu và đáp ứng nhu cầu của khách hàng đang cần vốn vay trên cơ sở quản trị rủi ro. - Đa dạng hoá các hình thức bảo đảm rủi ro tín dụng như: xác định mức tín dụng, tăng quỹ bù đắp rủi ro,sử dụng tài sản thế chấp, cầm cố, số dư bù,...để đảm bảo khả năng hoàn trả khoản vay của khách hàng cũng như khả năng thu hồi một phần giá trị của khoản vay khi khách hàng không trả nợ. - Ngân hàng cần cập nhật và am hiểu những quy chế, văn bản mới về hoạt động kinh doanh nhất là hoạt động XNK, không chỉ của nước ta mà của nước ngoài và quốc tế để đảm bảo việc ra quyết định của cán bộ tín dụng được chính xác và đem lại hiệu quả cao cho ngân hàng. Nghiên cứu thị trường trong nước và quốc tế và phát triển thêm những hình thức tín dụng mới: Đối với tín dụng XNK, ngoài những thông tin khách hàng cung cấp, bản thân cán bộ tín dụng và ngân hàng cũng cần xây dựng thêm những nguồn thông tin khác về thị trường XNK phục vụ cho việc thẩm định khả năng tiêu thụ, tốc độ thu hồi vốn của doanh nghiệp, từ đó xem xét thời hạn của các khoản vay. Ngoài ra hiểu biết về thị trường có thể dự báo nhu cầu của doanh nghiệp, xây dựng mục tiêu tài trợ cho ngân hàng, và khuyến nghị với khách hàng khi có những biến động thị trường. Hiện nay, ngân hàng vẫn tập trung cho vay theo phương thức thanh toán L/C trong khi những nghiệp vụ mới như Factoring rất phát triển tại các ngân hàng nước ngoài lại rất ít. Mặc dù nghiệp vụ này áp dụng với những doanh nghiệp lớn nhưng đó là khách hàng mục tiêu của ngân hàng, chi nhánh nên khai thác và đẩy mạnh hình thức tín dụng này. Vì Ngân hàng sẽ có lợi như liên hệ với các tổ chức bao thanh toán ở các nước nhập khẩu, lệ phí thu về khá cao gồm lệ phí hợp đồng và lệ phí rủi ro. Ngân hàng cần mở rộng cho vay bằng ngoại tệ, tài trợ trọn gói cho khách hàng. Nâng cao năng lực đội ngũ nhân viên ngân hàng, cập nhật kiến thức và thông tin về thương mại quốc tế Một ngân hàng chỉ có thể thành công khi có nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, có nghiệp vụ chuyên môn tốt. Để mở rộng hoạt động tài trợ, ngân hàng cần phải có đội ngũ nhân viên nhiệt tình, có trách nhiệm, có kiến thức về thanh toán quốc tế, vận tải, bảo hiểm ngoại thương, thẩm định dự án, luật kinh tế,...Do vậy, việc tuyển chọn, đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng là một việc hết sức quan trọng Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ tín dụng bao gồm cả trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật thương mại quốc tế và đạo đức nghề nghiệp. 2.2 Giải pháp dành cho các doanh nghiệp Doanh nghiệp cần thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh Doanh nghiệp là một nhân tố hết sức quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Vì vậy các doanh nghiệp cần chủ động tiến hành khảo sát, đánh giá thị trường, năng lực tài chính, năng lực sản xuất của mình; chú ý tận dụng hiệu quả chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với những sản phẩm, ngành hàng nằm trong định hướng phát triển của cả nước trong giai đoạn tới để xác định cho mình chiến lược phát triển mặt hàng xuất khẩu trọng điểm, chiến lược phát triển mặt hàng xuất khẩu mới và chương trình cụ thể tiếp cận các thị trường xuất khẩu trọng điểm, tiềm năng. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần xây dựng cho mình chiến lược mở rộng liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp với nhau nhằm hợp lý hoá, chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản xấut trên cơ sở thế mạnh của mỗi doanh nghiệp, nhằm mở rộng sức sản xuất, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh. Doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực theo hướng chuyên nghiệp hoá và công nghiệp hoá nhằm nâng cao năng suất lao động, qua đó gián tiếp giảm chi phí hoạt động, có chính sách cụ thể về đào tạo, tuyển dụng, sử dụng và thường xuyên đào tạo lại nguồn nhân lực; nhanh chóng tiếp cận và tiếp thu, áp dụng những kỹ năng quản lý và sử dụng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp ở các nước phát triển. Tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp, hợp lý hoá quy trình sản xuất kinh doanh nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động. Tăng cường triển khai các hệ thống quản lý sản xuất kinh doanh nhằm giảm rủi ro, giảm tỷ lệ sản phẩm kém chất lượng, tiết kiệm chi phí; khi thác hiệu quả những tiện ích của công nghệ thông tin và đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử, nâng cao hiệu quả SXKD. Doanh nghiệp cần đẩy mạnh mối liên kết giữa người sản xuất-cung cấp nguyên, vật liệu đầu vào với doanh nghiệp và các cơ quan nghiên cứu khoa học, nhằm tổ chức hiệu quả chuỗi cung ứng từ khâu sản xuất nguyên, vật liệu đầu vào đến khâu tổ chức sản xuất hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. 2.3. Một số kiến nghị với ngân hàng nhà nước Để tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện hiệu quả hoạt động tín dụng XNK, Ngân hàng nhà nước (NHNN) nên xem xét để thực hiện một vài kiến nghị: - Trước hết, NHNN cần phải có cơ chế quản lý ngoại hối phù hợp, nhằm tạo ra sự ổn định vể tỷ giá. Thời gian vừa qua, diễn biến tỷ giá giữa VNĐ và USD diễn biến tương đối phức tạp, NHNN cần thông qua các công cụ vĩ mô để có biện pháp làm bình ổn tỷ giá để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh XNK, từ đó, tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng XNK. - NHNN phải phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ kịp thời cho mỗi ngân hàng, hạn chế rủi ro về tỷ giá nhằm đáp ứng tôt nhất nhu cầu của khách hàng. - NHNN cần củng cố hệ thống thông tin và cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về các khách hàng cho hệ thống NHTM nói chung bằng cách tăng cường hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro. Cụ thể là chỉ đạo, đôn đốc các ngân hàng thực hiện chế độ thông tin khách hàng theo quy chế và tổ chức hoạt động thông tin tín dụng do Thống đốc NHNN ban hành, đồng thời giúp các ngân hàng cập nhập thông tin khi có biến động của khách hàng. - NHNN cần kiện toàn cơ chế thanh tra, kiểm tra và giám sát đối với hoạt động ngân hàng, đặc biệt là tín dụng XNK theo hướng giảm can thiệp hành chính, tăng quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm của các NHTM. Những sai lầm, thiếu sót cần được xử lý nghiêm minh, đúng mức và kịp thời. - Ngoài ra, NHNN cần tìm ra những chính sách vĩ mô phù hợp với từng thời kỳ để tạo ra sự bình ổn và tăng trưởng kinh tế. Đây là nhân tố khách quan tác động đến quy mô và chất lượng hoạt động tín dụng của các NHTM. 2.4. Một vài kiến nghị với Chính phủ: - Chính phủ cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện môi trường pháp lý. Vì kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, nhất là liên quan đến hoạt động XNK nên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do đó, đòi hỏi phải có một môi trường pháp lý đồng bộ. Trên thực tế, nước ta gặp rất nhiều bất cập về luật pháp và các chế tài kinh tế cần phải sửa đổi nhanh chóng cho phù hợp với sự phát triển của đất nước. - Chính phủ nên dành nguồn vốn thích đáng cho những ngành xuất khẩu mũi nhọn thông qua các kênh tín dụng và đầu tư. Để từ đó giúp ngân hàng khai thông được mối quan hệ tín dụng với doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cũng từ đó, đảm bảo dư nợ tín dụng lành mạnh cho ngân hàng. - Chính phủ cần có những chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động XNK, nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng nguồn lực sẵn có trong nước, phát triển mạnh những sản phẩm, dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. - Đơn giản hoá các thủ tục hành chính đối với hoạt động XNK, thành lập các trung tâm thương mại để cung cấp các thông tin về thị trường XNK, các đối tác thương mại...tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia và hoạt động XNK được thuận lợi hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 163.doc
Tài liệu liên quan