Đặc biệt, quy định về loại trừ trách
nhiệm hình sự trong khi thi hành mệnh
lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
không được áp dụng đối với các trường
hợp quy định tại Khoản 2 Điều 421 (Tội
phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm
lược), Khoản 2 Điều 422 (Tội chống loài
người) và Khoản 2 Điều 423 (Tội phạm
chiến tranh) chương XXVI (Các tội phá
hoại hòa bình, chống loài người và tội
phạm chiến tranh) của BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tóm lại, việc ban hành BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã thể
chế hóa chính sách hình sự của Đảng và
Nhà nước ta trong bối cảnh cải cách tư
pháp, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới, tiếp
thu những giá trị của nền văn minh nhân
loại và truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tham khảo kinh nghiệm lập pháp của
một số nước trên thế giới. Đồng thời, tiếp
tục nội luật hóa những cam kết quốc tế
mà Việt Nam đã phê chuẩn vào hệ thống
pháp luật quốc gia, dựa trên kết quả của
quá trình nghiên cứu đánh giá thực tiễn
thi hành BLHS những năm vừa qua. Đặc
biệt, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) đã có những sửa đổi, bổ sung
và hoàn thiện về mặt hình thức, nội dung
pháp lý cũng như kỹ thuật lập pháp về
những trường hợp loại trừ trách nhiệm
hình sự, bước đầu góp phần từng bước
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật hình sự trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 262 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
84 SỐ 99 [01 - 2018]
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Chúng ta biết rằng, công bằng, nhân đạo, dân chủ, pháp chế là giá trị chung của nền văn minh
nhân loại, đồng thời, được coi là giá trị
tự thân, là các quan điểm, tư tưởng pháp
lý tiến bộ trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa - Thể chế chính trị, luôn
coi các quyền và tự do của con người là
những giá trị xã hội cao quý nhất. Điều
2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013 nêu rõ: “Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,
NHỮNG TRƯỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
(SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2017)
HOÀNG MINH ĐỨC*
TÓM TẮT NỘI DUNG
Trong thực tế chúng ta gặp một số trường hợp, hành vi của một người xét về mặt
hình thức có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng trong hành vi đó lại chứa đựng
một số yếu tố nhất định làm mất đi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, Bộ luật Hình
sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) gọi đó là những trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự. Bài viết tập trung phân tích, luận giải về tính cấp thiết của việc quy định
cũng như nội dung, giá trị, ý nghĩa của các quy định về loại trừ trách nhiệm hình sự
trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Từ khóa: Trách nhiệm hình sự; loại trừ trách nhiệm hình sự.
SUMMARY
In fact, there are some cases that one’s act has full form of an offence but it contains
some factors that eliminate the danger to the society. This is called case of exemption of
Criminal responsibility in the Criminal Code 2015 (Amended in 2017). In this article,
the author presented and discussed the exigency of the legalisation as well as the content,
value and meaning of the regulations of exemption of criminal responsibility in the
Criminal Code 2015 (Amended in 2017).
Key words: Criminal responsibility; exemption from criminal responsibility.
* Trường Đại học Cảnh sát nhân dân
TẠP CHÍ KHGD CSND 85
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
vì Nhân dân; Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ;
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức”1. Như vậy, Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa - Nhà nước
mà ở đó pháp luật được tôn trọng và đề
cao, đã chính thức thừa nhận và đảm bảo
trên thực tế mọi quyền lợi và nghĩa vụ
của con người, của công dân. Điều này
đồng nghĩa rằng, mọi hành vi xâm phạm
đến quyền, lợi ích hợp pháp của con
người, của công dân đều phải bị lên án
kịp thời và xử lý phù hợp nhằm tạo lập
trật tự pháp luật, duy trì sự ổn định của
đời sống xã hội, tạo điều kiện thuận lợi
để cá nhân hoàn thiện và phát triển bản
thân mình, được sáng tạo và cống hiến
không hạn chế.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của con người, của công dân, Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa
sử dụng nhiều công cụ và bằng nhiều
hình thức khác nhau, trong đó không
thể không nhắc đến vai trò cực kỳ quan
trọng của Luật Hình sự với tư cách là
một ngành luật, một ngành khoa học,
một đạo luật quy định những vấn đề
có liên quan đến tội phạm và hình phạt
nhằm tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc
cho công tác phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm góp phần bảo vệ chủ
quyền quốc gia, an ninh của đất nước,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ
quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân
tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức,
bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành
vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức
tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm. Với ý nghĩa như
vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu thông qua
đó làm sáng tỏ bản chất của một số chế
định trong Luật Hình sự góp phần nâng
cao khả năng nhận thức pháp luật, tư
duy pháp lý và kỹ năng thực hành, đặc
biệt là những điều, việc làm mà pháp luật
không cấm (công dân được phép và có
quyền làm trong tình huống nhất định)
là việc làm hết sức cần thiết trong giai
đoạn hiện nay, nhất là trong bối cảnh
Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) vừa được Quốc
hội thông qua và sẽ có hiệu lực vào ngày
01/01/2018. Trong phạm vi bài viết này,
tác giả tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ
sự cần thiết, những điểm mới của BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
quy định về những trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự.
1. Sự cần thiết của việc quy định
những trường hợp loại trừ trách nhiệm
hình sự trong Bộ luật hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu
cực, có tính lịch sử và tính giai cấp. Việc
1 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013.
86 SỐ 99 [01 - 2018]
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
quy định một hành vi nào đó là tội phạm
hay không phải là tội phạm phụ thuộc
vào ý chí của giai cấp thống trị xã hội,
phụ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện kinh
tế trong từng giai đoạn nhất định. Ở Việt
Nam, trên cơ sở nghiên cứu thấu đáo, sâu
sắc các khía cạnh khác nhau của đời sống
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, các yếu
tố thuộc về tâm lý, tinh thần, nền tảng
ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của
nhân dân cùng với những yếu tố khác,
tội phạm được hiểu là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong BLHS,
do người có năng lực trách nhiệm hình
sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến
các quan hệ xã hội được pháp luật hình
sự xác lập và bảo vệ mà theo quy định của
BLHS phải bị xử lý hình sự. Nhận thức
và quy định tội phạm nêu trên thể hiện
rõ chính sách hình sự của Đảng và Nhà
nước ta trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm; cụ thể hóa các nguyên
tắc xử lý đối với người phạm tội và hành
vi phạm tội; tạo tiền đề cho việc xây dựng
và hoàn thiện các chế định khác trong
Luật hình sự. Đồng thời, là cơ sở thực
tiễn cho việc áp dụng thống nhất các quy
định của pháp luật hình sự trong khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình
sự, phân biệt tội phạm với các hành vi vi
phạm pháp luật khác.
Việc xác định một người phạm tội
không chỉ ảnh hưởng tới một cá nhân
mà còn thể hiện chính sách, quan điểm
của Nhà nước về bảo vệ trật tự xã hội nói
chung. Do đó, trong quy định của BLHS,
bên cạnh những quy định tội phạm là
những quy định về loại trừ trách nhiệm
hình sự đối với những hành vi có tính
nguy hiểm cho xã hội nhưng được thực
hiện vì lợi ích của Nhà nước, tập thể hoặc
của cá nhân. BLHS được ban hành năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), đến
nay thực tế đã có nhiều thay đổi, cùng
với đó, đòi hỏi phải có chính sách hình
sự phù hợp. Và một trong những vấn đề
cần được đặt ra nghiên cứu hiện nay là
hoàn thiện chế định loại trừ trách nhiệm
hình sự2.
Về thực tiễn, sau hơn 10 năm thi hành
BLHS, thực tế đã phát sinh nhiều trường
hợp mặc dù có tính nguy hiểm cho xã hội
nhưng lại được thực hiện với mục đích
vì lợi ích xã hội như rủi ro trong nghiên
cứu khoa học; gây thiệt hại cho người
bị bắt trong trường hợp bắt, giữ người
phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã;
gây thiệt hại khi thi hành mệnh lệnh của
cấp trên Các trường hợp này, theo quy
định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) thì vẫn bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Điều này vô hình chung
2 Ban soạn thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) (2015),
Dự thảo Báo cáo đánh giá tác động Dự án Bộ luật
Hình sự (sửa đổi), Hà Nội, Tr.30-36.
TS. Trịnh Tiến Việt (2013), Chế định loại trừ trách
nhiệm hình sự và những yêu cầu đặt ra khi sửa đổi,
bổ sung Bộ luật Hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa
học Đại học quốc gia Hà Nội, Tập 29.
TẠP CHÍ KHGD CSND 87
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
đã tạo ra một số hạn chế như: Chưa thực
sự khuyến khích được những hành vi
thực hiện vì mục đích cộng đồng nhưng
có rủi ro hoặc gây ra thiệt hại, do đó, đã
gián tiếp ảnh hưởng tới sự phát triển
kinh tế, xã hội của đất nước; việc bảo vệ
lợi ích của cá nhân thực hiện hành vi gây
thiệt hại nhưng động cơ vì lợi ích chung
hoặc chấp hành mệnh lệnh của cấp trên
chưa thỏa đáng trong trường hợp này.
Đặc biệt, trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền thì việc bảo vệ, đề cao
quyền con người, quyền công dân cần
được xem xét, tăng cường hơn nữa; xét
về thực tiễn phòng, chống tội phạm,
thì tính nguy hiểm cho xã hội của các
hành vi này và hậu quả xảy ra là rủi ro
và ngoài khả năng kiểm soát của người
thực hiện hành vi. Do đó, việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người thực
hiện hành vi gây thiệt hại trên thực tế là
tương đối nặng, chưa phù hợp với bản
chất của hành vi. Việc xử lý hình sự đối
với các hành vi này chưa thật phù hợp
với quan điểm nhân đạo của Đảng và
Nhà nước ta.
Xuất phát từ những bất cập trên, việc
nghiên cứu bổ sung thêm các trường
hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong
BLHS là cần thiết nhằm các mục tiêu
sau: Phù hợp với thực tiễn đấu tranh
phòng, chống tội phạm, góp phần bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội; đảo đảm tốt
hơn quyền con người, quyền cơ bản của
công dân; thể hiện chính sách nhân đạo
của Đảng và Nhà nước trong điều kiện
mới; góp phần thúc đẩy sự phát triển
lành mạnh của xã hội, nâng cao hiệu quả
quản lý của Nhà nước và đề cao trách
nhiệm của cán bộ, công chức trong việc
thi hành công vụ.
2. Những điểm mới của Bộ luật hình
sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) quy định về những trường hợp
loại trừ trách nhiệm hình sự
Trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017), những trường hợp loại
trừ trách nhiệm hình sự được quy định
tại Chương IV, từ Điều 20 đến Điều 26
với một số nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về tên gọi
Trước đây, trên một số sách báo pháp
lý, chuyên khảo Luật Hình sự, các nhà
khoa học, chuyên gia pháp lý đã tiếp cận
đến một hoặc một số trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự ở các mức độ và khía
cạnh khác nhau, bước đầu đã tập trung
kiến giải làm rõ những đặc điểm đặc
trưng của các trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trong các công
trình khoa học này, các nhà khoa học,
chuyên gia pháp lý nêu ra những thuật
ngữ khác nhau đối với những trường hợp
loại trừ trách nhiệm hình sự, chẳng hạn:
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần
chung), Trường Đại học luật Hà Nội năm
2005, gọi là: Những tình tiết loại trừ tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi;
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần
chung), Trường Đại học Cảnh sát nhân
88 SỐ 99 [01 - 2018]
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
dân năm 2005, gọi là: Những trường hợp
không phải là tội phạm; Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (Phần chung) của GS.
TS Võ Khánh Vinh năm 2014, gọi là: Các
tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của
hành vi; Chuyên khảo: Bình luận khoa
học về loại trừ trách nhiệm hình sự của
tác giả Đinh Văn Quế, Nhà xuất bản tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009;
Chuyên khảo: Luật hình sự Việt Nam
(Phần chung) của tác giả Phạm Văn Beo
năm 2009, gọi là: Những tình tiết loại trừ
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Mặc dù tên gọi khác nhau, tuy nhiên về
bản chất thì cơ bản giống nhau, vì đều đề
cập đến những trường hợp không phải
là tội phạm. Do đó, để thống nhất về
tên gọi, tại chương IV BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về:
Những trường hợp loại trừ trách nhiệm
hình sự.
Thứ hai, về hình thức pháp lý
BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm 2009) đã có những quy định loại
trừ trách nhiệm hình sự đối với những
hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng tính
chất nguy hiểm cho xã hội không đáng
kể hoặc một số hành vi tuy có tính nguy
hiểm cho xã hội nhưng không có yếu tố
lỗi của chủ thể hoặc chủ thể không có
năng lực trách nhiệm hình sự. Cụ thể
là tại Khoản 4 Điều 8 quy định những
hành vi không phải là tội phạm; Điều
11 quy định sự kiện bất ngờ; Khoản 1
Điều 13 quy định tình trạng không có
năng lực trách nhiệm hình sự; Khoản 1
Điều 15 quy định Phòng vệ chính đáng;
Khoản 1 Điều 16 quy định tình thế cấp
thiết. Như vậy, các quy định về loại trừ
trách nhiệm hình sự trong BLHS năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) nằm
rải rác ở các điều luật khác nhau và các
trường hợp loại trừ trách nhiệm hình
sự lại được quy định tại chương III: Tội
phạm, không có một chương riêng quy
định về chế định loại trừ trách nhiệm
hình sự. Khắc phục những bất cập nêu
trên, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) quy định những trường hợp
loại trừ trong một chương riêng (chương
IV) độc lập với chương 3 (Tội phạm),
liệt kê đầy đủ các trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự, gồm:
Sự kiện bất ngờ (Điều 20);
Tình trạng không có năng lực trách
nhiệm hình sự (Điều 21);
Phòng vệ chính đáng (Điều 22);
Tình thế cấp thiết (Điều 23);
Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người
phạm tội (Điều 24);
Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm,
áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và
công nghệ (Điều 25);
Thi hành mệnh lệnh của người chỉ
huy hoặc của cấp trên (Điều 26).
Thứ ba, về kỹ thuật lập pháp
Trên cơ sở rà soát, chỉnh sửa một cách
toàn diện các quy định của BLHS năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về
những trường hợp loại trừ trách nhiệm
TẠP CHÍ KHGD CSND 89
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
hình sự, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) đã thiết kế lại về mặt nội
dung lẫn văn phong đảm bảo tính chính
xác, thống nhất, rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp
dụng của các quy định về những trường
hợp loại trừ trách nhiệm hình sự. Cụ thể:
Điều 20 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) quy định về sự kiện bất
ngờ đã lược bỏ bớt cụm từ “ do sự kiện
bất ngờ, tức là”;
Điều 21 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) quy định về tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự
đã thiết kế lại theo hướng: “Người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong
khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình,
thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”,
tức là lược bỏ bớt cụm từ: “Đối với người
này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh” tại Khoản 1 Điều 13 BLHS năm
1999 và “Người phạm tội trong khi có năng
lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm vào
tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này
trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi
khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách
nhiệm hình sự” tại Khoản 2 Điều 13 BLHS
năm 1999. Bởi vì, thực tế những nội dung
này đã được quy định cụ thể tại Điều 49
chương VII: Các biện pháp tư pháp của
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), cho nên việc quy định một lần nữa
tại Điều 21 là không cần thiết.
Điều 22, 23 BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) quy định về phòng
vệ chính đáng và tình thế cấp thiết đã
có những sửa đổi cơ bản về từ ngữ, văn
phong đảm bảo sự chuẩn xác về mặt
thuật ngữ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc nhận thức và áp dụng các điều
luật này trong thực tiễn phòng ngừa và
đấu tranh chống tội phạm.
Đặc biệt, BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) đã quy định bổ sung
thêm 03 trường hợp loại trừ trách nhiệm
hình sự đó là: Gây thiệt hại trong khi
bắt giữ người phạm tội (Điều 24), Rủi
ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp
dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công
nghệ (Điều 25), Thi hành mệnh lệnh của
người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều
26) góp phần đáp ứng yêu cầu thực
tiễn phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm, phù hợp với xu thế chung của các
nước trên thế giới. Việc nghiên cứu bổ
sung thêm các trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự sẽ tạo điều kiện khuyến
khích sự sáng tạo của con người, tạo cơ
sở pháp lý bảo đảm sự yên tâm cũng
như sự thận trọng của chủ thể trong các
hoạt động có rủi ro, cũng như khuyến
khích sự tham gia của quần chúng nhân
dân trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Đồng thời, việc bổ sung
trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
là thực thi mệnh lệnh của cấp trên sẽ góp
phần tăng cường hiệu lực và hiệu quả
quản lý của bộ máy hành chính của Nhà
90 SỐ 99 [01 - 2018]
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
nước ta. Như vậy, có thể thấy ưu điểm
trong việc nghiên cứu bổ sung chế định
loại trừ trách nhiệm hình sự là việc tạo
ra hành lang pháp lý cho các hoạt động
nghiên cứu, thực hiện pháp luật, bảo vệ
pháp luật. Qua đó, sẽ góp phần thúc đẩy
sự phát triển chung của xã hội, không
chỉ về kinh tế mà tạo ra một xã hội trật
tự, tuân thủ pháp luật.
Với việc bổ sung thêm 03 trường hợp
loại trừ trách nhiệm hình sự trong BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017),
thì những hành vi gây thiệt hại khi thực
thi mệnh lệnh của cấp trên; rủi ro trong
sản xuất hoặc thí nghiệm hoặc khi bắt
giữ người phạm tội sẽ không bị coi là tội
phạm. Điều này thể hiện quan điểm nhân
đạo của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời,
nếu xét dưới góc độ của người thực hiện
hành vi gây thiệt hại thì không chỉ bảo
đảm được quyền, lợi ích của họ mà còn
tạo được sự an tâm của các chủ thể khi
thực hiện hành vi vì lợi ích chung hoặc
thực thi công vụ.
Thứ tư, về nội dung pháp lý
Thông qua việc nghiên cứu về những
trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017), chúng tôi cho rằng:
Một là, về cơ bản, so với BLHS năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì
bản chất, nội dung, cơ sở, điều kiện áp
dụng của các trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự không có sự thay đổi quá
nhiều, tuy nhiên được thiết kế lại theo
hướng chặt chẽ về hình thức và chính
xác về nội dung, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc nhận thức và áp dụng pháp
luật hình sự thống nhất trong thực tiễn,
góp phần tạo dựng uy tín, củng cố niềm
tin của nhân dân vào chính sách, chủ
trương, đường lối của Đảng và pháp luật
của Nhà nước.
Hai là, về trường hợp gây thiệt hại
trong khi bắt giữ người phạm tội, Khoản
1 Điều 24 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) quy định: “Hành vi của
người để bắt giữ người thực hiện hành vi
phạm tội mà không còn cách nào khác là
buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây
thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không
phải là tội phạm”. Có thể khẳng định, cơ
sở, điều kiện, quyền hạn bắt giữ người
phạm tội là một chế định của pháp luật
tố tụng hình sự, nhưng việc thực hiện
những hành vi để bắt giữ người phạm tội
mà gây thiệt hại cho người bị bắt giữ lại
là vấn đề thuộc về lĩnh vực hình sự. Sử
dụng vũ lực đối với người thực hiện hành
vi phạm tội cần bắt giữ mà không vượt
quá mức cần thiết thì được loại trừ trách
nhiệm hình sự, được Nhà nước xem là
hành vi tích cực, khuyến khích các thành
viên, cá nhân trong xã hội thực hiện khi
gặp hoàn cảnh mà luật dự liệu. Như vậy,
điều kiện để được loại trừ trách nhiệm
hình sự trong trường hợp này bao gồm:
Người bị bắt giữ là người đã thực hiện
hành vi phạm tội; Người bắt giữ có hành
vi sử dụng vũ lực gây thiệt hại cho người
TẠP CHÍ KHGD CSND 91
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
bị bắt giữ; Hành vi sử dụng vũ lực gây
thiệt hại cho người bị bắt giữ của người
bắt giữ phải cần thiết.
Vấn đề gây thiệt hại trong bắt giữ
người phạm tội được điều chỉnh bằng
pháp luật tố tụng hình sự và ở mức độ
khái quát trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 tại các Điều 110 (Giữ người
trong trường hợp khẩn cấp), Điều 111
(Bắt người phạm tội quả tang), Điều
112 (Bắt người đang bị truy nã), Điều
113 (Bắt bị can, bị cáo để tạm giam). Sử
dụng vũ lực để bắt giữ người phạm tội
là biện pháp cần thiết bảo đảm việc truy
cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, việc
sử dụng vũ lực phải được người sử dụng
nhận thức là hợp pháp và hợp lý, tức là
không vượt quá mức cần thiết. Trong
trường hợp này, người phạm tội cố tình
bỏ trốn hoặc có hành vi khác nhằm thoát
khỏi sự bắt giữ thì có thể bị áp dụng vũ
lực, bị đau đớn hoặc bị tổn thương về sức
khỏe ở mức độ này hay mức độ khác.
Thiệt hại mà người bắt giữ gây ra cho
người phạm tội bị bắt giữ không đòi hỏi
phải ngang bằng với thiệt hại mà người
phạm tội đó đã gây ra. Như vậy, tính hợp
pháp của hành vi gây thiệt hại trong khi
bắt giữ người phạm tội bao hàm các điều
kiện cần thiết, không còn cách nào khác
và không vượt quá giới hạn cần thiết của
việc bắt giữ3.
Bên cạnh đó, để tránh tình trạng lạm
dụng quy định này mà những người bắt
giữ người phạm tội đã sử dụng vũ lực
quá mức cần thiết gây tổn hại sức khỏe,
thể chất của người bị bắt giữ cũng như
các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
họ, Khoản 2 Điều 24 BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:
“Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ
lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì
người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm
hình sự”. Quy định này được xây dựng
dựa trên tinh thần của Hiến pháp năm
2013 về quyền được bảo vệ về sức khỏe,
về thân thể kể cả khi người đó là người
bị bắt giữ: “Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật
bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức,
nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe,
xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Đồng
thời, quy định cũng thể hiện tính ưu
việt của hoạt động nội luật hóa Công
ước Liên hợp quốc về chống tra tấn và
các hình thức đối xử hoặc trừng phạt
tàn bạo vô nhân đạo hoặc hạ nhục con
người (tên gọi tiếng Anh: United Nations
Convention against Torture and Other
Cruel, Inhuman or Degrading Treatment
or Punishment) năm 1984 mà Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
3 GS. TS Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (Phần chung), Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội, Tr. 290 - 292.
TS. Phạm Văn Beo (2009), Luật hình sự Việt Nam
(Phần chung), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, Tr.303 - 306.
92 SỐ 99 [01 - 2018]
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Qua đó, pháp luật hình sự Việt Nam
khẳng định mọi người đều được pháp
luật bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng,
được bảo vệ giá trị con người, đảm bảo
nguyên tắc bình đẳng và công minh của
pháp luật hình sự.
Đối với trường hợp gây thiệt hại do sử
dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần
thiết cho người bị bắt giữ, thì người gây
thiệt hại tuy phải chịu trách nhiệm hình
sự nhưng pháp luật hình sự Việt Nam vẫn
xác định đó là một trong những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định
tại điểm đ Khoản 1 Điều 51 và trong một
số tội phạm liên quan đến việc bắt giữ
người phạm tội, thì mức độ trách nhiệm
hình sự cũng được quy định theo hướng
giảm nhẹ đặc biệt, cụ thể: Tội giết người
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi
bắt giữ người phạm tội quy định tại Điều
126 và Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt
giữ người phạm tội quy định tại Điều
136 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017). Quy định này thể
hiện chính sách hình sự của Đảng và
Nhà nước đối với các trường hợp phạm
tội cụ thể, đảm bảo cơ chế pháp lý để mọi
người dân có ý thức tôn trọng và bảo vệ
pháp luật.
Ba là, về trường hợp rủi ro trong
nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ
khoa học, kỹ thuật và công nghệ, Điều 25
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) quy định: “Hành vi gây ra thiệt
hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu,
thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ
thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân
thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng
đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không
phải là tội phạm”. Như vậy, điều kiện
để được loại trừ trách nhiệm hình sự
trong trường hợp này bao gồm: Người
gây thiệt hại tham gia hoạt động nghiên
cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa
học, kỹ thuật và công nghệ theo đúng
pháp luật và quy định của cơ quan, tổ
chức; thiệt hại phải xảy ra trong khi thực
hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp
dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công
nghệ mới; người gây thiệt hại đã tuân thủ
đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy
đủ biện pháp phòng ngừa.
Thực tế cho thấy, được coi là rủi ro
trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng
tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
nếu những rủi ro này xảy ra khi tiến hành
các hoạt động nhằm mục đích phục vụ
lợi ích xã hội và mục đích đó không thể
đạt được nếu không có sự mạo hiểm xác
đáng và người thực hiện sự mạo hiểm
xác đáng đó đã tuân thủ đúng quy trình,
quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp
phòng ngừa để ngăn chặn thiệt hại có
thể xảy ra cho các lợi ích hợp pháp được
pháp luật hình sự bảo vệ. Việc quy định
trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
TẠP CHÍ KHGD CSND 93
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
này có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo ra
động lực mới cho sự phát triển, tiến bộ
không ngừng của nền khoa học, kỹ thuật
nước nhà, khơi dậy tinh thần và ngọn
lửa đam mê nghiên cứu, thử nghiệm,
áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và
công nghệ mới của các nhà khoa học, các
chuyên gia và của mọi người dân trong
xã hội.
Bên cạnh đó, không được thừa nhận
là rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm,
áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và
công nghệ (hay nói cách khác là không
được thừa nhận sự mạo hiểm có căn cứ
xác đáng) nếu người nào đó trước khi
tiến hành hoạt động nghề nghiệp, sản
xuất hoặc nghiên cứu khoa học đã nhìn
thấy trước nguy cơ đe dọa tính mạng
con người, đe dọa gây ra thảm họa môi
trường hoặc tai họa cho xã hội và không
áp dụng đúng quy trình, quy phạm,
không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng
ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu
trách nhiệm hình sự. Quy định này góp
phần khắc phục tình trạng thiếu trách
nhiệm trong các hoạt động nghiên cứu,
ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ, góp phần giảm thiểu
đến mức thấp nhất những nguy cơ xảy ra
thiệt hại của các hoạt động nghiên cứu,
ứng dụng nói trên.
Bốn là, về trường hợp thi hành mệnh
lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp
trên, Điều 26 BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) quy định: “Người
thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi
thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy
hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ
trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện
đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh
lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu
cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không
phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong
trường hợp này người ra mệnh lệnh phải
chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, việc
thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy
hoặc của cấp trên gây thiệt hại cho xã
hội không phải chịu trách nhiệm hình sự
khi có đủ các điều kiện: Người thực hiện
hành vi gây thiệt hại cho xã hội khi thi
hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc
của cấp trên phải là người làm trong lực
lượng vũ trang nhân dân; thi hành mệnh
lệnh để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh; đã thực hiện đầy đủ quy trình
báo cáo người chỉ huy hoặc cấp trên ra
mệnh lệnh nhưng vẫn bị yêu cầu chấp
hành mệnh lệnh đó4.
Thực tiễn cho thấy, trong hoạt động
quản lý nhà nước, quản lý hành chính
nhà nước nói chung, trong tổ chức và
hoạt động của các lực lượng vũ trang
nhân dân nói riêng, quan hệ phục tùng
- mệnh lệnh có tính đặc thù, xuất phát
4 Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (2016), Những
điểm mới trong Bộ luật Hình sự và Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015, Kỷ yếu Tọa đàm khoa học,
Thành phố Hồ Chí Minh, Tr117 - 129.
94 SỐ 99 [01 - 2018]
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
từ tính chất và yêu cầu kỷ luật tuyệt đối,
thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy
hoặc của cấp trên là yêu cầu bắt buộc
đối với cấp dưới để thực hiện những
nhiệm vụ liên quan đến quốc phòng,
an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã
hội. Mặc dù vậy, những người cấp dưới
thuộc biên chế của lực lượng vũ trang
nhân dân đều là những người am hiểu
về lĩnh vực công tác của mình, có khả
năng nhận thức được đầy đủ tính chất
của mệnh lệnh mà cấp trên ban hành là
đúng hay không đúng. Vì vậy, việc thi
hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc
của cấp trên không phải bao giờ cũng
loại trừ trách nhiệm hình sự của người
thi hành mệnh lệnh. Nói cách khác, nếu
người thi hành mệnh lệnh của người chỉ
huy hoặc của cấp trên không biết hoặc
không có nghĩa vụ phải biết rõ mệnh
lệnh là bất hợp pháp thì họ không phải
chịu trách nhiệm hình sự. Ngược lại,
trách nhiệm hình sự có thể được đặt ra
đối với người thi hành mệnh lệnh của
người chỉ huy hoặc của cấp trên có tính
chất trái pháp luật và nguy hiểm đáng
kể gây thiệt hại cho xã hội, nếu người
thi hành mệnh lệnh nhận thức được và
buộc phải nhận thức được tính trái pháp
luật của mệnh lệnh mà không thực hiện
đầy đủ quy trình báo cáo người chỉ huy
hoặc cấp trên đã ra mệnh lệnh.
Đặc biệt, quy định về loại trừ trách
nhiệm hình sự trong khi thi hành mệnh
lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
không được áp dụng đối với các trường
hợp quy định tại Khoản 2 Điều 421 (Tội
phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm
lược), Khoản 2 Điều 422 (Tội chống loài
người) và Khoản 2 Điều 423 (Tội phạm
chiến tranh) chương XXVI (Các tội phá
hoại hòa bình, chống loài người và tội
phạm chiến tranh) của BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tóm lại, việc ban hành BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã thể
chế hóa chính sách hình sự của Đảng và
Nhà nước ta trong bối cảnh cải cách tư
pháp, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới, tiếp
thu những giá trị của nền văn minh nhân
loại và truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tham khảo kinh nghiệm lập pháp của
một số nước trên thế giới. Đồng thời, tiếp
tục nội luật hóa những cam kết quốc tế
mà Việt Nam đã phê chuẩn vào hệ thống
pháp luật quốc gia, dựa trên kết quả của
quá trình nghiên cứu đánh giá thực tiễn
thi hành BLHS những năm vừa qua. Đặc
biệt, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) đã có những sửa đổi, bổ sung
và hoàn thiện về mặt hình thức, nội dung
pháp lý cũng như kỹ thuật lập pháp về
những trường hợp loại trừ trách nhiệm
hình sự, bước đầu góp phần từng bước
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật hình sự trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
H.M.Đ
TẠP CHÍ KHGD CSND 95
Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Tài liệu tham khảo
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
2. Ban soạn thảo Bộ luật Hình sự (sửa
đổi) (2015), Dự thảo Báo cáo đánh giá
tác động Dự án Bộ luật Hình sự (sửa
đổi), Hà Nội.
3. TS. Phạm Văn Beo (2009), Luật
hình sự Việt Nam (Phần chung), Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. TS. Trần Văn Biên - TS. Đinh Thế
Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật
Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), Nhà xuất bản Hồng Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh.
5. PGS. TS Nguyễn Thị Phương Hoa
- TS. Phan Anh Tuấn (2017), Bình luận
khoa học những điểm mới của Bộ luật
Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), Nhà xuất bản Hồng Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh.
6. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân
(2016), Những điểm mới trong Bộ luật
Hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015, Kỷ yếu Tọa đàm khoa học, Thành
phố Hồ Chí Minh.
7. TS. Trịnh Tiến Việt (2013), Tội
phạm và trách nhiệm hình sự, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
8. TS. Trịnh Tiến Việt (2013), Chế định
loại trừ trách nhiệm hình sự và những yêu
cầu đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật
Hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại
học quốc gia Hà Nội, Tập 29.
9. GS. TS Võ Khánh Vinh (2011), Cơ
chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. GS. TS Võ Khánh Vinh (2014),
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần
chung), Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
Hà Nội.
(Nhận bài: 08/01/2018; hoàn thành biên tập: 15/01/2018; duyệt đăng: 25/01/2018)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_truong_hop_loai_tru_trach_nhiem_hinh_su_trong_bo_luat.pdf